Xu Hướng 6/2023 # Châm Ngôn Và Luật – Sứ Mệnh Gia Đình Phật Tử # Top 12 View | Dtdecopark.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Châm Ngôn Và Luật – Sứ Mệnh Gia Đình Phật Tử # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Châm Ngôn Và Luật – Sứ Mệnh Gia Đình Phật Tử được cập nhật mới nhất trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

CHƯƠNG THỨ HAI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA GIA ĐÌNH PHẬT TỬ

 

Châm ngôn và luật

Gia Đình Phật Tử đã có mục đích hoạt động giáo dục rõ rệt. Điều ấy còn quy định cho đoàn viên một phương hướng cụ thể hơn : Đó là Châm ngôn và Luật.

Trong buổi đầu, khi các Gia Đình Phật Tử mới thành lập, đoàn viên chỉ hiểu một cách giản dị rằng: “Với ý nghĩ, lời nói, việc làm chân chính của người Phật tử em xây dựng Gia đình”. Đến khi việc tổ chức hoàn thành, thì trong bản nội quy đầu tiên, châm ngôn được ghi là hòa thuận, tin yêu, vui vẻ. Châm ngôn ấy cũng chỉ nhắm tạo nên một không khí gia đình. Trên thì có Bác Gia trưởng, thứ đến các anh chị trưởng, rồi tới đoàn sinh. Công việc điều hành cũng đơn giản. Đoàn trưởng chưa có quy chế nhất định. Đoàn sinh chưa có cấp bậc rõ ràng. Nói chung, cấp lãnh đạo chỉ chú trọng tới việc tạo một không khí thân mật để cùng nhau tu học và san bằng những cách biệt giữa các gia tộc riêng tư. Châm ngôn ấy đã được thể hiện đầy đủ.

Tuy nhiên, Gia Đình Phật Tử không ngừng lại ở đó. Với đà phát triển tiệm tiến, năm 1953 danh hiệu Gia Đình Phật Tử ra đời, thì châm ngôn lại chia ra: Bi-Trí-Dũng cho ngành Thanh, Thiếu và giữ lại Hòa Thuận-Tin Yêu-Vui Vẻ cho ngành Đồng. Sự thay đổi ấy hẳn phải có lý do.

Khác với giai đoạn phôi thai từ năm 1940 tới 1954, chỉ gò bó trong phạm vi Gia đình, khi Gia Đình Phật Tử Việt Nam thật sự thống nhất qua Đại hội toàn quốc tháng 1 năm 1953, châm ngôn của Gia Đình Phật Tử đã bắt đầu vượt biên giới Gia đình để đi vào xã hội. Trong bài diễn văn đọc trước Đại hội, anh Trưởng ban Hướng dẫn toàn quốc tiên khởi Võ Đình Cường đã nhấn mạnh vào phương châm hoạt động. Đạo trong Đời và Đời trong Đạo:

“Đạo cần phải tuôn xuống, phải tan ra, phải thấm vào cuộc đời, bồi bổ cho nó, như nước thấm nhuần trong lòng đất. Đạo không thể xa cuộc đời. Hễ xa là cằn cỗi, là ráo khô và không còn nghĩa sống nữa. Đạo phải ở trong Đời, phải phụng sự cõi đời. Nhưng ngược lại, Đời cũng phải ở trong Đạo. Nếu Đạo theo Đời mà không hoán cải được cuộc đời, buông lung theo đời để phải mất gốc, mất bản sắc thì Đạo không còn là Đạo nữa. Vì nó đã mất nhiệm vụ cao cả là hướng dẫn, là chỉ đường. Nói một cách khác, Đạo không thể đi một đường mà Đời đi một đường, Đạo với Đời phải đi sát liền với nhau”.

Đi vào đời, đi vào công tác xã hội, tất nhiên các em Đồng niên không kham nỗi nên các em sẽ được giữ lại châm ngôn cũ. Trái lại Thanh Thiếu niên đi vào đời đòi hỏi một lợi khí tinh thần, một chỉ nam. Lợi khí ấy, chỉ nam ấy thu vào ba tiếng Bi – Trí – Dũng. Đây không phải là ba tiêu chuẩn mà còn là ba đức tính cần thiết cho mỗi Phật tử, cho mọi Phật tử. Về phương diện khách quan, không có Từ Bi thì không có tình nhân loại, nghĩa đồng bào. Không có Trí Tuệ thì mọi hoạt động trở thành gian trá, manh động, phản với chính nghĩa, phản chân lý. Không có Dũng Lược thì sẽ không đủ sức mạnh tinh thần để đưa Đạo vào Đời. Châm ngôn ấy tạo cho Gia Đình Phật Tử một uy tín, một địa bàn hoạt động rộng lớn và vô vị lợi. Về phương diện chủ quan, không có Từ Bi thì dễ sa vào đường ác. Không có Trí Tuệ thì không thể giác ngộ. Không có Dũng Lược thì dễ thành hèn nhát, xu phụ, thiếu nghị lực. Châm ngôn Bi Trí Dũng đã bắt nguồn từ ba tiếng Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi trong Lăng Nghiêm Thập Chú, nhưng đã được thanh niên hóa, hiện đại hóa.

Đến năm 1961, trong hoàn cảnh bị khủng bố, Đại hội Gia Đình Phật Tử vẫn họp tại chùa Xá Lợi Việt Nam. Tinh Thần Bi Trí Dũng đã bộc lộ đến cao độ. Mặc dầu bị chèn ép, đại hội cũng vẫn có một phút mật niệm anh chị em đã bỏ mình vì lý tưởng. Vấn đề lớn trong đại hội này là tinh thần đòi hỏi thống nhất qua lời thuyết trình của anh cựu Trưởng ban Hướng dẫn Nam Việt Tống Hồ Cầm (biên giả xin ghi nhận sự hy sinh rộng lớn của anh chị em Gia Đình Phật Tử Nam Việt trong công lao chuẩn bị đại hội rất hoàn mỹ), của đạo hữu Nguyễn Đức Lợi, đại diện hai hệ thống Gia Đình Phật Tử của Giáo hội Tăng già Bắc Việt tại miền Nam và Hội Việt Nam Phật Giáo. Đại hội còn đòi đổi danh hiệu Gia Đình Phật Tử thành đoàn Thanh Niên Phật Tử Việt Nam. Lúc bấy giờ trên đất nước này chỉ có Gia Đình Phật Tử là tổ chức thanh niên Phật giáo duy nhất. Ý kiến sửa đổi danh hiệu này rất hợp lý, hợp với bước tiến nhanh của Gia Đình Phật Tử.

Thế nhưng, một số anh chị em vì nặng tình với dĩ vãng đã cố muốn giữ lại. Chính TT. Thích Thiện Minh cũng khuyên nên giữ lại vì lý do an ninh của tổ chức và tinh thần bất hợp tác của Gia Đình Phật Tử đối với chính quyền. Cơ hội ngàn năm một thuở đã qua. Đến nay, theo hệ thống đã tổ chức của Tổng vụ Thanh niên trong Viện Hóa Đạo thì đã có đoàn Thanh niên Phật tử rồi. Thật ra, nếu vì quá thương yêu dĩ vãng mà không tán thành việc sửa đổi thì thử hỏi trước kia, khi đổi danh hiệu Gia đình Phật Hóa Phổ ra Gia Đình Phật Tử thì không hiểu tổ chức ta tiến hay lùi? Trong việc giao thiệp với quần chúng ngày nay, việc liên lạc với các đoàn thể thanh niên quốc tế, chúng ta gặp nhiều khó khăn. Trong khi chúng ta hoạt động đến hy sinh cả thân sống thì qua các báo chương, người ta nhầm lẫn chúng ta với các đoàn bạn. Bạn có thể trách biên giả thích bề ngoài nhưng cũng xin hiểu cho là mấy dòng này biên giả viết lên chính vì đã nghĩ tới những hy sinh âm thầm của những anh chị em, nhất là anh chị em đang hoạt động tại nông thôn. Sự có mặt của Gia Đình Phật Tử phải được biết tới. Trong lúc này, thiếu sự quảng bá cũng là một trở ngại cho việc phát triển phong trào.

Tuy thế trong tinh thần, Gia Đình Phật Tử vẫn là một tổ chức thanh niên có quy củ, có uy tín. Trong cuộc hội thảo Huynh trưởng miền Khánh Hòa tại Vũng Tàu vào cuối tháng 10 vừa qua, Thượng tọa Viện trưởng Viện Hóa Đạo đã tuyên bố: “Giáo hội không có Gia Đình Phật Tử là Giáo hội chết“.

Trong bản nội quy mới nhất do Đại hội Huynh trưởng toàn quốc họp tại Saigon ngày 30.6.1964, châm ngôn của Gia Đình Phật Tử chỉ còn lại ba tiếng Bi Trí Dũng chung cho các ngành Thanh, Thiếu, Nhi nam nữ. Phải chăng đây là giai đoạn hoàn thành của một lý tưởng đã đeo đuổi từ 20 năm nay? Gia Đình Phật Tử đã thực sự là một đoàn thể thanh niên Phật giáo. Thú vị hơn nữa là huy hiệu Hoa sen đã trở thành biểu tượng chính của các đoàn thể trẻ trong Tổng vụ Thanh niên. Theo nội quy mới, Gia Đình Phật Tử không còn là sinh hoạt của một Gia đình. Từ thành phần Ban Hướng Dẫn cho tới sự sinh hoạt riêng biệt của hai ngành nam, nữ; từ sự thoát ly ra khỏi vỏ tập đoàn, Gia Đình Phật Tử đã có đủ điều kiện lập thành một tổ chức thanh niên tôn giáo hợp với quy mô tổ chức quốc tế. Hơn nữa “Gia trưởng là một cư sĩ từ 30 tuổi trở lên có uy tín trong Ban đại diện Giáo hội cấp xã, phường hay chi khuôn và hiểu biết về Gia Đình Phật Tử do Ban Huynh trưởng mời và được sự đồng ý của Ban Hướng Dẫn Tỉnh”.

“Nếu Liên đoàn trưởng từ 30 tuổi trở lên có đủ tư cách và uy tín với Ban đại diện Giáo hội cấp xã, phường hay chi khuôn có thể kiêm chức Gia trưởng”. Như vậy khuôn khổ Gia đình chỉ còn lại là một hình bóng cũ… và trong nội dung Gia Đình Phật Tử thực sự là một đoàn thể thanh niên. Giàu có hơn nữa là người thanh niên ở đây phải làm hai nhiệm vụ một lúc : hoạt động xã hội và dạy dỗ đàn em. Trên nguyên tắc một đoàn thanh niên không thể có các em dưới 18 tuổi. Nhưng trên thực tế, trong Gia Đình Phật Tử đã có đủ hạng tuổi. Hướng đạo có sói con thì ta có Đồng niên. Vấn đề quan trọng ở đây là việc phát triển ngành Nam, Nữ Phật tử, một ngành quan trọng trong việc đào luyện Huynh trưởng và hoạt động xã hội.

Trong hiện tình đất nước, Gia Đình Phật Tử không thể tự ghép mình trong khuôn khổ chật hẹp và tù túng cho việc bành trướng. Từ châm ngôn Hòa thuận, Tin yêu, Vui vẻ tới Bi, Trí, Dũng, từ Gia đình Phật Hóa Phổ tới Gia Đình Phật Tử, từ mục đích giáo dục tới mục đích góp phần xây dựng xã hội, Gia Đình Phật Tử đã tiến những bước dài vững chãi. Để bảo đảm cho con đường đi tới, mỗi đoàn viên phải hiểu rõ sự tiến bộ của châm ngôn. Châm ngôn đúng thì hành động mới đúng được.

 

Luật trong Gia Đình Phật Tử

Tâm hồn có những nguyên lý, để phân biệt đồng nhất với mâu thuẫn, để lựa chọn điều thiện với ác, hướng đến thẩm mỹ hay thô sơ. Những nguyên lý ấy là động cơ đưa con người đến toàn thiện hay tội lỗi. Là một đoàn thể giáo dục và thanh niên, Gia Đình Phật Tử đã đặt ra những châm ngôn để làm hướng tiến tới lý tưởng. Đời người có rất nhiều mục đích phải thực hiện. Công danh, sự nghiệp, đời sống.

Nhưng có một mục đích vượt cao lên trên mọi mục đích ấy là lý tưởng. Con người sống ở đời như bơ vơ trên thuyền con lạc ra giữa biển đời trong một đêm tăm tối. Muốn vào bờ giải thoát tất phải có định hướng. Trên cảnh tối tăm ấy, người có ý thức phải hướng vào ngôi sao Bắc đẩu. Chẳng phải vì ta không nắm được vì sao trong tay mà ta có quyền không hướng theo nó. Cũng một lẽ ấy, chẳng phải vì lý tưởng khó thực hiện mà ta có quyền đồng hóa nó với ảo tưởng, không tưởng hay bằng lòng với cuộc đời vô lý tưởng. Đời ta có hai lần khóc : khi ra đời ta khóc cho đời và mai kia mất đi đời sẽ khóc cho ta. Việc khóc cho đời thì ta đã khóc từ lâu, nhưng còn đời khóc cho ta hay không thì còn tùy thuộc vào sự nghiệp ta đóng góp cho đời. Có những người đang còn sống mà đời mong cho họ chết để được cười hay sẽ phỉ nhổ khi nghe tin họ chết. Tự nguyện sống cuộc đời lý tưởng là việc dễ, nhưng thực hiện cho được lý tưởng mới là chuyện khó. Người Phật tử may mắn nương theo ánh đạo để thực hành lý tưởng Tự giác, Giác tha. Đến như một đoàn viên Gia Đình Phật Tử thì lý tưởng ấy bình dị hóa qua châm ngôn Bi Trí Dũng. Nhưng châm ngôn ấy là thực tưởng tàng trung. Người bạn trẻ còn phải hình ngoại châm ngôn ấy. Đó là lý do hình thành các điều luật.

Cũng như quá trình phát triển chung, từ buổi manh nha cho tới hiện tại luật cũng có cải tiến cho phù hợp với lịch trình tiến hóa của tổ chức.

Khi đoàn Phật học Đức Dục ra đời, Gia đình Phật Hóa Phổ đã có mười điều luật nói rõ định hướng quy y Tam Bảo, tự luyện tự tu và kết thúc bằng câu “Phật tử làm tròn bổn phận”. Mười điều luật ấy rất đầy đủ nhưng không phù hợp với tổ chức thanh thiếu nhi. Thế nên, Đại hội Gia Đình Phật Tử toàn quốc năm 1952 đã sửa đổi:

 

Luật của Huynh trưởng và Trưởng thiếu niên nam nữ:

 

1.Phật tử quy y Phật Pháp Tăng và giữ giới đã phát nguyện.

2.Phật tử mở rộng lòng thương và tôn trọng sự sống.

3.Phật tử trau dồi trí tuệ, tôn trọng sự thật.

4.Phật tử trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm.

5.Phật Tử sống hỷ xả để dũng tiến trên đường đạo.

 

Đọc qua 5 điều luật trên, hẳn ai cũng nhận thấy rất phù hợp với lý tưởng Phật hóa và châm ngôn Bi Trí Dũng.

 

Và luật của đồng niên nam nữ:

 

chúng tôi tưởng nhớ Phật.

chúng tôi kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em.

chúng tôi thương Người và vật.

 

Những luật ấy không phải là những tiêu chuẩn có công năng duy trì một thứ trật tự giả tạo ở bên ngoài mà chính là những quy luật tinh thần tất yếu và phổ quát. Tất yếu vì không một đoàn viên nào có quyền xao lãng việc khắc ghi và thể hiện; phổ quát vì mọi đoàn viên đều phải tuân theo không phân biệt già trẻ trai gái. Đoàn viên Gia Đình Phật Tử có thể là em bé từ 7 tuổi cho tới ông già 70, miễn rằng có tinh thần vì Đạo, vì Đời và vì Trẻ. Khác với các luật khắc khe của luân lý, luật Gia Đình Phật Tử đã dựa trên một nền tảng tín ngưỡng vững chắc chứ không phải do sự ràng buộc của xã hội. Trong một thời đại mà con người chỉ biết sợ hãi uy quyền và sẵn sàng dối mình dối người. Luật Gia Đình Phật Tử đã tạo ra những nút dây tinh thần căn cứ vào lòng tin sâu xa vào giáo lý và một tính tự giác rất vững chắc. Khi nói tới luật bao giờ người ta cũng liên tưởng tới sự thưởng phạt của xã hội, dư luận hay lương tâm. Nhưng thật ra, rất nhiều triết gia đã chứng minh rằng lương tâm không phải lúc nào cũng có đủ khả năng tất yếu để buộc con người hướng thiện một khi nó đã không dựa trên một nền tảng siêu hình vững chắc. Nhất là trong lúc này, thay vì lương tâm cá nhân là tiếng nói phân biệt thiện ác, thì người ta lại dùng lương tâm của mình để buộc tội kẻ khác và tha thứ cho tội ác của mình. Khi mà luật pháp đôi khi trở thành công cụ của bạo quyền và dư luận chỉ là tổng hợp của những tâm trí vô minh thì lương tâm ấy, dư luận ấy, luật pháp ấy chỉ còn là những mối che đậy hay nguyên nhân của tội ác. Cho nên, nói tới luật Gia Đình Phật Tử thì phải nói tới đức tự nguyện, tự giác. Có tự nguyện thì không ai bắt buộc người đoàn viên phải theo một cách cưỡng bức và mù quáng. Có tự giác vì chính người đoàn viên thấy rõ lẽ phải, có lợi ích cho việc tu tập mà tuân theo. Hơn nữa, sự thưởng phạt tinh thần ở đây cũng không ngoài ý nghĩa sám hối.

Để tâm niệm cho những phương thế thực hiện lý tưởng ấy, người đoàn viên Gia Đình Phật Tử phải cố gắng ứng dụng luật vào ý nghĩ, lời nói và việc làm.

Sau châm ngôn, luật là những thể thức có thay đổi cho phù hợp với lịch sử tiệm tiến của Gia Đình Phật Tử còn cần phải biết tới những hình thức cố định biểu thị đường lối chính đáng và tiêu chuẩn giáo dục sáng suốt mà những người sáng lập tổ chức đã quan niệm đúng từ phút đầu.

Nếu các Đại hội Huynh trưởng toàn quốc 1952, 1957, 1961, 1964 đã luôn luôn cố gắng cải tiến Nội quy, Châm ngôn, Luật thì có những thực thể tinh thần vẫn được duy trì chung thủy đủ bảo đảm cho nhất trí tính của Gia Đình Phật Tử. Đó là màu áo lam, hoa sen trắng, khẩu hiệu tinh tấn và bài ca chính thức.

Mục Đích Gia Đình Phật Tử

( Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Hướng Thiện

do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2005 – PL 2549 )

I. VĂN :

1.  Qúa trình hình thành và phát triển GĐPT :

a.  Giai đoạn khởi đầu :

Từ năm 1932 đến năm 1940 : Từ phong trào chấn hưng Phật giáo của sư  Khánh Hoà, cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám được quý thầy và đạo hữu tín nhiệm sáng lập đoàn Đồng Ấu Phật tử và Gia đình Phật hoá.

Từ năm 1940-1944 : Đoàn Phật học Đức Dục ra đời, là nơi đào tạo trưởng cho hai đoàn đã có. Cư sĩ Đinh Văn Nam hoạt động mạnh trong giai đoạn đầu ( cư sĩ Đinh Văn Nam tức Hoà thượng Thích Minh Châu).

b.  Giai đoạn phục hưng :

Do ảnh hưởng những năm cuối của chiến tranh Thế giới II, các hoạt động đều tạm ngưng. Mãi đến 1947, ba tổ chức trên tái  sinh hoạt với tên gọi Gia Đình Phật Hoá Phổ.

c.  Giai đoạn phát triển:

Năm1951, một Đại hội thống nhất các Gia Đình Phật Hoá Phổ được tổ chức tại chùa Từ  Đàm ( Huế ) lấy danh hiệu chung là Gia Đình Phật Tử.

2.  Mục đích của GĐPT:

Sau công cuộc thống nhất giáo hội năm 1963, mục đích của GĐPT được tu chỉnh vào năm 1964 và không thay đổi cho đến nay : Mục đích của GĐPT nhằm “ Đào luyện thanh, thiếu, đồng niên thành Phật tử chân chánh, góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo ”.

II. TƯ :

1. Việc hình thành và phát triển GĐPT là do công đức sâu dày của quý thầy, quý bác, quý anh chị đã đầu tư để góp phần giáo dục thế hệ trẻ tin Phật.

2. Tiến trình phát triển GĐPT là công sức của nhiều thế hệ trong đó có chính chúng ta, chúng ta phải tỏ ra xứng đáng ( bằng chính việc tu học của bản thân và góp phần xây dựng Đội, Chúng, Đoàn, Gia đình,…).

3. Tương lai của GĐPT tuỳ thuộc vào thế hệ đoàn sinh hôm nay. Sinh hoạt, học tập theo đúng tinh thần, mục đích của GĐPT là góp phần xây dựng GĐPT vững mạnh.

 III. TU :

1. Tu và học, biết và làm, nói và làm, … đó là những điều cần được em thực hiện tốt.

2. Hãy bắt đầu từ những việc đơn giản nhất và cơ bản nhất ( nhưng cũng sẽ là khó nhất nếu ta thiếu quyết tâm ) là : làm tất cả các việc lành và xa lìa các việc xấu, ác.

3. Biết tuân kỷ luật, nghe lời anh chị trưởng.

 IV. CÂU HỎI :

1. Em ghi nhớ được điều gì trong quá trình hình thành và phát triển GĐPT ?

2. Tại sao nói tương lai GĐPT tuỳ thuộc vào thế hệ đoàn sinh hôm nay ?

3. Em phải làm gì để xứng đáng là một đoàn sinh của GĐPT ?

4. Mỗi ngày trung bình em làm được mấy việc thiện ? Số việc ác bằng, ít hay nhiều hơn số việc thiện mỗi ngày ? Em làm sao để nhớ, biết điều đó ? Em có sổ việc thiện không ? Tại sao ?

Câu Châm Ngôn Của Phật Tử

Câu Châm Ngôn Của Phật Tử

Chúng ta cùng nhau tụ họp về đây để nghiên cứu Phật Pháp, nhưng mọi người cũng không nên chấp trước vào Phật Pháp. Chúng ta nên quán sát mọi việc một cách khách quan và phân tích sự vật bằng trí huệ vốn có của mình. Đừng mê tín hay tin tưởng một cách mê muội, gượng gạo. Chúng ta cũng không nên nhận giặc làm con, lấy trái làm phải, đen trắng chẳng phân minh, thiện ác điên đảo. Điều quan trọng nhất là chúng ta nên làm người Phật tử chân chánh trong việc tìm cầu chân lý, chớ chẳng dùng thủ đoạn như người đui dẫn người mù, thôi miên dân chúng khiến họ tin theo một cách hồ đồ, rồi làm những việc thiện ác hỗn độn để nhầm lẫn về nhân quả. Người học Phật nên chú ý về điểm nầy.

Tại sao chúng ta cần phải học Phật Pháp? Có phải vì chúng ta có chỗ tham cầu chăng? Nếu người nào có tham cầu thời đừng nên học. Học Phật nhất định là phải loại bỏ lòng tham, nếu không thì sân, si sẽ dễ phát sanh. Một khi ta có lòng tham, lòng sân và lòng si sẽ phát sanh theo, như vậy thì khỏi bàn gì đến giới, định, huệ nữa.

Bởi tự tánh của chúng ta vốn đã là Phật, cho nên khi nghiên cứu học tập Phật Pháp, chúng ta không nên tham cho mau, tham được tự tại, hoặc tham có thần thông. Vì những sự theo đuổi đó đều trái ngược với đạo, khiến ta quên mất ý nghĩa chân thật của việc học Phật. Chúng ta vốn muốn xuất ly biển khổ, ra khỏi nhà lửa của tam giới và rời khổ được vui, mà lại tham cầu tức là càng học thì càng khổ thêm.

Lục Đại Tông Chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ chính là câu châm ngôn của những người Phật tử. Nếu lúc nào, ở đâu chúng ta cũng có thể thực hành theo, tức chúng ta mới là người Phật tử thật sự hiểu rõ được Phật Pháp.

Nói đi nói lại gì, tôi cũng nói bấy nhiêu đạo lý đó thôi, tuy có vẻ rất cạn cợt đấy, nhưng quý vị cũng không dễ gì làm được đâu. Nếu quý vị làm được thì cũng sẽ sớm thành Phật. Nếu quý vị cung hành thực tiễn theo Lục Đại Tông Chỉ nầy mà không thành Phật, thì tôi sẽ ở mãi dưới địa ngục và không bao giờ thoát ra. Tôi tin tưởng và bảo đảm rằng: Người nào tu hành theo Lục Đại Tông Chỉ nầy, tương lai nhất định sẽ thành Phật.

Giảng ngày 20 tháng 5 năm 1985

Khai Thác Bảo Tàng Trong Tự Tánh

Từ nhiều năm qua cho đến bây giờ, đều chỉ là tôi nói cho quý vị nghe. Vậy bắt đầu từ nay trở đi, quý vị sẽ là người nói cho tôi nghe. Tại sao? Vì như vậy là dạy quý vị mỗi người biết khai thác vật bảo bối trong quặng mỏ trí huệ tự tánh của mình. Chúng ta đem các vật báu như vàng, bạc, kim cương, xa cừ, mã não, ngọc thạch… trong quặng mỏ ra để cho mọi người thưởng thức, như vậy mới công bình. Nếu không, rốt cuộc không ai biết được trong kho tàng của quý vị có những thứ bảo bối gì.

Kỳ giảng thuyết về kinh Niết Bàn nầy được gọi là Ban Nghiên Cứu Phật Pháp. Bất luận là người xuất gia hay tại gia, ai nấy đều nên tranh đua nhau để lên bục giảng trước.

Quý vị nên lấy việc nghiên cứu Phật Pháp, hoằng pháp, bố thí và việc phổ độ chúng sanh làm trách nhiệm của mình. Quý vị phải có tư tưởng như thế thì mới có tư cách làm người Phật tử.

Quý vị! Hiện quý vị có cơ hội tốt để nghiên cứu Phật Pháp như vậy, đây thật là ngàn năm khó gặp. Cho nên quý vị nên nắm lấy thời cơ, đừng để vuột mất cơ hội. Nếu không thì cũng như mình vào trong núi báu mà về tay không, đó là việc đáng tiếc lắm thay!

Quý vị hãy suy nghĩ đi, tới đâu mà có thể tìm được một đạo tràng thanh tịnh như vầy. Tôi dám nói là tìm khắp cả trên thế giới, e rằng tìm cũng không ra! Chúng ta may mắn đã gặp được, thì nên chuyên tâm nghiên cứu Phật Pháp, và tự phát huy tài ba của chính mình. Vậy tại sao khi đến giờ lên bục giảng, thì người nầy đẩy qua người kia, chứ không chịu lên trước? Thật là làm cho tôi thất vọng vô cùng.

Tôi đã từng nói, khi người thứ nhất giảng sắp xong, thì người thứ hai phải chuẩn bị đi lên. Như vậy mới không lãng phí thời gian. Ý tôi muốn huấn luyện cho quý vị có kinh nghiệm hoằng pháp, vì mỗi một cá nhân đều có đủ biện tài vô ngại. Như vậy chờ đến lúc quý vị chánh thức đi hoằng dương Phật Pháp, thì sẽ có cảnh “Thiên hoa loạn trụy, địa dũng kim liên,” tức là hoa trời rơi xuống, đất mọc sen vàng. Như thế quý vị mới đảm nhiệm được sứ mạng “tiếp tục huệ mạng” của Phật!

Đây gọi là: “Sư Phụ đưa đến cửa, tu hành do mỗi người.” Lúc tôi mới học Phật Pháp, không có ai chỉ dạy, không có ai khuyến khích, lại cũng không có ai đề bạt, nâng đỡ tôi cả. Cho nên tôi hy vọng quý vị sẽ tự lực tự cường, không ngừng tiến bước và đừng sanh tâm ỷ lại. Nếu như chuyện gì quý vị cũng có tâm lý ỷ lại vào Sư Phụ, quý vị sẽ vĩnh viễn không bao giờ được giải thoát.

Chúng ta học Phật Pháp, tức là học trí huệ chân chánh. Một khi đã có trí huệ rồi, chúng ta sẽ giải quyết tất cả vấn đề một cách dễ dàng. Bất luận làm công việc gì, chúng ta cũng có thể làm được một cách hoàn toàn mỹ mãn. Còn như chỉ dùng tâm ý thức để giải quyết vấn đề, chúng ta sẽ do dự và thiếu nghị lực để quyết đoán mọi việc. Vì thế dù làm chuyện gì, chúng ta tuyệt đối cũng không thể thành công được.

Muốn học được trí huệ chân chánh, trước hết là chúng ta phải đoạn dục. Làm sao để đoạn dục đây? Tức là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Lục Đại tông chỉ nầy là Pháp bảo để đoạn dục, khiến cho quý vị thâu hoạch được trí huệ chân chánh. Lúc bấy giờ, đối với duyên khởi của vạn sự vạn vật, quý vị sẽ thân thuộc như lòng bàn tay mình, và biết phân tích rất là rõ ràng. Như vậy quý vị có thể phân biệt được phải trái, thiện ác và tuyệt đối không làm những chuyện điên đảo.

Giảng ngày 24 tháng 6 năm 1985

Tất cả các chữ Hoa đều có ý nghĩa và được cấu tạo theo những quy tắc nhất định. Mỗi chữ khi được tạo thành là đều có sự giải thích riêng của nó. Các văn tự Trung Hoa được cấu tạo theo sáu cách như: chỉ sự, tượng hình, hình thanh, hội ý, chuyển chú và giả tá.

Về Tượng hình: như chữ “mã” ngựa (馬 có bốn chân, chữ “lộc” hươu (鹿 thì bên trên có một chấm, còn chữ “dương” dê (羊 thì bên trên có hai chấm, vì chữ hươu và dê đều là biểu thị cho loài có sừng. Chữ “ngưu” trâu bò (牛 có nét phẩy bên trái, biểu thị cho cá tánh của loài trâu bò rất mạnh và thường cụng húc qua một bên. Cho nên mỗi chữ đều có ý nghĩa riêng của nó, và chúng ta cũng nên biết thêm về sáu cách cấu tạo chữ nầy. Ngoài ra cũng có lục nghệ, tức sáu nghề là: Lễ, nhạc, xạ, ngự, thơ, số. Ngài Khổng Tử có ba ngàn học trò, nhưng tinh thông lục nghệ thì chỉ có bảy mươi hai người. Lễ là lễ nghĩa; nhạc là âm nhạc; xạ là bắn cung và cũng bao gồm cả võ thuật; ngự là chỉ về cưỡi xe ngựa ở thời xưa, nhưng hiện nay là bao gồm cả lái xe, lái máy bay, lái tàu thủy… Thơ là phương pháp viết chữ, đại thể thì phân thành năm cách viết: triện, lệ, khải, hành, thảo. Số là số học, cho nên nói: “Tri mỗ số, thức mỗ danh,” người biết số học thì sẽ hiểu văn học.

Hiện nay người ta chế ra hỏa tiễn, phi đạn vốn phát minh từ trong ngành toán số. Như việc dùng điện não computer để điều khiển hỏa tiễn bay bao xa cũng đều không ngoài môn toán số.

Cho đến như âm nhạc, thì trong thời tụng niệm của Phật Giáo là thuộc về âm nhạc. Cho nên hễ ai đánh mõ có nhịp nhàng tiết tấu sẽ có công đức. Còn nếu người nào gõ mõ với tâm bực dọc, hoặc gõ quá lớn tiếng, hoặc gõ quá nhỏ thì sẽ có tội. Tán tụng cũng như là dùng âm nhạc để cúng dường Phật. Cho nên nếu một mặt cúng dường, một mặt lại giận hờn, quý vị nghĩ như thế Phật có hoan hỉ không? Dùng âm nhạc để cúng dường Phật vốn có rất nhiều công đức, nhưng khi phát giận quý vị không tán tụng được, mà lại còn dộng chuông gõ mõ loạn xạ cả lên, vậy tức là có tội rồi.

Tu hành là từ mỗi việc làm về mọi phương diện, không có nơi nào mà chẳng phải là nơi tu hành. Mà cũng không phải chỉ là ngồi thiền, hoặc lạy Phật mới là tu hành. Vì vậy ăn cơm, mặc áo, cho đến nhất cử, nhất động đều là tu hành cả. Tu hành tức là phải điều phục thân tâm. Điều thân là làm cho thân thể không sanh bệnh tật và giữ cho mình được khỏe mạnh. Nhưng cũng không phải là quá yêu quý nó: lạnh cũng không được, nóng cũng không được, khát cũng không được, đói cũng không được, không phải là quá nuông chiều cho thân xác. Chúng ta phải ra công kiềm chế để rèn luyện thân thể, chỉ cần không tổn hại nó là được rồi. Chứ không phải vì yêu quý thân thể mình như tấm gương dễ bể, không ai đụng đến được.

Trong các sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cũng nên tự rèn luyện lấy mình, vậy mới là tu hành. Đi đứng nằm ngồi, không lúc nào là không tu hành. Tu hành không có nghĩa là chỉ có hai thời tụng niệm sớm tối mới là tu hành. Mà lúc bình thường, nhất cử, nhất động, nhất ngôn, nhất hành, chúng ta đều nên hòa hợp với tiết tấu, phù hợp với qui tắc, bởi tự tánh trong mỗi chúng ta đều có “âm nhạc” cả. Chúng ta phải tu sao cho được tâm bình khí hòa, không sanh phiền não, không nhân, không ngã và không có vô minh. Nếu chúng ta ghen ghét người hiền tài, hoặc thích làm những chuyện viễn vông, hoặc tự vỗ ngực khoe tài để mình được danh tiếng, thì đó không phải là âm nhạc đâu. Nếu mỗi ngày chúng ta tu hành đúng pháp, thì đó mới là âm nhạc.

Tự mình tu cho được tâm bình khí hòa và rèn luyện tánh tình, vì chúng ta vốn không cần phải tìm kiếm âm nhạc ở bên ngoài. Bởi vì tâm chúng ta không hòa bình, cho nên phải giả mượn âm nhạc bên ngoài để tự thăng bằng lại.

Nếu t âm có thể bình hòa được thì lúc nào chúng ta cũng sẽ tràn đầy khí khái tốt lành, đó mới chính là “âm nhạc” chân thật đấy. Còn về lục nghệ: lễ, nhạc, xạ, ngự, thơ, số; sáu thứ nầy vốn đã bao gồm trong tự tánh của chúng ta rồi. Nếu trọn ngày chúng ta có thể không nói lời vô ích, không nghĩ điều vô vị và có thể tự điều phục tâm mình cho được bình thản, an ổn, không bị câu thúc, không vướng mắc chướng ngại, không nhân, không ngã, không phải không trái, thì quý vị nói đi, đó không là âm nhạc thì là cái gì?

Khi Khổng Tử ở nước Tề nghe nhạc Thiều, ông đã không biết gì đến mùi vị thịt trong ba tháng trời. Nếu quý vị hiểu được âm nhạc của tự tánh, đâu cần nói đến mùi thịt, mà ngay cả đến mùi nước, quý vị cũng không biết, hoặc có chua, ngọt, đắng, cay gì, quý vị cũng đều không biết luôn. Khi đó mới gọi là quý vị đã đạt đến cảnh giới “nhìn mà không thấy, nghe mà không nghe, ăn mà không biết mùi vị.” Quý vị nên chú ý: Chớ xem tự tánh của mình như bãi chiến trường để đấu tranh, nếu thế thì không phải là âm nhạc đâu.

chuavanphat.org

Lời Phật Dạy Về Hôn Nhân Và Gia Đình Rất Hay

Giáo lý của đạo Phật hướng đến mục đích giải thoát và giác ngộ, xuất ly thế gian. Tuy nhiên, giáo lý ấy luôn đặt trên nền tảng nhân bản, hướng đến con người và nhằm giúp cho con người có được hạnh phúc trong cuộc sống, cho nên những lời dạy của đức Phật không xa rời thực tiễn, không phản lại hiện thực của xã hội.

Hơn nữa, tín đồ theo đạo Phật phần lớn là những người Phật tử tại gia, hàng ngũ xuất gia chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ. Chính vì vậy, đức Phật đã dạy những vấn đề về hôn nhân, gia đình, và nêu lên những quan điểm của Ngài về vấn đề ấy để giúp cho các Phật tử sống theo chánh pháp nhưng vẫn có được hạnh phúc trong đời sống gia đình.

Có thể nói rằng, bản chất của tình yêu và hôn nhân không có gì xấu. Tình yêu và hôn nhân là chuyện thường tình của con người, nó trở nên tốt đẹp hay không tốt đẹp là hoàn toàn tuỳ thuộc vào người tạo dựng nó. Đức Phật không hề bác bỏ vấn đề nam nữ yêu nhau, nhưng Ngài dạy từ lúc yêu thương đến lúc chung sống với nhau thì phải phù hợp với các chuẩn mực đạo đức của xã hội, phải hợp với đạo lý làm người. Người nam và người nữ sống bên nhau phải có hạnh phúc.

Trong kinh Đại Bảo Tích đức Phật đã nhận định rằng: “Nếu một người đàn ông có thể tìm được một người vợ, người phụ nữ thích hợp và hiểu biết; người phụ nữ có thể tìm được một người đàn ông thích hợp và hiểu biết, cả hai thực sự may mắn”.

Như vậy là đức Phật đã không bác bỏ vấn đề hôn nhân gia đình mà còn đề xướng hôn nhân dựa trên sự tìm hiểu lẫn nhau, hiểu biết về nhau giữa nam và nữ, sự phù hợp lẫn nhau giữa hai người rồi mới đi tới hôn nhân chứ không phải là hôn nhân do sự ép buộc hoặc là vì những lý do không chính đáng. Nếu hai người không phù hợp với nhau mà vẫn phải chung sống với nhau thì như vậy là không may mắn cho họ, họ sẽ rất khó có được hạnh phúc trong đời sống hôn nhân của mình.

Hai người thương yêu nhau và tiến đến hôn nhân là một nhân duyên lớn. Hôn nhân này hạnh phúc hay khổ đau là phụ thuộc vào phẩm chất đạo đức, nhân cách của đôi vợ chồng. Trong đời sống hôn nhân có rất nhiều vấn đề nảy sinh, có lắm chuyện phũ phàng, nằm ngoài dự tính của con người, nếu như hai người đã trang bị sẵn sàng những đức tính bao dung, cần mẫn, chân thành, nhẫn nại và khiêm tốn, thương yêu và tôn trọng lẫn nhau, có trách nhiệm về đời sống của nhau thì chắc chắn cuộc hôn nhân của hai người sẽ mãi mãi hạnh phúc.

Ngày nay có không ít những đôi vợ chồng sống với nhau không mấy hạnh phúc, và cũng đã có những đôi vợ chồng phải đi đến việc ly hôn. Đấy là một thực trạng đáng buồn, đáng được lưu tâm trong đời sống xã hội. Nếu như cuộc hôn nhân của cha mẹ bị đau khổ và bất hạnh thì không chỉ tội nghiệp cho chính bản thân họ mà còn tội nghiệp cho các con của họ nữa. Đây là một trong những vấn nạn và trở thành gánh nặng của xã hội.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những bất hạnh trong đời sống hôn nhân. Có những cuộc hôn nhân mà hai người chưa thực sự hiểu biết về nhau, có thể là do sự gán ép của cha mẹ hai bên, cũng có thể là do chính bản thân hai người không làm chủ được hành vi của mình, trong một phút nông nỗi đã để lại hậu quả đáng tiếc nên buộc phải kết hôn với nhau.

Có những cuộc hôn nhân mà hai người không thực sự yêu nhau, một trong hai người đến với người kia với ý đồ lợi dụng người kia, khi người kia không còn giá trị lợi dụng nữa thì tình cảm và sự quan tâm chăm sóc cũng dần dần mất theo. Như thế thì làm sao có được hạnh phúc?

Và cũng có những người thật sự thương yêu nhau, đến với nhau bằng cả tấm chân tình, tuy nhiên trong đời sống hôn nhân của họ, do nhân cách đạo đức chưa được hoàn thiện, người này lại không biết cảm thông, chia sẻ với người kia, không biết tự hạ mình,… dẫn đến sự bất hòa trong gia đình.

Có những cuộc hôn nhân thì nguyên nhân dẫn đến mất hạnh phúc là do sự ham thích cái mới, tìm cầu cái mới, không giữ đúng bổn phận và khuôn phép của mình, không chung thủy với nhau. Đối với vấn đề này, trong kinh Đảnh Lễ Sáu Phương (còn gọi là kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt, Trường bộ kinh), đức Phật có dạy: ” Nếu một người đàn ông có vợ mà đi đến với một người phụ nữ khác ngoài hôn thú thì điều này có thể là nguyên nhân về sự sa sút của anh ta và chắc chắn anh ta sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề khác cùng với những phiền toái”. Đối với người phụ nữ cũng tương tự như vậy.

Ở đây chúng ta không thấy đức Phật trực tiếp phản bác hay lên án vấn đề một người đàn ông có nhiều vợ. Có lẽ là do xã hội Ấn Độ thời bấy giờ cho phép người đàn ông có thể có nhiều vợ chăng? Nhưng đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy được tác hại cùng với những rắc rối của sự không chung thủy, đồng thời không tán thán vấn đề này, điều này được thể hiện rõ qua đoạn kệ sau trong kinh Đảnh Lễ Sáu Phương :

“Sát sanh và trộm cắp Nói láo, lấy vợ người Kẻ trí không tán thán Những hạnh nghiệp như vậy”

Bên cạnh đó cũng có những cuộc hôn nhân không hạnh phúc là do vấn đề kinh tế. Có thể là do đôi vợ chồng đó không có năng lực làm kinh tế, khiến cho đời sống gia đình gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, cũng có thể là do người phụ nữ trong gia đình không biết cách quản lý tài chính, không biết hạch toán chi tiêu.

Một khi đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn thì thường làm cho người ta trở nên khó tính, trở nên cau có, dễ dẫn đến bất hòa, khiến cho cuộc sống gia đình không được hạnh phúc. Châm ngôn có câu: “Khi sự nghèo khó gõ cửa nhà bạn thì tình yêu đội nón ra đi”. Nói như thế không có nghĩa là người giàu sang mới có hạnh phúc, chưa hẳn như thế. Cũng có không ít người phải rơi nước mắt khổ đau trên cả đống tiền của. Tuy nhiên, để có được một cuộc sống hạnh phúc thì điều kiện vật chất phải được đảm bảo.

Hiện nay trên khắp thế giới đang dấy lên phong trào đòi nam nữ bình quyền, bình đẳng nam nữ, điều này là hoàn toàn phù hợp. Song, mỗi giới có một đặc tính riêng, một khả năng riêng, có một thiên chức riêng nên không thể hiểu sự bình quyền, bình đẳng là nữ giới phải hoàn toàn giống như nam giới được.

Bình quyền và bình đẳng chỉ có thể hiểu theo một khía cạnh, một góc độ nào đấy mà thôi. Thánh Gandhi đã từng nhận xét rằng: “Tôi tin tưởng vào sự giáo dục đúng đắn của người phụ nữ. Nhưng tôi thật sự tin rằng người phụ nữ sẽ không đóng góp cho xã hội bằng cách rập khuôn hoặc chạy đua cùng nam giới. Cô ta có thể chạy đua, nhưng cô ta sẽ không vươn tới những hoài bão lớn lao của mình. Cô ta có khả năng bằng một người nam bắt chước. Cô ta phải là phần bổ sung của người đàn ông”.

Do hiểu một cách máy móc đối với vấn đề bình quyền, bình đẳng về giới nên một số người phụ nữ đã xem thường bổn phận chăm lo cho chồng, cho con, bỏ bê công việc nhà, xem những công việc ấy là những công việc thấp kém, cột chặt người phụ nữ. Họ mãi lo những công việc làm ăn, tham gia vào các hoạt động ngoài xã hội. Tham gia vào công tác xã hội, lo làm kinh tế thì không có gì sai trái.

Tuy nhiên, thiên chức của người phụ nữ là chăm lo cho đời sống gia đình, quan tâm giáo dục con cái, thương yêu và chăm lo cho chồng, cho con thì không thể bỏ được. Họ mãi lo đòi quyền bình đẳng, tìm hạnh phúc trong sự bình đẳng giới theo cách nghĩ của họ mà quên rằng, chăm lo cho chồng, cho con cũng là một niềm hạnh phúc lớn, là một bổn phận hết sức thiêng liêng của người phụ nữ.

Cho dù họ có được bình đẳng giống như nam giới, làm được những công việc như nam giới làm, nhưng thử hỏi làm sao họ có được hạnh phúc khi chồng con không muốn trở về nhà, không tìm được không gian ấm cúng trong gia đình, trong những bữa cơn thân mật, trong những giờ tâm sự thân thiết,…?

Chăm sóc và giáo dục con cái là bổn phận của cha mẹ, trong đó người mẹ đóng vai trò quan trọng. Sự thành đạt cũng như đức hạnh của con là một nhân tố quan trọng góp phần làm cho gia đình hạnh phúc. Nếu con cái hư hỏng, không ra gì thì gia đình không thể nào có được hạnh phúc.

Ngược lại với xu hướng trên là xu hướng cam chịu và lệ thuộc của người phụ nữ. Có một số người phụ nữ tự cho mình là một thứ vật dụng trong tay người đàn ông, sống chỉ để làm vừa lòng người đàn ông. Theo chiều hướng này thì cuộc hôn nhân cũng không thể có được hạnh phúc đích thực, có chăng chỉ là sự gượng ép, sự cam chịu.

Chìa khóa để khắc phục vấn đề này không phải nằm trong tay người đàn ông mà nó nằm trong tay của người phụ nữ. Người phụ nữ phải thay đổi từ trong nếp nghĩ của mình, phải dừng ngay ý nghĩ rằng, mình là một đồ vật được dùng để làm thỏa mãn lòng ham muốn của người nam, để phục vụ cho người đàn ông. Và phải sửa đổi từ cách đi đứng, nói năng cho đến cả cách trang điểm. Phải làm cho nét đẹp của mình được bộc lộ một cách kín đáo mà lại duyên dáng chứ không lộ liễu, không trở thành biểu tượng của tình dục, không khêu gợi tình dục.

Nếu mình làm việc gì cũng nhắm đến mục đích thu hút sự chú ý của người đàn ông, chinh phục người đàn ông bằng sức lôi cuốn của thân thể mình thì vô tình người phụ nữ đã tự hạ thấp mình, tự tạo nên hố sâu để vùi dập mình.

Nhận thấy rõ thực trạng của đời sống hôn nhân, biết rõ tâm tánh của con người, đức Phật đã có những lời dạy rất chí tình, chí lý để giúp cho mọi người có được một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.

Trong kinh Tăng chi bộ, nhân một vi gia chủ có một người con gái sắp được gả về nhà chồng, người gia chủ ấy thỉnh đức Phật ban cho con gái của mình một vài lời khuyên và đức Phật đã khuyên rằng:

“Cô dâu mới về nhà chồng có thể gặp những khó khăn, vì thế nàng dâu phải tuân thủ những nguyên tắc sống trong gia đình nhà chồng, phải kính trọng bố mẹ chồng, phục vụ bố mẹ chồng một cách chu đáo như là bố mẹ ruột của mình, phải tôn trọng và kính mến những người thân và bạn hữu bên nhà chồng, như vậy là cô dâu mới đã tạo nên một bầu không khí an vui và hòa hợp trong gia đình chồng. Đồng thời cần phải tìm hiểu những bản tánh của chồng, biết rõ những hành động, tính khí của chồng và cộng sự với chồng ở mọi lúc mọi nơi trong nhà mới của chồng. Phải lịch sự, tử tế và biết những thu nhập của chồng, quản lý chi tiêu một cách hợp lý”.

Đọc qua những lời khuyên này, chúng ta cảm thấy đức Phật vô cùng siêu việt, dù đấy là những lời nói đã được nói ra cách đây mấy nghìn năm, mà cho đến nay và có lẽ là mãi mãi về sau vẫn còn nguyên giá trị cho những người con gái lúc chuẩn bị về nhà chồng. Thực hiện theo những lời khuyên ấy thì chắc chắn người con gái tránh được những lỗi lầm đáng tiếc có thể xảy ra và tạo được thiện cảm đối với gia đình chồng, giúp cho người con gái cảm thấy hạnh phúc hơn.

Đối với đời sống vợ chồng, đức Phật đã nói rõ về vị trí, vai trò của người chồng và người vợ trong gia đình. Theo đức Phật, người chồng là người chủ, là trụ cột trong gia đình để cho vợ và con nương tựa, người chồng là tấm gương sáng soi khắp những nổi lòng uẩn khúc của vợ. Người chồng phải luôn luôn biết thương yêu, đối xử công bằng, đứng đắn và chăm chỉ để kiến lập gia đình, hầu đem lại sự kính thuận và tinh tấn của người vợ. Ảnh hưởng của người chồng đối với người vợ, đối với công việc trong gia đình không phải là nhỏ.

Đối với người vợ, trong gia đình họ là người đem nguồn sống nhân từ, bác ái đượm nhuần khắp cõi lòng và thân thể con cái, là giọt nước cam lồ để an ủi những nỗi lòng lo lắng cho chồng, là tấm gương sách tiến chí khí cho chồng đạt tới sự vẻ vang trên trường đời. Ảnh hưởng, giá trị của người vợ đối với gia đình, xã hội không phải là một sự quá thấp kém như nhiều người lầm tưởng, nếu là người vợ hiểu biết và thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.

Để cho đời sống hôn nhân được hạnh phúc thì cả người vợ và người chồng đều phải thực hiện nghiêm túc những bổn phận và trách nhiệm của mình, giữ được mối tương hệ tốt đẹp với nhau.

Trong kinh Đảnh Lễ Sáu Phương đức Phật đã dạy: Chồng đối với vợ thì phải thương yêu vợ, chung thủy với vợ, săn sóc đời sống vật chất cho vợ, trao cho vợ quyền quản lý những công việc trong gia đình, kính trọng gia đình vợ; Còn vợ đối với chồng thì phải thương kính chồng, chung thủy với chồng, quản lý gia đình tốt, siêng năng làm việc, đối đãi thân thiện với gia đình chồng và bạn bè của chồng.

Đấy là những phép ứng xử rất hợp tình hợp lý, là nếp sống đạo đức lành mạnh, là nhân tố tạo nên hạnh phúc trong đời sống hôn nhân gia đình.

Một trong những nguyên nhân chính của sự bất hòa trong hôn nhân là sự nghi ngờ và mất lòng tin ở nhau. Để cho gia đình thực sự hòa hợp, thực sự là mái ấm hạnh phúc thì cả người chồng lẫn người vợ phải tỏ bày sự tin tưởng lẫn nhau và cố gắng không có những điều bí mật giữa hai người. Những điều giấu kín thường tạo nên sự nghi ngờ, nghi ngờ dẫn đến ghen tuông, ghen tuông tạo nên hờn giận, hờn giận tạo nên hận thù và hận thù có thể dẫn đến sự chia lìa, làm khổ nhau và thậm chí là tàn hại lẫn nhau.

Nếu một cặp vợ chồng có thể chia sẻ nỗi đau khổ và niềm vui trong đời sống hàng ngày cho nhau thì họ có thể tiếp thêm sức sống cho nhau, đem đến hạnh phúc cho nhau và giảm thiểu tối đa những lời than vãn, trách móc. Những vấn đề được đem ra bàn thảo với nhau sẽ mang lại cho họ niềm tin để sống cùng nhau trong sự hiểu biết và thương yêu nhau.

Vợ chồng cần có sự thoải mái với nhau khi đương đầu với những vấn đề và những khó khăn trong cuộc sống. Những cảm giác bất an và dao động sẽ biến mất và cuộc sống sẽ càng có ý nghĩa hơn, hạnh phúc, thú vị hơn nếu như cả vợ và chồng đều sẵn lòng chia sẻ gánh nặng của kẻ nhau.

Vấn đề giáo dục con cái cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo dựng hạnh phúc cho gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, là trường học đầu tiên của mỗi người. Cha mẹ là những người thầy đầu tiên của con cái. Trong đó vai trò của người mẹ là quan trọng hơn cả. Bổn phận người mẹ là yêu thương, chăm sóc và bảo vệ con cái với bất cứ giá nào. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi nấng và mang lại sự tốt lành cho con cái.

Nếu đứa con lớn lên trở thành một công dân khỏe mạnh và hữu ích, đó là kết quả của những nỗ lực của cha mẹ. Nếu đứa con lớn lên trở thành một kẻ phạm pháp, bố mẹ chắc hẳn phải chịu phần lớn trách nhiệm.

Cũng trong kinh Đảnh Lễ Sáu Phương, khi nói về bổn phận của cha mẹ đối với con cái, đức Phật đã dạy: “Cha mẹ phải có bổn phận khuyên bảo con cái tránh xa điều xấu, khuyên bảo con cái làm điều tốt, tạo cho con cái một nền giáo dục tốt, tạo điều kiện cho chúng lập gia đình với những người phù hợp, và trao tài sản thừa kế cho chúng vào thời điểm thích hợp”.

Qua những bổn phận này chúng ta thấy được phương pháp giáo dục, chăm sóc toàn diện của cha mẹ đối với con cái mà đức Phật đã dạy. Cha mẹ không chỉ chăm lo cho con về phương diện vật chất mà cả phương diện tinh thần, nhân cách đạo đức của con nữa. Chỉ có sự chăm sóc và giáo dục toàn diện như thế mới mong giúp con trở thành những người con ngoan, trò giỏi, người công dân tốt, hữu ích cho xã hội.

Trong phương pháp giáo dục của mình, cha mẹ phải đem tất cả tình thương yêu của mình đối với con để giáo dục con. Tuy nhiên cha mẹ cũng không nên quá chiều chuộng con. Nên nhớ là thương yêu nhưng không chiều chuộng, thương yêu nhưng cũng cần phải có sự nghiêm khắc, kỷ luật trong quá trình giáo dục con. Một đứa trẻ mà bị thiếu tình thương yêu của cha mẹ, của những người thân thì chẳng khác gì cây xanh bị thiếu nước, không thể phát triển bình thường được. Vì thế, các bậc cha mẹ cần phải dành thời gian quan tâm, chăm sóc và giáo dục con cái để có được một mái ấm hạnh phúc.

Như vậy, để có được một đời sống hôn nhân hạnh phúc quả là không đơn giản. Mọi người cần phải chuẩn bị tâm thế cho mình trước khi bước vào đời sống hôn nhân. Bằng trí tuệ và lòng thương yêu, đức Phật đã chỉ dạy những vấn đề hết sức thiết thực và trọng yếu để tạo lập một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Dù ở quốc độ nào hay thời đại nào đi nữa, những lời dạy của đức Phật về hôn nhân gia đình vẫn phù hợp và rất có giá trị.

Đời sống hôn nhân hạnh phúc hay khổ đau là hoàn toàn tùy thuộc ở mỗi người. Đức Phật đã không phản bác đời sống hôn nhân, ngược lại còn chỉ dạy phương cách để mọi người tìm được hạnh phúc trong đời sống hôn nhân của mình. Muốn xây dựng cuộc hôn nhân hạnh phúc thì không thể bỏ qua những lời dạy của đức Phật.

Những lời dạy về hôn nhân gia đình của đức Phật mang đậm tính nhân bản, hợp với các chuẩn mực đạo đức của xã hội, đúng theo đạo lý làm người, hướng mọi người đi theo con đường Chân – Thiện – Mỹ. Đấy là bài học chung cho tất cả mọi người chứ không riêng một nhóm người nào cả.

Chúng ta không nên để bức tường thành kiến, phân biệt chia cắt để rồi bỏ qua những bài học giá trị, bỏ qua cơ hội quý báu để có thể hoàn thiện bản thân, vun đắp cho hạnh phúc của cuộc sống. Đem tất cả năng lực và tâm hồn của mình để xây dựng gia đình, tạo lập cuộc hôn nhân hạnh phúc, đem đến hạnh phúc cho những người thân yêu của mình trong đời sống hàng ngày cũng có nghĩa là mình đã làm những việc tốt, mình đã tu tập.

Bạn đừng nghĩ rằng tu tập là phải làm những gì lớn lao, vĩ đại. Sống và hành động theo đúng đạo lý làm người, hợp với những chuẩn mực đạo đức trong xã hội, đem đến an vui và hạnh phúc cho mình và người tức là bạn đang tu tập, đang sống theo con đường hiền thiện đấy bạn ạ!.

Tác giả: Quảng Trí

Cập nhật thông tin chi tiết về Châm Ngôn Và Luật – Sứ Mệnh Gia Đình Phật Tử trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!