Xu Hướng 6/2023 # Chiếc Nón Lá Trong Đời Sống Văn Hóa Của Người Việt # Top 14 View | Dtdecopark.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Chiếc Nón Lá Trong Đời Sống Văn Hóa Của Người Việt # Top 14 View

Bạn đang xem bài viết Chiếc Nón Lá Trong Đời Sống Văn Hóa Của Người Việt được cập nhật mới nhất trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Cùng với chiếc áo bà ba, chiếc “nón lá” đã theo chân người phụ nữ miệt quê miệt vườn, cùng với chiếc xuồng ba lá, bồng bềnh theo con nước lớn nước ròng, dầm dãi nắng mưa sớm chiều… Từ lâu chiếc nón lá đã trở thành một đồ vật không thể thiếu trong trang phục của người phụ nữ miền Nam nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung.

“Trời mưa thì mặc trời mưa

Em không có nón thì chừa em ra”

                        (Ca dao)

Chiếc nón là hình ảnh quen thuộc và gần gũi với mọi người, vừa là để đội đầu che mưa che nắng hơn thế còn để làm duyên nữa. Chiếc nón lá đã xuất hiện trong thơ cổ:

                              “Dáng tròn vành vạnh vốn không hư,

                              Che chở bao la khắp bốn bờ.

                              Khi để (đội) tưởng nên dù với tán,

                              Khi ra thì nhạt (lạt) nắng cùng mưa.

                              Che đầu bao quản lòng tư túi,

                              Giúp chúa nào quen nghĩa sớm trưa.

                              Vòi vọi ngồi trên ngôi thượng đỉnh,

                              Ai ai lớn nhỏ đội ơn nhờ.”

Từ khi có mặt với chức năng là “cái nón”, thì chiếc nón đã theo chân người nông phu ra đồng, theo người phụ nữ đi sớm về trưa, được bà dùng để quạt đưa cháu vào giấc ngủ, được các bà mẹ vỗ về đội vào đầu và nắm tay dìu con đến trường. Nón cùng với người lính thú xông pha ngoài chiến trận, nón theo tài tử giai nhân đi trẩy hội, nón theo cung phi vào cung cấm, nón theo các nàng công chúa, các bà hoàng đi chùa cầu duyên cầu tự. Nón cũng được các bà mẹ sụt sùi nước mắt đặt nhẹ lên đầu người con gái thương yêu trước khi lên xe hoa về nhà chồng…

Nón lá Tây Ninh.

Chiếc nón còn có mặt trong sách vở thi ca, qua câu hò tiếng hát của người bình dân để ngợi ca tình yêu trai gái… và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống vô cùng đẹp và lãng mạn của người Việt.

Nhiều loại nón ngày xưa, nay không còn được sử dụng và mai một. Có loại nón được cách tân cho phù hợp với thời đại và thị hiếu thẩm mỹ của con người, làm cho chiếc nón vượt lên khỏi chức năng “che mưa che nắng”, trở thành đồ trang sức, làm duyên cho người phụ nữ. Có thể nói không có dân tộc nào có chiếc nón, như chiếc “nón lá” gắn bó, gần gũi với con người như dân tộc Việt Nam!

Tên gọi chiếc nón ở nước ta rất phong phú. Theo thông thường, chiếc nón khi ra đời được đặt tên theo vật liệu làm nên nó. Như nón lá, nón rơm, nón đệm, nón lá buông, nón dứa, nón gõ, nón quai thao, nón móp, nón bài thơ… Chiếc nón cũng được đặt tên theo hình dạng, như nón chóp, nón dấu, nón mê, nón mẻ, nón thúng, nón chân tượng giống chân voi…

Nón cũng còn được đặt tên theo địa phương sản xuất, như nón Nghệ, nón Huế, nón Tây Ninh, nón Tân Hiệp (Mỹ Tho)…

“Chợ Dinh bán áo con trai,

Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.”

                        (Ca dao Huế)

 Nón chuyên dùng thì có tên như “nón tu lờ” của các nhà sư, “nón ngựa” dùng cỡi ngựa, “nón cụ”, nón quai thao dành cho cô dâu, “nón dấu” dành cho lính thú đời xưa…

Nón quai thao.

Theo tư liệu lịch sử thì chiếc nón Bắc xuất hiện ở phố cổ Hà Nội cách đây 500 năm. Nón Bắc bấy giờ sản xuất ở làng Chuông, Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Rồi chiếc nón làng Chuông được đem ra bán cho người Hà Hội. Nó là mặt hàng đặc trưng ở Bắc lúc bấy giờ, bày bán ở phố Hàng Nón, cùng với phố Hàng Ðiếu, hàng Ðồng, Hàng Ðào, Hàng Buồm, Hàng Giầy, Hàng Chiếu, Hàng Than,… làm nên Hà Nội “băm sáu phố phường”. Nón làng Chuông ngày nay được người Hà Nội làm sống lại trong các lễ hội, được nhắc tới như là chiếc nón tiêu biểu cho Hà Hội.

Tới chiếc cái nón Nghệ, rộng trên 80cm, sâu 10cm, đan bằng những sợi tre chuốt nhỏ, to và nặng, có đôi quai thao dài 1m50 làm bằng 8 sợi tơ, hai đầu có một quả găng… Quai thao xưa nổi tiếng thời thế kỷ 17, được làm ra ở làng Triều Khúc, Thanh Trì, còn gọi là làng Ðơ Thao. Làng Ðơ Thao là làng nghề làm quai nón nổi tiếng ngày xưa, có thờ tượng tổ sư của nghề dệt quai thao, tới nay còn được dân làng tự hào.

Chiếc nón thường đi liền với đôi quai được làm bằng dây, mây, vải… vừa để giữ chiếc nón, vừa để điểm tô cho người đội thêm duyên, thêm dáng, thêm sang trọng và quí phái theo cái nhìn thẩm mỹ bấy giờ. Theo bước chân Nam tiến, chiếc nón vào xứ đàng Trong với tên gọi như nón Huế, nón bài thơ, nón Bình Ðịnh… Nón Huế nhìn soi qua ánh nắng mặt trời, trông như là bức tranh thủy mạc, mãi mãi là cái đặc trưng rất “Huế”!

Nón Huế trong tác phẩm Nghệ thuật sắp đặt tại Lễ hội Festival nghề truyền thống 2005.

Vào đến miền Nam, chiếc nón được gọi nôm na là “nón lá buông”. Nón làm bằng lá buông, với tre, chỉ sợi… vật liệu có sẵn và nhiều ở Trảng Bàng Tây Ninh, Tân Hiệp Mỹ Tho… Chiếc nón lá miền Nam kiểu dáng nhẹ nhàng, rẻ tiền, rất ư là đời thường nên thực dụng, nhưng vẫn giữ cái dáng vẻ “duyên” của người con gái miệt vườn, sông nước!

Việc tổ chức làm nón ở Tây Ninh qui mô, khoa học, sản xuất chia ra ba công đoạn để giảm giá thành, như: làm khung tre, lựa lá và chằm nón. Khung nón làm bằng tre, loại tre cật Tây Ninh, khung có hình chóp, kích cỡ bằng chiếc nón. Khung và bộ vành với 16 chiếc vòng lớn nhỏ được chuốt nhỏ nhắn, tròn và khéo, cân xứng, nghệ thuật và nhẹ nhàng. Lá buông có nhiều ở địa phương, là nguyên liệu chính làm nên cái nón. Lá phải chọn lá già, lá mật cật, đem luộc chín, vuốt thẳng, phơi/sấy và ủ khô sao cho lá còn giữ màu trắng tự nhiên vẫn xanh-trắng mịn màng, không bị ngả màu đen hay vàng. Lá phải cán hay vuốt thẳng, sao cho sau khi lợp, sau khi chằm không bị co bị dúm lại. Giai đoạn cuối cùng là chằm nón bằng những sợi chỉ trong suốt dọc theo nan tre. Chính giữa hai lớp lá được đặt vào các hoa văn, hoặc câu thơ cắt bằng giấy, có khi là hình cầu Tràng Tiền, núi Ngự, Sông Hương…

Người thợ nón Tây Ninh mỗi ngày làm ra từ 2 đến 4 cái nón tùy theo hàng. Những chiếc nón ra lò ở đây trông “rất Huế” nhưng không phải Huế, do bàn tay những nghệ nhân Tây Ninh khéo léo, bằng những đường kim mũi chỉ sắc sảo. Chiếc nón từ khi có mặt, đã phục vụ cho người thường, cho quan chức, cho cả người chết. Nón còn được làm để dâng cho thần linh trong đình chùa đền miếu miễu… phục vụ cho tín ngưỡng con người.

Dầu chiếc nón lá làm ra không dành riêng cho phái nữ, nhưng nói đến cái nón lá xưa nay chúng ta có thói quen liên tưởng đến người phụ nữ “nón nghiêng che” đầy ấn tượng!

“Ra đường nghiêng nón cười cười,

Như hoa mới nở, như người trong tranh”

                                                                                    (Ca dao)

Thuyết Minh Về Chiếc Nón Lá Việt Nam

Bài làm

Nón lá là hình ảnh bình dị, thân quen gắn liền với tà áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Từ xưa đến nay, nhắc đến Việt Nam du khách nước ngoài vẫn thường trầm trồ khen ngơị hình ảnh chiếc nón lá – tượng trưng cho sự thanh tao của người phụ nữ Việt. Nón lá đã đi vào ca dao, dân ca và làm nên văn hóa tinh thần lâu đời của Việt Nam.

Bạn có còn nhớ trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm, chiếc nón lá hiện lên rất tự nhiên, gần gũi:

Sao anh không về thăm quê em Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên Bàn tay xây lá, tay xuyên nón Mười sáu vành, mười sáu trăng lên

Như vậy mới thấy được rằng nón là là biểu tượng cho sự dịu dàng, bình dị, thân thiện của người phụ nữ Việt từ ngàn đời nay.

Để làm được chiếc nón lá đẹp thì người làm cần phải tinh tế, tỉ mỉ từ khâu lựa chọn nguyên liệu, cách phơi lá, cách khâu từng đường kim mũi chỉ. Người ta vẫn bảo làm ra một chiếc nón lá cần cả một tấm lòng là vì vậy.

Nón lá có thể được làm từ lá dừa hoặc lá cọ. Mỗi loại lá lại mang đến sự khác nhau cho sản phẩm. Thường thì những sản phẩm nón làm từ lá dừa có nguồn gốc từ Nam Bộ, vì đây là nơi trồng dừa nhiều. Tuy nhiên làm từ lá dừa sẽ không đẹp và tinh tế như lá cọ. Lá cọ có độ mềm mại, chắc chắn hơn. Khi lựa chọn lá cũng phải chọn những chiếc lá có màu xanh, bóng bẩy, có nổi gân để tạo nên điểm nhấn cho sản phẩm. Quá trình phơi cho lá mềm để dễ làm cũng cần từ 2-4 tiếng, lá vừa mềm vừa phẳng.

Khâu làm vành nón là khâu vô cùng quan trọng để tạo khung chắc chắn cho sản phẩm. Người dùng cần phải lựa chọn nan tre có độ mềm và dẻo dai. Khi chuốt tre thì cần phải chuốt tỉ mỉ để đến khi nào có thể uốn cong mà không sợ gãy. Sau đó người dùng sẽ uốn theo những đường kính từ nhỏ đến lớn tạo thành khung cho nón lá sao cho tạo thành một hình chóp vừa vặn.

Khi đã tạo khung và chuẩn bị lá xong đến giai đoạn chằm nón. Đây là giai đoạn giữ cho khung và lá bám chặt vào nhau. Thường thì người làm sẽ chằm bằng sợi nilong mỏng nhưng có độ dai, màu trắng trong suốt.

Lúc chiếc nón đã được khâu xong thì người dùng bắt đầu quết dầu làm bóng và phơi khô để dầu bám chặt vào nón, tạo độ bền khi đi nắng mưa.

Đi dọc miền đất nước, không nơi nào chúng ta thấy sự hiện diện của chiếc nón lá. Nó là người bạn của những người phụ nữ khi trời nắng hoặc trời mưa. Không chỉ có công dụng che nắng, che mưa mà nón lá còn xuất hiện trong các tiết mục nghệ thuật, đi đến các nước bạn trên thế giới. Nét đẹp văn hóa của nón lá chính là nét đẹp cần được bảo tồn và gìn giữ. Nhắc đến nón lá, chắc chắn chúng ta sẽ nghĩ ngay đến tà áo dài Việt Nam, bởi rằng đây là hai thứ luôn đi liền với nhau, tạo nên nét đặc trung riêng của người phụ nữ Việt Nam từ ngàn đời nay.

Để giữ chiếc nón lá bền với thời gian thì người dùng cần phải khéo léo, bôi dầu thường xuyên để tránh làm hỏng hóc, sờn nón.

Chiếc nón lá Việt Nam là sản phẩm của người Việt, làm tôn thêm vẻ đẹp của người phụ nữ, và khẳng định sự tồn tại lâu đời của sản phẩm này.

Nét Đẹp Văn Hóa Uống Rượu Của Người Việt

Uống rượu là một nét đẹp văn hóa của người Việt đã có từ lâu đời. Người ta nói miếng rầu là đầu câu chuyện, càng đối với những “đệ tử Lưu Linh” thì chén rượu là đầu cuộc vui.

Uống rượu là một nét đẹp văn hóa của người Việt đã có từ lâu đời. Người ta nói miếng rầu là đầu câu chuyện, càng đối với những “đệ tử Lưu Linh” thì chén rượu là đầu cuộc vui. Cho nên Nguyễn Trãi mới có câu thơ rất hay về những thú vui tao nhã của các nhà Nho xưa:

“Đua chi chén rượu câu thơ

Thuốc lào ngon nhạt, nước cờ thấp cao”

(Nguyễn Trãi, Gia Huấn ca)

Người đàn ông Việt Nam từ xưa tới nay luôn cho rằng: “Nam vô tửu như kỳ vô phong”. Đàn ông mà không biết uống rượu thì bị so sánh như đàn bà không có phong độ của đấng mày râu. Người Việt Nam có tục lệ uống rượu khi ăn, mang ý nghĩa tương sinh hài hòa, thuận theo nguyên lý “âm dương phối triển” của Phương Đông. Cho nên có thể nói rằng uống rượu là một phạm trù văn hóa không thể thiếu của người Việt ta từ trước tới nay.

Văn hóa uống rượu của người Việt rất khác với văn hóa uống rượu của người nước ngoài nói chung. Người nước ngoài coi uống rượu là một lễ nghi xã giao rất trang trọng. Họ chú trọng đến lễ tiết, cách chúc rượu với người bề trên, bạn bè đều có chuẩn mực. Điểm đặc biệt thú vị khác biệt với văn hóa uống rượu của người Việt là người nước ngoài thưởng thức rượu rất từ từ để cảm nhận vị ngon của rượu, họ cho rằng các cơ quan của cơ thể điều có thể cảm nhận được “thú vui tao nhã” này: Mũi thì được ngửi mùi thơm của rượu, mắt thì được ngắm màu sắc của rượu, lưỡi có thể thưởng thức vị ngon của rượu,…

Nét đẹp văn hóa uống rượu của người Việt Nam được bạn bè trên thể giới ngưỡng mộ về sự hào hứng, thỏa mái không câu nệ và chân thành hết sức mình. Nhưng hiện nay, có một bộ phận hiểu sai về văn hóa uống rượu dẫn tới những hệ lụy không đáng có ảnh hưởng đến sức khỏe. Cho nên muốn giữ gìn nét đẹp văn hóa này cần phải có sự chừng mực lấy niềm vui là chính không thúc ép để cho người Việt Nam có thể tự hào có một truyền thống văn hóa uống rượu đậm đà bản sắc dân tộc.

Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam

Vi sinh vật

           Khi Phật trông thấy các Tỳ-kheo dùng gáo múc nước sạch trong chum (lu, vại, khạp đựng nước) để uống, Ngài dạy: “Các ông phải niệm chú trước khi uống nước ấy, vì trong nước đó có nhiều sinh vật rất nhỏ bé”.

        Rồi Ngài dạy các Tỳ-kheo đọc câu chú: “Án chạ tất ba ra ma ni tóa ha, Án chạ tất ba ra ma ni tóa ha, Án chạ tất ba ra ma ni tóa ha”.

         Ngài nói: “Mỗi lần uống nước đều nên đọc câu chú ấy ba lần để chúng-sanh nhỏ bé ấy được siêu thoát”.

        Ngày ấy, cách nay trên 2500 năm, không ai thấy hoặc biết được trong nước có sinh vật nhỏ bé. Cho đến thế kỷ thứ 17, nhà sinh vật học Aton Van Leeuwenhock (1632- 1723) đã khám phá nhiều loại Vi sinh vật (Micro-organism) trong nước, trên không, dưới đất, trong cơ thể… như sinh vật đơn bào (Protozoans), vi trùng (microbes), thực vật không chân không lá, tảo trong nước (algae, fungus), vi khuẩn (bacteria), sinh vật bé nhỏ hơn vi khuẩn (virus) …”.

Âm thanh

         Có một lần Phật bảo các Tỳ-kheo: “Âm thanh của ta, các ông, và của mọi người không mất, nó sẽ còn mãi mãi”.

         Ngày nay chúng ta đã giữ được âm thanh, có đài phát thanh, truyền hình, vô tuyến điện thoại, băng, đĩa, CD… Ngoài ra, các nhà khoa học còn cho biết họ đã nhận được nhiều tín hiệu từ rất xa ngoài hành tinh của chúng ta, mặc dù chưa tín hiệu nào được xác nhận chính thức…

                   

Hình ảnh

      Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, trang 24-27 kể rằng khi đức Phật cho bà Vi-Đề-Hy, chánh hậu của vua Tần-Bà Sa-La coi cảnh cõi nước chư Phật hiện bóng rõ nơi tòa quang minh, rất rõ ràng và nghiêm đẹp…

        Như vậy chữ ”hiện bóng” tức là hình ảnh hiện lên, và tòa quang minh tức là màn ảnh, thì ngày nay, là màn ảnh của băng video (hay DVD)…

        Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem.

        Ngài Duy-Ma-Cật liền lấy tay phải trấn cõi nước Diệu-Hỉ để vào cõi Ta-Bà, cõi Ta-Bà không thấy chật hẹp, vẫn y nguyên như trước.

        Qúy vị thấy thần thông của chư Phật và đại Bồ-Tát Duy-Ma-Cật rõ ràng là những máy truyền hình. Thí dụ ta mở máy truyền hình để xem trận đấu quốc tế có hàng nghìn người coi trận đấu trên một sân banh rộng lớn, sân banh rộng lớn và hàng nghìn người coi đâu có chèn ép gì mình, dẫu cho cả nước Mỹ hay cả thế giới chiếu lên màn ảnh đó, những quang cảnh to lớn đem bỏ vào phòng mình đâu có chật?

Mùi hương

       Kinh Pháp-Hoa Phật dạy: “Người thụ trì Kinh này trọn được tám trăm công đức sẽ ngửi được trăm nghìn thứ mùi trong Tam Thiên Đại Thiện thế giới”.

         Về Khoa học, sách Đạo Phật và Khoa Học, trang 72 ghi: “Ngày nay các nhà khoa học đã chế được máy ngửi mười nghìn thứ mùi khác nhau”.

Nguyên tử và từ trường

       (Kinh Lăng-Nghiêm của Hòa-Thượng Thích-Duy-Lực dịch, trang 103). Đức Phật dạy:

        “Nếu lấy một vật chia chẻ mãi tới còn bằng đầu sợi tóc, gọi là mao trần. Lấy hạt bụi bằng mao trần này chia chẻ còn bằng hạt bụi bay trong hư không, gọi là khích du trần. Hạt bụi bay lại chia chẻ nữa thành vi trần nhỏ, rồi hạt vi trần nhỏ này lại chia ra nữa cho tới khi không còn chia được nữa, gọi là cực vi trần, lân hư trần”.

      Ngài dạy tiếp: “Không bao giờ tìm cầu được thực tại cuối cùng của vật, vì những vật mà ta thấy chỉ là tổng tướng ảnh tượng được kết hợp bởi vô vàn vô số những cực vi, nó xuất hiện trong biên giới giữa vật và tâm, nó hiện diện khắp nơi; hư không, không phải là không có gì, mà trong đó có đủ loại quang minh cùng các loại chúng-sanh cư ngụ” (Đạo Phật và Khoa Học, trang 14, 20, 21).

          Về Khoa học. Các nhà khoa học (Đạo Phật và Khoa Học, trang 13) đã tìm ra từ phân tử tới nguyên tử mà Neil Bohr (1885-1950), Vật lý gia Đan-Mạch là một trong những khuôn mặt sáng giá trong việc đề xướng thuyết nguyên-tử. Nguyên tử trong đó có Dương điện tử (Proton), Trung hoà tử (Neutron), và Âm điện tử (Electron) chạy chung quanh.

      Nhưng nhà khoa học Muray Gellman cho rằng Dương điện tử và Âm điện tử còn có hạt vi phân gọi là Quark hay là cực vi, hạt ảo.

           Nhà bác học vật lý nổi tiếng Albert Einstein (1879-1955) người gốc Đức nói: “Vũ trụ phân tích đến cùng chẳng còn gì là vật chất mà chỉ còn lại là những rung động hay những làn sóng mà thôi”.

     Lời bàn

        Xem như vậy, lời Phật dạy về vi sinh vật, âm thanh, hình ảnh , mùi hương từ hơn hai mươi lăm thế kỷ đã được chứng minh; còn Phật nói cực vi trần, lân-hư-trần, quang minh… mà các nhà khoa học khám phá ra Nguyên-tử, Cực vi, Hạt ảo, từ trường… đâu có khác gì nhau.

                                Theo Thư Viện Hoa Sen

Cập nhật thông tin chi tiết về Chiếc Nón Lá Trong Đời Sống Văn Hóa Của Người Việt trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!