Bạn đang xem bài viết Cổng Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
2. Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.
… Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nữ đại biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, tháng 9 năm 1960. (Ảnh tư liệu)
3. chúng tôi từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng, Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội…
Bài nói chuyện tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IIIngày 9-3-1961
Bác Hồ với các đại biểu phụ nữ các dân tộc Việt Bắc năm 1959. (Ảnh tư liệu)
5. Phụ nữ cần phải xung phong trong việc xây dựng đời sống mới. Ở miền núi đang còn những phong tục không tốt do bọn phong kiến để lại, như: ma chay, cúng bái rất tốn kém. Cưới vợ, gả chồng quá sớm. Vệ sinh phòng bệnh, v.v… còn kém. Đó là những mê tín và hủ tục nên xóa bỏ, để xây dựng mỹ tục thuần phong.
6. Đoàn kết là sức mạnh. Đồng bào miền núi, trước hết là chị em phụ nữ, cần phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Đoàn kết giữa dân tộc mình, đoàn kết giữa các dân tộc. Đoàn kết với đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế miền núi…
7. Để làm tốt những việc nói trên, chị em phải cố gắng học tập. Học văn hóa, học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Có quyết tâm thì nhất định học được…
8. Phụ nữ ta còn có một số nhược điểm như bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình; mặt khác, phụ nữ cũng gặp nhiều khó khăn về gia đình, con cái. Muốn giải quyết khó khăn không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền…
9. Phụ nữ phải nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu; phải xoá bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí khí tự cường, tự lập. Có như thế phong trào “Năm tốt” sẽ ngày càng lan rộng, ăn sâu và sẽ thực hiện 100% bình quyền, bình đẳng
10. …Nhiều người lầm tưởng đó là một việc dễ, chỉ: Hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà, hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát, thế là bình đẳng bình quyền. Lầm to!
Đó là một cuộc cách mạng khá to và khó.
Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội….
Vũ lực của cuộc cách mạng này là sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật. Phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công.
13.”Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”…
Không có chỗ cho “Bác gái” đứng à?
Ngày 26 tháng 12 năm 1956, Bác Hồ đã tiếp hơn 300 đại biểu phụ nữ Thủ đô tại Phủ Chủ tịch. Họ là những phụ nữ ưu tú, gồm đủ các thành phần: Công nhân, nông dân, trí thức, tiểu thương, học sinh, các tôn giáo, phụ nữ miền Nam tập kết ra Bắc và các gia đình có công với cách mạng. Được đi gặp Bác, ai cũng tươi cười hớn hở, diện những bộ quần áo đẹp nhất.
Sau khi nói chuyện và căn dặn các đại biểu phụ nữ, Bác vui vẻ chỉ vào những đĩa bánh, những đĩa kẹo bày trên bàn và bảo:
– Các cô ăn bánh, ăn kẹo đi. Cô nào có cháu bé thì mang về cho cháu; có chồng thì mang về cho chồng; có người yêu thì mang về cho người yêu, nói là quà của Bác Hồ.
Được lời của Bác, mọi người phấn khởi chia nhau bánh, kẹo.
– Nào bây giờ Bác cháu ta ra chụp ảnh.
Mọi người cùng kéo cả ra thềm Phủ Chủ tịch. Chị nào, cô nào cũng muốn được đến gần Bác để chụp ảnh. Bác bảo:
– Ai cũng muốn đứng gần Bác cả thì không có chỗ cho “bác gái” đứng à?
Mọi người còn chưa hiểu “bác gái” nào Bác đã kéo bác sĩ Trần Duy Hưng, Chủ tịch thành phố Hà Nội lại bảo: “Bác gái đây!”.
Tất cả mọi người cười vui vẻ. Bác nói tiếp:
– Bây giờ những cô nào đứng phía trước thì ngồi xuống, để những người đứng phía sau được rõ mặt hơn.
Mọi người răm rắp vâng theo lời Bác.
Nhà nhiếp ảnh bấm liền mấy “pô” ảnh. Ai cũng nghĩ: Chụp ảnh xong sẽ được chào Bác ra về. Nhưng đến khi quay lại, Bác đã không đứng đó nữa làm mọi người vô cùng luyến tiếc.
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh với các cán bộ cơ quan TW Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ở Việt Bắc, tháng 2/1949
Chủ nhật trước ngày 2 tháng 9 năm 1958, một số chị em trong cơ quan Thành hội Phụ nữ đã đi phố sắm sửa cho ngày lễ. Nhưng khu tập thể vẫn đông vui vì hôm đấy không chỉ có các ông chồng về chơi, mà nhiều chị em còn đón cả bố mẹ ở quê ra dự ngày hội lớn ở Thủ đô. Mọi người không ngờ đã được Bác Hồ đến thăm. Xe vừa đỗ, Bác nhanh nhẹn bước xuống. Các chị trong cơ quan mừng quá, ùa ra đón, mời Bác vào phòng khách, nhưng Bác không vào mà nói:
– Không, Bác chưa vào phòng khách. Các cô cứ để Bác đi xem các cô ăn ở thế nào đã.
Bác đi qua sân, qua dãy nhà tập thể xuống thẳng bếp, hỏi thăm việc nấu nướng và khen ngợi chị em cấp dưỡng giữ gìn bếp núc sạch sẽ. Đến thăm nhà trẻ nhưng là ngày nghỉ, các cháu ở nhà, Bác nhìn qua cửa thấy nhà trẻ sạch bong, Bác gật đầu tỏ ý hài lòng. Bác thấy ngoài sân có một số cán bộ nam giới, Bác hỏi anh em:
– Cơ quan phụ nữ sao lại có các chú ở đây?
– Thưa Bác, hôm nay là Chủ nhật, chúng cháu về thăm gia đình ạ!
– Các chú chỉ về thăm thôi à? Các chú về phải giúp đỡ các cô ấy việc gì chứ!
– Thưa Bác, chúng cháu có giặt giũ, bế con, dọn dẹp nhà cửa đấy ạ!
Bác quay lại hỏi các chị em:
– Thế nào, các chú ấy nói có đúng không?
– Thưa Bác, đúng ạ!
Tất cả vui vẻ cười rộ lên sung sướng theo cái gật đầu, bằng lòng của Bác. Lúc ấy Bác mới đi vào phòng khách và hỏi thăm sức khỏe, tuổi tác của mấy cụ già, rồi căn dặn các chị em làm việc tốt, riêng với các cô giữ trẻ, Bác nhắc nhở:
Bác đến thăm và nói chuyện với Đại hội Ba đảm đang của phụ nữ Thủ đô
Chủ tịch Hồ Chí Minh trao huy hiệu cho đại biểu có nhiều thành tích tại Đại hội Những người xuất sắc trong phong trào “Ba đảm đang” của phụ nữ Thủ đô ngày 2/12/1965
– Các cháu là mầm non của Tổ quốc, là tương lai của xã hội, các cô phải trông nom dạy dỗ các cháu cho chu đáo.
Đại hội Ba đảm đang của phụ nữ Thủ đô lần thứ nhất, khai mạc rất trọng thể vào tối 1-12-1965 tại hội trường Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Chiều 2-12-1965 (ngày họp thứ 2) vào khoảng 16 giờ, Đại hội vô cùng sung sướng, phấn khởi được đón Bác. Cùng đi với Người có Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Anh hùng miền Nam Tạ Thị Kiều. Vừa thấy Bác, cả Hội trường đứng bật dậy, vỗ tay ran như sấm lẫn với tiếng reo vô cùng phấn khởi.
– Bác! Bác đến! Bác đến!… Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!
Sau mấy phút vô cùng sôi nổi, Bác giơ tay ra hiệu (một cử chỉ thường có của Bác) cho Đại hội im lặng, rồi Bác tươi cười chỉ vào chị Kiều và nói:
– Hôm nay, Bác dẫn “cô bé này” đến với Đại hội, các cô, các chú (Đại hội có một số đại biểu là nam giới) có phấn khởi không?
Cả Đại hội vỗ tay rầm rầm xen lẫn tiếng:
– Thưa Bác, có ạ!
Không khí Đại hội thật vô cùng náo nhiệt, sôi nổi. Bác đã kể cho Đại hội nghe về những gương anh hùng của phụ nữ ta trong thời kỳ bí mật, trong cuộc kháng chiến chống Pháp và sự hy sinh anh dũng của chị em miền Nam trong chống Mỹ.
Thật bất ngờ, Bác rút trong túi ra một cột báo của Báo Thủ đô ngày hôm đó, đọc tên bảy bà và chị, xong Bác hỏi:
– Các cô ấy có mặt ở Đại hội này không?
Hội trường lại vang lên:
– Thưa Bác, có ạ!
Bác tươi cười nói:
– Hôm nay, Bác đọc báo thấy có đăng thành tích của bảy cô là công nhân, là nông dân, là giáo viên… Bác rất vui, Bác có mấy chiếc huy hiệu để tặng các cô ấy.
Mọi người sung sướng vỗ tay tưởng làm vỡ phòng họp.
Sau cùng Bác hỏi:
– Các cô có muốn được Bác thưởng Huy hiệu của Bác không?
Cả Hội trường lại phấn khởi trả lời vang lên:
– Thưa Bác, có ạ, có ạ!
Vậy các cô về làm công tác cho tốt, Bác sẽ thưởng!
Cả Hội trường lại vang lên như sấm.
Ở chiến khu Việt Bắc, một lần Bác đến thăm nhà nữ đồng chí Loan, người đã kéo cờ ở Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Vào đến nhà, thấy đông con nhỏ, Bác nói vui:
– Ồ tưởng đây là nhà cô Loan, hóa ra mình vào nhầm nhà trẻ!
Biết Bác phê bình khéo, chị gượng cười và báo cáo:
– Thưa Bác đây là tiểu đội của vợ chồng cháu đấy ạ!
Bác vui vẻ bảo chị tập trung “tiểu đội” cứ lần lượt, bé nhất đứng trước Bác chia kẹo. Chị đang loay hoay sắp xếp đội hình, Bác bảo:
– Tiểu đội trưởng cũng đứng vào hàng chứ!
Bác chia kẹo cho các cháu và chị nữa. Khi đến lượt chị, Bác nói vui:
Sáng 17 tháng 9 năm 1958, Bác đến thăm ngót 3.000 thầy giáo, cô giáo của toàn miền Bắc được tập trung về Trường Bổ túc Công nông Trung ương để nghiên cứu tình hình nhiệm vụ của cách mạng và nhiệm vụ của ngành giáo dục.
Bác nói chuyện với các thầy giáo, cô giáo về nghề dạy học, nghề “trồng người”.
Tại buổi nói chuyện này, có một chuyện làm mọi người nhớ mãi và trở thành một kỷ niệm không thể quên. Lúc Bác nói chuyện xong một cô giáo của Trường Lương Ngọc Quyến – Liên khu Việt Bắc lên tặng Bác một món quà nhỏ. Mọi người thấy cô giáo trân trọng tặng Bác một chiếc cặp ba dây. Bác mở ra: Trong cặp có 4 chiếc khăn mùi soa. Bác cầm một chiếc và đọc to những dòng chữ thêu trên khăn. Đó là một bài thơ ngắn. Đọc xong Bác trích ra hai câu và “chấm bài” ngay tại chỗ. Câu thứ nhất: “Bác là ánh sáng quang vinh”, Bác sửa: “Bác là Hồ Chí Minh” ; và câu thứ hai: “Chúng con quyết trí hy sinh” lại được Bác sửa: “Chúng tôi quyết chí hy sinh”. Bác vui vẻ nói: “Quyết chí” mà cô giáo viết sai chính tả thành “Quyết trí”. Cả Hội trường cười vui, làm không khí thân mật, đầm ấm, tình cảm giữa lãnh tụ với nhân dân mà ấm áp như cha con trong nhà.
Đến thăm một đơn vị bộ đội phòng không, đang giữa câu chuyện với ngót 500 cán bộ, chiến sĩ,Bác hỏi:
– Có anh nuôi ở đây không?
– Các cháu lên đây.
Các cô gái ngày thường lấm lem than nồi, thế mà giờ đây lại được Bác Hồ quan tâm, cảm động quá cứ ôm lấy Bác Hồ mà khóc. Bác hỏi vui:
– Các cháu làm gì?
– Chúng cháu làm anh nuôi ạ!
– Gái mà làm anh nuôi à?
Bác Hồ đi thăm một hợp tác xã ở Nam Ðịnh năm 1959
Bác cháu bật cười vui vẻ.
Hồi đó anh chị em là cán bộ miền Nam, gồm năm đến sáu ngàn người, tập kết ra miền Bắc được đưa lên nông trường ở Yên Bái, Lào Cai. Do cuộc sống gian khổ, không quen khí hậu miền Bắc nên số đông bị ốm, rồi lại hết việc làm. Với ý nghĩ hai năm sẽ trở về quê hương nay gặp quá nhiều khó khăn, nhiều người bất mãn… Trước tình hình đó, Nhà nước chủ trương lập các khu điều dưỡng cho cán bộ miền Nam… Khi chúng tôi mời Bác về thăm anh em ở các Trại Thường Tín và Thanh Trì thì Bác nhận lời ngay…
Trại xây trên khu đất rộng nên Bác chưa vào hội trường vội, Bác đi một lượt thăm mọi nơi, mọi chỗ ăn chỗ ở, Bác thấy sạch sẽ, vừa ý. Bác hỏi tôi:
– Lúc nào cũng sạch sẽ như thế này à?
– Thưa Bác, vâng ạ!
Sau khi thăm các trại điều dưỡng, bác còn thăm trường Nữ sinh Trưng Vương. Các cháu như đàn ong, quây quanh lôi kéo Bác, Bác thấm mệt, toát cả mồ hôi. Tôi liền ngăn: “Ô, các cháu đi xuống đi, làm thế Bác mệt”. nhưng Bác bảo: “Kệ các cháu”…
(Trích lời kể của bà Lê Minh Hiền Nguyên Thứ trưởng Bộ Cứu tế nay là Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội)
Có nhiều dịp được tiếp xúc làm việc gần Bác, tôi thấy Bác rất quan tâm đối với cán bộ miền Nam cũng như đối với phụ nữ. Bác lắng nghe và ân cần chăm sóc thăm hỏi động viên họ, khuyên bảo cán bộ phụ nữ phải đi sát quần chúng, phải biết nấu cơm, phải biết tắm rửa cho trẻ con. Đối với dân, Bác rất tôn trọng, quan tâm đến đời sống, sinh hoạt của nhân dân. Bác sống rất giản dị, thanh đạm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi chị em dân công lao động đào mương chống hạn ở Từ Liêm, Hà Nội, ngày 16/12/1958
… Thấy Bác đứng dưới bóng cây mát, chúng tôi đến vây quanh Bác, đồng chí Bộ trưởng cũng đến đứng gần Bác.
– Ở đây gọn gàng, sạch sẽ, ngăn nắp thế là tốt. Và Bác hỏi:
– Các cô các chú ở đây đã có “Chi bộ 4 tốt” chưa?
– Dạ thưa Bác, có ạ!
– Ở đây đã có “Chi đoàn thanh niên 4 tốt” chưa?
(Trích lời kể bà Trương Thị Minh Tri – Bác sĩ bệnh viện Vân Đình – Hà Tây)
– Dạ, thưa Bác, có ạ!
(Trích trong sách Bác Hồ sống mãi với chúng ta, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 2, tr.53)
– Đảng viên phải gương mẫu, đoàn viên phải đầu tàu. Ở đây các cô các chú lại có phong trào thi đua tốt, tự lực cánh sinh làm được nhiều việc, nhận được lá cờ đầu của ngành Y tế là phải. Nhưng đây mới là thành tích bước đầu. Các cô chú phải khiêm tốn học tập và phát huy thành tích hơn nữa. Các cô các chú phải chữa bệnh bằng nhiều cách. Có thuốc quý chưa đủ, cần cho người bệnh ăn ngon và phù hợp với từng bệnh cũng là liều thuốc quý. Lại cần phải tuyên truyền, giải thích cho đồng bào xung quanh biết giữ gìn vệ sinh. Cần làm cho người bệnh khi khỏi bệnh biết cách phòng bệnh cho mình và cho gia đình mình.
Đại hội Liên hoan chiến sĩ thi đua toàn quốc đầu tiên, tổ chức ở Việt Bắc hồi tháng 5 năm 1952…
(Những kỷ niệm sâu sắc của phụ nữ Việt Nam với Bác Hồ, (Trích theo Tạ Hữu Yên: Mênh mông tình thương Hồ Chí Minh, Nxb.Thanh niên, H.2002, tr.37-39)
Chiều mát, Bác đến từng tổ chiến sĩ ân cần thăm hỏi, rồi mọi người theo Bác ra một quãng đồi san phẳng để vui chơi tập thể. Hồi đó, phong trào nông tác vũ “son la son” mới gia nhập Chiến khu Việt Bắc. Bác bảo các chiến sĩ: “Các cô, các chú, chiến đấu đã chiến đấu hăng, vui nhộn phải vui nhộn mạnh. Nào, ta nhảy đi!”. Đám thanh niên rất sẵn sàng, nhưng đám thiếu nữ còn sượng sùng ra ý rụt rè… Bác bảo: “Các cô còn phong kiến thế à?”. Được Bác khuyến khích, cả nam lẫn nữ bấy giờ mới cầm tay, nhảy tưng bừng giữa dàn nhạc mồm: “Son la son…” vang dội cả khu đồi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần thăm hỏi bà con xã Tam Sơn, Tiên Sơn, Hà Bắc trong dịp Người về thăm và chúc Tết đồng bào, ngày 9/2/1967
Một điều Bác dạy bảo mà suốt đời tôi không bao giờ quên là: “Báo chí là đại biểu cho dư luận, phải giúp Chính phủ đạt được thành công trong các chính sách đối nội đối ngoại. Sau này những lúc tình hình cách mạng có chuyển biến mới, người làm báo phải suy nghĩ nhiều. Câu nói của Bác giúp tôi nhớ tới vị trí và tính chất của báo chí ta. Một lần, Bác hỏi chị Thanh Thủy và tôi: “Các cô đã có con chưa? Các cô đã biết bế con, nuôi con chưa? Làm báo Phụ nữ không phải chỉ nói chính trị suông, giải phóng phụ nữ chung chung mà còn phải hướng dẫn cho chị em cách nuôi con, dạy con chăm lo việc gia đình. “Chị em trong cơ quan hỏi Bác nhiều điều. Bác trả lời cả những câu hỏi nhỏ nhặt nhất: “Tại sao trong họa báo Liên Xô lại thấy ảnh nhiều chị em để tóc dài? Có phải là sau khi vận động phụ nữ cắt tóc ngắn rồi lại phải vận động phụ nữ để tóc dài hay sao?”. Bác trả lời đại ý: Sau Cách mạng Tháng Mười, Liên Xô có rất nhiều khó khăn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng cuộc sống mới. Phụ nữ phải đem hết sức mình ra chiến đấu và sản xuất, cho nên chị em ăn mặc giản dị, tóc cũng cắt ngắn để đi lại cho gọn. Bây giờ, chiến tranh thứ hai kết thúc đã nhiều năm, nền kinh tế đã được khôi phục và phát triển, đời sống được nâng cao, phụ nữ đã có thể trang điểm cho thêm đẹp, ai cho rằng để tóc dài đẹp và không vướng víu gì trong sản xuất thì cứ để…
Năm 1952 có Đại hội liên hoan các anh hùng, chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất và Hội nghị bàn về chiến tranh du kích. Sau hai cuộc họp lớn đó, mọi người náo nức khen ngợi hai bản báo cáo của anh hùng Nguyễn Thị Chiên và của chị Phạm Thị Nhật, Bí thư chi bộ. Một hôm, Bác đến thăm cơ quan, chị em chúng tôi đều nói đến hai bản báo cáo ấy. Bác hỏi: “Các cô có biết vì sao mà báo cáo của các cô ấy hay không?”. Chị Đinh Thị Cẩn thưa: “Đó là do chị Chiên, chị Nhật đều lăn lộn, xông pha nhiều trong thực tiễn chiến đấu cho nên mới nói lên sự thật rất sinh động. Bác vừa cười vừa nói: “Đúng là như thế, nhưng không phải chỉ có thế. Các bản báo cáo ấy hay còn là do không có sự sửa chữa, thêm thắt của nhiều người khác…”. Tôi suy nghĩ rất nhiều. Câu nói ý nhị của Bác nhắc nhở tôi mỗi khi sử dụng hoặc biên tập lại bài của thông tin viên, bạn đọc trong đông đảo nhân dân, phải luôn luôn cố gắng ghi lại đúng đắn, trung thực những lời nói, những ý nghĩ mộc mạc, giản dị của những con người trong thực tiễn sản xuất và chiến đấu… không thể tùy tiện sửa đổi thêm bớt theo ý nghĩ chủ quan của mình./.
Trong lần nói chuyện với đại biểu nhân dân Nghệ An dịp về thăm quê ngày 14-6-1957, khi nói đến những thành tích của tỉnh trên lĩnh vực nông nghiệp, Bác nhấn mạnh đến vai trò của chị em phụ nữ, Bác nói: “Tôi muốn nêu một công trạng của chị em phụ nữ tỉnh ta. Đó là phong trào chăn nuôi gia súc”. Bác khen: Phụ nữ Anh Sơn, Nghi Lộc phong trào nổi trội hơn và Bác căn dặn phụ nữ Anh Sơn, Nghi Lộc phải cố gắng hơn nữa, để có kết quả cao hơn, để làm mẫu, làm gương cho chị em khác cùng thi đua. Còn chị em các huyện khác phải thi đua cho kịp với chị em Anh Sơn, Nghi Lộc… Tiếp đó, Bác biểu dương chị Trương Thị Tâm ở Nghĩa Đàn một mình nuôi 300 con gà, 4 con lợn, chị còn làm ruộng, tham gia công tác xã hội, làm tổ trưởng phụ nữ. Bác nói “Đây là một phụ nữ anh hùng… Anh hùng không phải “Đông chinh Tây phạt”, hoặc cứ làm cái gì kỳ khôi xuất chúng. Nuôi được nhiều lợn, nhiều gà, tăng gia sản xuất, tiết kiệm, tham gia công tác xã hội tốt, như thế là anh hùng, như thế là chiến sĩ”… “Các chị em ở đây cứ cố gắng thì ai cũng có thể làm anh hùng, chiến sĩ”. Những lời căn dặn của Bác thật cụ thể, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc. Làm theo lời Bác để trở thành anh hùng, chiến sĩ không phải chuyện gì quá xa xôi. Mỗi chị em chúng ta hãy làm tốt những việc giản dị, bình thường hàng ngày trong gia đình, thôn xóm, bản làng, cơ quan, đơn vị.
Ngày 9-12-1962, Bác đến thăm Nhà máy Cơ khí Vinh. Nói về những sáng kiến trong cải tiến sản xuất của công nhân nhà máy, Bác hỏi “thế thì các cháu trai có sáng kiến nhiều hơn hay các cháu gái có sáng kiến nhiều hơn?”. Được biết các cháu trai có nhiều sáng kiến hơn, Bác nhẹ nhàng động viên “Các cháu gái phải cố gắng”.
Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Bác Hồ nhiều lần gửi thư động viên, khen ngợi các mẹ, các chị phụ nữ Nghệ An đã chịu nhiều hy sinh, đóng góp xương máu, công sức tham gia phục vụ kháng chiến. Ngày 1-5-1949, Bác gửi thư cho Hội mẹ chiến sĩ Liên khu IV, Bác viết: “Các chiến sĩ thì sẵn sàng hy sinh gia đình, hy sinh tính mệnh để giết giặc cứu nước… các bà thì thương yêu săn sóc chiến sĩ như con cháu ruột thịt. Thế là các cụ, các bà cũng trực tiếp tham gia kháng chiến”. Ngày 16-3-1967, Bác gửi thư cho cán bộ và nhân viên nhà thương Nghệ An. Trong thư Bác viết “hầu hết cán bộ và công nhân viên của Nhà thương là phụ nữ… các cô, các cháu đã vượt khó khăn gian khổ, quyết tâm xây dựng một Nhà thương tốt… Bác rất vui lòng khen các cô, các cháu và mong tất cả mọi người đoàn kết tốt và tiến bộ nhiều”.
Chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, Nghệ An là điểm nút quan trọng, địch ngày đêm bắn phá ác liệt, nhằm cắt đứt các tuyến đường giao thông, ngăn chặn nguồn tiếp tế từ hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Các đội thanh niên xung phong Nghệ An đã không quản mưa bom, bão đạn sửa cầu, làm đường, đảm bảo giao thông thông suốt. Ngày 27-1-1969, Bác gửi thư khen ngợi Đội thanh niên xung phong số 333 tỉnh Nghệ An. Bác viết: “Đội phần lớn là các cháu gái đã dũng cảm chiến đấu, tích cực lao động, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, bảo đảm cầu đường được thông suốt luôn… Các cháu xứng đáng là những thanh niên ưu tú của nhân dân Việt Nam anh hùng”. Bác còn căn dặn: giặc Mỹ đã thua to, nhưng chúng vẫn rất ngoan cố. Vì vậy, các cháu phải nêu cao ý chí chiến đấu, tinh thần cảnh giác cách mạng; luôn luôn đoàn kết, ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá để ngày càng tiến bộ; đem hết nhiệt tình, tài năng của tuổi trẻ cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Bác vừa căn dặn phụ nữ tích cực lao động, chiến đấu nhưng cũng phải cố gắng học tập, nhất là các cháu gái. Nói chuyện với đại biểu nhân dân Nghệ An ngày 14-6-1957, khi biết số lượng học sinh gái ít hơn nhiều hơn so với học sinh trai, Bác đã không vui. Bác nói “Tỉnh ta có 7 vạn học sinh. Thế là khá, nhưng trong đó chỉ có 32 học sinh gái ở cấp III và 865 học sinh gái cấp II là còn ít. Thế thì các cháu gái phải cố gắng, các vị cha mẹ đừng tiếc công mà giữ con gái ở nhà, không cho các cháu đi học”. Đến thăm Trường Sư phạm miền núi Nghệ An (ngày 9-12-1961), Bác hỏi thăm học sinh các dân tộc. Khi Bác hỏi đến các cháu học sinh dân tộc Tày, có một học sinh nam đứng dậy, Bác hỏi: “chỉ có một cháu thôi à? Sao lại không có cháu gái? lần sau phải có cháu gái”
Được tin các cụ, các bà trong Hội Mẹ Chiến sĩ Liên khu IV tuổi đã cao mà vẫn cố gắng học tập, Bác rất xúc động. Bác viết thư động viên: “Nhiều cụ, bà tuy tuổi tác đã cao, vẫn cố gắng học chữ, học làm tính. Thật là đáng kính, đáng quý. Chẳng những các chiến sĩ mà tôi và Chính phủ cũng biết ơn các cụ, các bà”.
Để phụ nữ thật sự tiến bộ, bình đẳng, Bác mong muốn phụ nữ cần cố gắng để góp sức vào mọi công việc, cả trong việc lãnh đạo, quản lý. Trong Di chúc Bác viết vào tháng 5-1968, Người căn dặn: “Đảng, Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”. Trong thư gửi đồng bào tỉnh nhà vào tháng 8-1949, Bác vui mừng khi biết xã nào cũng có phụ nữ tham gia vào hội đồng nhân dân. Bác viết: “Tôi rất vui lòng rằng xã nào cũng có phụ nữ tham gia hội đồng nhân dân… Phụ nữ phải tham gia chính quyền nhiều hơn và thiết thực hơn nữa…”. Nói chuyện với Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An (ngày 8-12-1961), Bác hỏi: Ban Chấp hành Đảng bộ ở đây có tất cả bao nhiêu đồng chí?… “Có mấy đồng chí gái? (“Dạ, 3 đồng chí”). Thế là thế nào? Các đồng chí gái không được 10 phần trăm. Như thế thì đồng chí gái ít quá. Các chú có nhận thấy thế không? Không được một phần mười. Ít quá!”. Tiếp đó, ngày 9-12-1961, nói chuyện với cán bộ và đồng bào tỉnh, Bác nói: Tỉnh ta có hơn 61 vạn phụ nữ, tức là một nửa dân số, là lực lượng lớn trong công cuộc xây dựng Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, “so với nam giới thì địa vị của phụ nữ trong xã hội còn quá thấp kém. Thí dụ: Ở hội đồng nhân dân các xã, phụ nữ chỉ được 15 phần trăm tổng số đại biểu. Ở các cấp đảng uỷ và chi uỷ có 5 phần trăm là nữ đồng chí”. Để khắc phục tình trạng đó, Bác đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển: “Chúng ta phải có phương pháp đào tạo và giúp đỡ để nâng cao hơn nữa địa vị của phụ nữ”.
Những năm học ở bên Pháp, tôi vẫn luôn luôn hướng về Tổ quốc. Một đêm giao thừa, tất cả anh chị em người Việt Nam tụ tập tại trụ sở đón Tết của quê hương trên đất Pháp…
Tối hôm đó, Bác gặp Việt kiều ở Pari. Anh chị em Việt kiều quây quần xung quanh Bác như những người con tụ lại bên cha già. Trong tình cảm thương yêu rộng lớn, Bác dặn dò tất cả mọi người thế này: “Các cô, các chú phải cố gắng mỗi người học giỏi một nghề, sau này trở về giúp nước nhà, góp phần làm cho dân ta giàu, nước ta mạnh”. Lời dạy của Bác đã trở thành bó đuốc soi đường cho tôi suốt những năm học tập ở xa quê hương.
Giữa năm 1959, tôi thi đỗ bằng thạc sĩ toán học. Nhớ lời Bác, tôi tình nguyện xin về nước phục vụ.
(Trích lời kể của nữ Giáo sư, Tiến sĩ Toán học Hoàng Xuân Sính)
Trong những năm công tác ở Hà Nội, tôi được gặp Bác ba lần, một lần Bác đến thăm Trường Đại học Sư phạm của chúng tôi. Lần thứ hai, vào dịp Tết, tôi được gặp Bác. Trong buổi liên hoan đón năm mới hôm ấy Bác rất vui. Tôi lại được ngồi gần Bác. Bác cười chỉ vào tôi và nói với các đồng chí lãnh đạo ngồi bên cạnh:
– Sao ít phụ nữ thế? Bác muốn phong trào phụ nữ tiến bộ mạnh hơn nữa…
Tôi nghĩ trong đời tôi lúc bé đã được một lần Bác dạy cho cách học, những năm sống xa quê hương, hình ảnh Bác là nguồn động viên tôi khắc phục khó khăn để học tập. Khi trưởng thành lại được Bác săn sóc từ bữa ăn. Tôi là một trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam đã được Bác, Đảng, Cách mạng giải phóng và trở thành người có ích, được đem sức lực của mình phục vụ nhân dân, đất nước. Đối với tôi, không có gì sung sướng hơn là giữ gìn những kỷ niệm về Bác – cái vốn quý báu mà Bác đã trao cho tôi từ khi còn bé. Cái vốn quý đó mỗi ngày càng được nhân lên gấp bội, như cuộc đời tôi, được Bác, Đảng dìu dắt mãi mãi đi trên con đường sáng…
Vào cuối tháng tư nǎm 1964, Đại hội Liên hoan Phụ nữ “5 tốt” toàn miền Bắc họp tại Thủ đô. Tất cả đại biểu về dự phần lớn là rất trẻ, nhiều cô còn trẻ hơn con dâu út của tôi, duy chỉ tôi là đầu đã bạc.
Hội trường Ba Đình bữa đó bỗng náo nhiệt hẳn lên khi nghe tin Bác đến.
Bác đến vào giữa lúc họp. Thật quá bất ngờ. Tiếng hô “Bác Hồ muôn nǎm” vang lên bắt đầu từ những hàng thế trên cùng, phút chốc loan đi khắp cả phòng họp rộng lớn này. Tôi mừng vui và cảm động đến chảy nước mắt. Nhất là khi Bác lên bàn nói chuyện thân mật, Bác lại nhắc đến tên tôi. Tôi run lên, thú thật tôi không còn tin ở tai mình nữa. Tôi cứ tưởng mình đang nằm mơ! Bên cạnh tôi, cháu Trương Thanh Trúc, diễn viên Đoàn Vǎn công quân đội ghé sát vào tai tôi nói khẽ: “Mẹ Hoan, Bác nhắc đến tên mẹ!”. Lúc đó tôi mới tin là không phải trong mơ, mà là sự thật. Trong đời tôi, đây là một vinh hạnh quá lớn, một điều mà chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến. Tôi là một người phụ nữ bình thường ở một khu phố nhỏ, một người thợ thủ công già, thế mà Bác lại quan tâm đến công việc làm của tôi!
Thì ra nãy giờ tôi mải ngắm Bác… Giờ đây, tiếng Người vẫn bên tai. Mãi mãi trong đời tôi ghi tạc lời dạy của Người:
“Tǎng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân, tǎng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”.
Bác giải thích điều thứ 5 trong phong trào “5 tốt” vấn đề xây dựng gia đình nuôi dạy con cái, Bác nói: “Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Rộng ra nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một đại gia đình. Ta có câu hát:
“Nhiễu diều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Rộng hơn nữa chúng ta có đại gia đình xã hội chủ nghĩa:
“Lọ là thân thích ruột rà
Công nông thế giới đều là anh em”.
Đã là đại gia đình, thì sự sǎn sóc dạy dỗ cũng không chỉ nhằm làm cho con cháu mình khỏe và ngoan. Mà phải cố gắng giúp đỡ cho tất cả các cháu đều ngoan và khỏe. Về việc này chúng ta có những gương mẫu như cụ Lê Thị Hoan (Bác nhắc đến tên tôi). Cụ Hoan đã có công giáo dục mấy chục cháu xấu trở thành những cháu tốt. Nếu tất cả chị em phụ nữ ta đều cố gắng làm được như cụ Hoan thì chắc rằng con cháu của chúng ta đều sẽ ngoan và tốt.
Hội trường hướng về phía tôi vỗ tay ầm vang. Lúc này tôi lúng túng quá, chẳng biết làm gì. Tôi cúi mặt xuống, không dám ngẩng lên. Bác lại cǎn dặn các cấp Đảng bộ, chính quyền cần thiết thực giúp đỡ phong trào 5 tốt không ngừng tiến lên, để phụ nữ được đóng góp nhiều cho cuộc chống Mỹ cứu nước.
Sau cùng với giọng nói đầm ấm, Bác vui vẻ hỏi:
Già như cụ Hoan, sao cụ Hoan làm được? Tại sao các cô chưa làm được? Thế các cô có làm không?
Mọi người đều đáp:
– Có ạ? Bác lại hỏi:
– Dạ, họp xong về làm ngay.
Làm được bao nhiêu?
– Thưa Bác làm khắp nơi ạ!
Tôi liếc mắt nhìn Bác, thấy Bác gật đầu tỏ vẻ hài lòng.
Thế rồi, Bác bước xuống bục. Các cô trẻ chạy tràn ra cả lối đi để đón Bác. Bỗng chị Hà Quế đi đến chỗ tôi ngồi, chị gọi:
– Cụ Hoan ơi? Cụ Hoan lên gặp Bác.
Lúc đó tôi bàng hoàng cả người. Vừa mừng vui, vừa lo lắng. Tôi cố nhấc bước lên nhưng chân tay cứ run rẩy vì quá mừng. Tôi chưa đi được mấy bước, cũng vừa Bác đến. Bác cầm tay tôi. Luýnh quýnh tôi chẳng biết nói gì, thưa gì.
Nhưng tôi toát mồ hôi, ác một nỗi các anh quay phim lại chĩa những ngọn đèn sáng rực vào phía tôi.
Như biết tôi đang lúng túng. Bác chỉ vào chiếc ghế:
– Cụ ngồi xuống đây
Tôi mạnh dạn ngồi bên cạnh Bác. Bác ân cần thǎm hỏi gia đình tôi.
– Cụ ông có khỏe không?
– Cụ dạy bao nhiêu cháu, các cháu hiện có ngoan không?
Bác lại hỏi thêm.
– Các cháu đối với cụ thế nào?
– Rất thương ạ! Chúng đều gọi bằng “bà nội”. Và hôm nay các cháu đều cố gắng thực hiện “5 điều Bác Hồ dạy”.
Bác nhìn sang phía chị Nguyễn Thị Thập và các đại biểu rồi Bác hỏi tiếp:
– Đảng ủy, chính quyền, đoàn thể có giúp gì cụ không?
– Cụ còn nguyện vọng gì nữa không?
Bác quay sang các đại biểu trẻ, vui cười nói:
– Muốn Bác mạnh khỏe, muốn miền Nam giải phóng, thì phải ra sức thi đua.
Thế là tất cả chúng tôi đều hô to: “Bác Hồ muôn nǎm?” và cứ vây lấy Người, không muốn rời Người nửa bước.
Cháu Phạm Vǎn Phương, Nguyễn Vǎn Ý lái xe cho bộ đội pháo binh, cháu Nguyễn Vǎn Thanh, Nguyễn Vǎn Thao là học sinh giỏi toàn huyện. Nhiều cháu đi học xa tận các nước đã về làm thợ, làm cán bộ như các cháu Hoàng Đình Nội, Cao Đắc Quý… các cháu cùng chúng tôi có chút ít thành tích nhỏ như vậy là nhờ công ơn dạy bảo của Bác, của Đảng. Và chính Bác là người dạy cho tôi tình yêu trẻ, cách giáo dục trẻ. Lúc sinh thời, người là “Ông Cụ trồng cây giỏi nhất nước”. Và cũng vì yêu cây yêu người, Bác đã từng nói “Vì lợi ích mười nǎm trồng cây, vì lợi ích trǎm nǎm trồng người cho thế hệ mai sau.
Mùa xuân năm 1962, trời lạnh đến tê tái. Một tháng trước tết, Bác Hồ gọi cục phó Cục Cảnh vệ Phan Văn Xoàn lên giao một nhiệm vụ đặc biệt mà chỉ có hai bác cháu biết: “Chú tìm cho bác một gia đình nghèo nhất ở Hà Nội, bác sẽ đi thăm họ lúc giao thừa!”.Tôi có một tháng để đi khắp Hà Nội tìm cho ra một người nghèo nhất.
Hà Nội ngày ấy không giàu, nhưng để tìm ra người “nghèo nhất” vẫn là một thách đố đặc biệt. Tôi liên hệ nhiều nơi, gặp nhiều người vẫn chưa xác định được ai “nghèo nhất”. Cho đến một ngày, một anh công an địa bàn gọi bảo tôi thử tới thăm một người phụ nữ gánh nước thuê ở khu vực anh.
Chúng tôi ghé vào một ngõ sâu trên phố Hàng Chĩnh, đó là một ngôi nhà tăm tối, phên liếp tạm bợ, bên trong chỉ có một chiếc giường tre và vài ghế gỗ lăn lóc. Bàn thờ lạnh tanh hương khói, mạng nhện bao phủ – dù đang là những ngày giáp tết. Có bốn đứa trẻ đang nằm ngồi vật vạ chờ mẹ mang gạo về. Chúng đói. Chủ ngôi nhà ấy là một người phụ nữ ngoài 40 tuổi, tên Nguyễn Thị Tín, góa chồng. Chị vốn là công nhân thất nghiệp và từ lâu nay sống bằng nghề gánh nước thuê. Với chị, tương lai và sự nghiệp của gia đình chỉ là con số 0.
Tôi báo cáo rằng nhiệm vụ Bác giao tôi đã làm xong. Bác gật đầu.
Tối giao thừa ấy, như thường lệ, Bác Hồ đi với đại diện Thành ủy Hà Nội thăm vài gia đình trong kế hoạch. Khoảng 11 giờ tối, Bác nháy mắt với tôi ngụ ý: giờ đến chương trình của hai bác cháu mình.
Chúng tôi tách đoàn, gồm năm người: Bác, người thư ký, một cán bộ địa phương, tôi và một vệ sĩ khác – cùng hướng về phố Hàng Chĩnh. Bác mặc áo bông, quần vải gụ, đi dép cao su, đội mũ len đen và quấn khăn choàng cổ. Không hóa trang nhưng phải nhìn kỹ một tí mới nhận ra Bác được.
Người phụ nữ nghèo khổ xoay người lại nhìn những vị khách, rồi chị bàng hoàng buông rơi đôi quang gánh, chạy bổ tới, quì xuống, ôm choàng lấy chân vị lãnh tụ rồi khóc nấc lên: “Trời, sao Bác lại đến thăm nhà cháu?”. Bác Hồ rưng nước mắt: “Nhà cháu mà không đến thì đến nhà ai!”. Mọi người im lặng. Tôi, thêm một lần nữa, ngước nhìn vị lãnh tụ đất nước mình, thấy Người cao hơn tất cả.
Vào nhà, chúng tôi chia nhau thắp nhang đèn, bày quà bánh Bác dặn mang theo, chia một ít cho bốn đứa trẻ đang ngồi chờ mẹ trên chõng tre giữa nhà. Căn nhà bừng sáng, Bác quay sang hỏi về những đứa trẻ: Các cháu có đi học không? Chị Tín ngập ngừng: “Thưa, có ạ, nhưng thất thường lắm, ngày có ngày không. Chồng mất, cháu thất nghiệp, gánh nước thuê…”. Hỏi: Gánh nước thuê có đủ sống không? Ðến đây thì chị òa khóc: “Lo cái ăn từng ngày thôi, thưa Bác!”. “Giờ cháu có muốn làm việc không?”. “Thưa Bác, hoàn cảnh cháu thì không biết nói sao nữa, cháu muốn có chỗ làm để nuôi con, nhưng tứ cố vô thân, ai nhận cháu?”. Bác gật đầu không nói gì.
Gần 12 giờ, mọi người chúc tết chị Tín và ra về. Lúc này ngoài đầu ngõ, tin Bác Hồ đến thăm nhà mẹ góa con côi của chị Tín đã bất ngờ lan truyền. Hàng xóm rủ nhau khoảng mấy chục người dân đứng chật trong ngõ chờ Bác ra. Tôi hơi bối rối. Bất thình lình Bác bước lại phía mọi người, tiếng vỗ tay vang lên.
Chờ mọi người im lặng, Bác nói: “Bữa nay Bác vui vì tình cờ gặp các cụ, các cô chú, nhưng Bác cũng rất buồn vì mới từ nhà cô Tín ra. Giờ này sắp giao thừa, các cô chú có biết cô Tín còn đi gánh nước thuê không? Tại sao cả một khu phố vầy mà không thấy ai quan tâm đến một gia đình như cô Tín?”. Im lặng, một đại diện khu phố nhận lỗi, hứa sẽ quan tâm nhà chị Tín. Bác tiếp tục: “Bác muốn nói về tinh thần “lá lành đùm lá rách” trong khu phố, nhưng cái lớn nhất vẫn là trách nhiệm của Chính phủ…”.
Bước lên xe, đó là năm đầu tiên tôi thấy đi chúc tết người dân về mà Bác thật buồn. Người quay sang nói: “Các chú thấy chưa? Hôm nay mình đã đi đúng người thật việc thật rồi, nếu mà mình báo trước với thành phố, hỏi nhà nào nghèo nhất thì chắc chắn không phải là nhà cô Tín rồi…”.
Về nơi Bác ở, Bộ Chính trị đã tập họp để chúc tết Bác và cùng đón giao thừa. Bác ngồi vào ghế, mọi người ngồi xung quanh. Bác im lặng tí rồi nói từ từ: “Bữa nay tôi có một chuyến thăm một nhà nghèo nhất thủ đô Hà Nội. Cô Tín, chủ nhà, giờ này còn phải đi gánh nước thuê để có tiền mai mua gạo cho con. Chúng ta đã quá quan liêu để không biết những câu chuyện như vậy ở ngay tại thủ đô đất nước mình. Tôi biết không chỉ có một nhà như chị Tín đâu, người nghèo còn nhiều. Một đảng cầm quyền mà để người dân mình nghèo hết còn chỗ để nghèo thì đó là lỗi của Ðảng với nhân dân…”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng hoa phong lan cho ba đại biểu nữ dân quânQuảng Bình và Vĩnh Linh, năm 1968
…Tháng 11-1959, tôi được điều về công tác ở phòng y tế huyện. Chưa đầy một năm, tháng 9-1960, tôi lại được về tỉnh học bổ túc văn hóa. Không ngờ dịp này, hân hạnh cho tôi: Được gặp Bác Hồ! Tháng 3-1961, Ban Giám hiệu cho biết sẽ có cán bộ Trung ương về thăm. Chúng tôi đều đoán già đoán non, chưa biết là ai. Mọi người còn đang bàn tán giữa sân thì một đoàn ô tô nối đuôi nhau chạy vào cổng. Chúng tôi hồ hộp chờ đợi.
Bác tiến vào giữa tiếng hoan hô reo mừng vang dậy.
Bác đi thăm xung quanh nhà, rồi đến chỗ ăn, chỗ ngủ của chúng tôi. Đến đâu Bác cũng khen sạch sẽ và dặn mọi người chớ để Bác đi rồi lại ở bẩn. Rồi Bác hỏi các em ở trường vùng cao có được ăn no không, có được mặc ấm không, đã biết ngủ màn chưa, biết tập thể dục chưa, có nhớ nhà không?…Tôi nhớ nhất Bác dặn điều này:
Trước lúc ra về, Bác bảo:
Tôi trở về huyện, đi xây dựng cơ sở phòng bệnh các xã. Chưa đầy năm tháng, lại được cử về Thái Nguyên học trường y sĩ. Ban đầu, tôi không muốn nghĩ rằng mình công tác chưa là bao, cử đi học hết lớp này đến lớp khác, cấp trên ưu tiên nhiều quá, ngượng lắm. Các đồng chí huyện bảo: “Đảng và Bác cho cô đi học để sau này phục vụ sức khỏe đồng bào các dân tộc được nhiều. Cô phục vụ được nhiều, được tốt là đền đáp được công ơn đó. Cô cứ về học cho thật giỏi, chớ có ngại ngần gì”.
Có lần nhân câu chuyện kể với các bạn trẻ trong khu Phủ chủ tịch, Bác nói:
“Các cô, các chú bây giờ đi học có trường, có bàn ghế, có thầy cô, có bạn bè, sách vở, giấy bút, có giờ giấc đàng hoàng. Tối đến có đèn điện, thế mà một năm không lên được một lớp là không đúng. Ngày xưa, lúc Bác đang tuổi các cô, các chú thì tất cả bàn ghế, thầy cô, bạn, sách vở, giấy bút chỉ có trong bàn tay này thôi”.
Bác giơ bàn tay trái lên nói tiếp:
“Hồi ấy Bác làm bồi tàu, là người quét tuyết ở Anh, rồi đi làm phụ bếp. Làm việc từ sáng đến tối, suốt ngày không được cầm đến tờ báo mà xem. Đến đem mới hết việc, mới được đọc sách, đọc báo. Ban ngày muốn học chỉ có một cách là viết chữ lên mảnh da tay này. Cứ mỗi buổi sáng viết mấy chữ, rồi đi cọ sàn tàu, cọ thùng, đánh nồi, rửa bát, thái thịt, băm rau, vừa làm vừa nhìn vào da bàn tay mà học. Hết ngày, người thì đầm đìa mồ hôi, chữ thì mờ đi, cuối buổi đi tắm mới xóa được chữ ấy đi. Coi như đã thuộc, sáng mai lại ghi chữ mới.”
“Tôi không có hạnh phúc được theo học ở trường đại học. Nhưng cuộc sống đã cho tôi cơ hội được học lịch sử, khoa học xã hội và ngay cả khoa học quân sự. Phải yêu cái gì? Phải ghét cái gì? Cũng như tôi, tất cả người Việt Nam cần phải yêu độc lập, lao động, Tổ quốc”.
“Tất nhiên không phải riêng tôi mà toàn thế giới đều kính trọng những nhà báo chân chính. Tôi cũng có thời gian học làm báo, cũng có thời gian tôi bỏ ngòi bút, cầm súng để chống lại kẻ thù, chống lại chủ nghĩa thực dân. Khi tôi còn ở Pháp, khi còn biết ít tiếng Pháp, tôi đã là tổng biên tập, biên tập và phát hành cả một tờ báo.”
Bác thường nói với cán bộ:
( Theo Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của Chủ tịch HồChí Minh,Nxb. Chính trị quốc gia, 2007 )
Sài Gòn năm 1911. Năm ấy, Bác Hồ hai mươi mốt tuổi. Một hôm, anh Ba – tên của Bác Hồ bấy giờ – được một người bạn đưa đi xem đèn điện ở trước của tiệm cà phê của Pháp, xem chiếu bóng và máy nước. Những cái đó trước kia anh chưa hề thấy.
Hai người dắt nhau đi nhiều nơi trong thành phố, những cảnh tượng đầy rẫy bất công đập vào mắt họ. Đột nhiên anh Ba hỏi người bạn:
Người bạn ngạc nhiên và đáp:
Anh có thể giữ bí mật được không?
Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?
Đây, tiền đây! – Anh Ba vừa nói vừa giơ hai bàn tay – Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Anh cùng đi với tôi chứ?
Bị lôi cuốn vì lòng hăng hái của anh Ba, anh Lê đồng ý. Nhưng sau đó anh Lê không đủ can đảm để giữ lời hứa. Thế là chỉ có một mình anh Ba, rời cảng Nhà Rồng bước chân xuống tàu để đi sang các nước, trước hết là sang Pháp.
Với quyết tâm và lòng yêu nước sâu sắc, Bác đã làm nhiều nghề khác nhau như: phụ bếp, bồi bàn, quét tuyết,…suốt từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối hằng ngày. Bác chỉ mong sao tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.
Hồi ở Pác Pó, sáng ra Bác thường bố trí công việc cho chúng tôi làm. Ai không có việc được Bác tìm việc cho. Ai đã sắp xếp được công việc trong ngày, Bác thấy vui dù việc làm ấy rất nhỏ. Bác thường hỏi từng người:
Tôi cũng như các anh em khác thường được Bác chăm lo như vậy. Đặc biệt là khi chúng tôi nghiên cứu tài liệu, Bác thương hướng dẫn rất chu đáo giúp chúng tôi đi vào nền nếp. Đối với anh chị phục vụ, Bác cũng ân cần chỉ bảo. Tôi nhớ có lần Bác nói với chị Trưng người Cao Bằng:
Việc nhắc nhở thương xuyên của Bác rèn luyện cho mọi người ở cạnh Bác có một thói quen sắp xếp công việc hàng ngày, rèn luyện cho bộ óc chúng tôi quen làm việc có kế hoạch, tránh sự tùy tiện tản mạn và nhất là tránh nhàn rỗi.
Vì thích bóng chuyền và bơi nên Bác đề ra nguyên tắc chỗ ở của Bác trên Chiến khu nên cách nới Chính phủ đóng khoảng 3km, phải có bãi để làm sân bóng và có suối để bơi. Tìm được chỗ ở như vậy cũng khó nên chúng tôi xin phép Bác tìm sân, suối cách đó từ 500m đến 1km.
Sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc, Bác cháu cùng nhau đánh bóng chuyền. Hôm nào không đủ người đánh bóng chuyền thì đi bơi. Tôi thường bố trí hai người khỏe để bảo vệ Bác.
Về mùa hè, những lần Bác đi công tác phải trải qua sông, qua suối, chúng tôi thường chuẩn bị thuyền hoặc mảng để đưa Bác qua. Nếu nước lớn, chảy xiết thì Bác đi thuyền. Gặp những hôm trời lặng, nước chảy từ từ thì Bác không chịu ngồi thuyền, ngồi mảng mà tự bơi. Chúng tôi cử một người bơi giỏi cùng bơi vớiBác. Lên bờ, Bác nói:
Sau này nhữngphim tư liệu hiếm hoi ghi lại cuộc sống của Người trên chiến khu cho chúng ta thấy được hình ảnh của Bác lội suối, băng rừng, đầu đội tấm áo vừa đi, vừa phơi cho khô. Hình ảnh của một vị lãnh tụ thật gần gũi với nhân dân.
Về Hà Nội, điều kiện bơi và đánh bóng bị hạn chế nên năm 1959 chúng tôi đưa Bác ra Bãi Cháy nghỉ vài ngày. Sáng lấy ca nô đưa Bác ra đảo nghỉ ở đó đến tối mới về, đem theo cả nồi niêu nấu cá luôn. Những chuyến đi như thê này giúp Bác nghỉ ngơi, thư giãn và có điều kiện gần dân hơn.
Đó là câu hỏi đầu tiên của Chủ tịch khi Cụ bước vào phòng khách. Sau khi vui vẻ mời chúng tôi ngồi, Cụ tiếp ngay:
Buổi sáng mùa hè hôm đó, nước da của chủ tịch có một màu hồng khỏe mạnh và đôi mắt sáng ngời, đôi mắt của thanh niên.
Có mấy đoàn thể cùng vào chung để chúc thọ. Giới thiệu đến Uỷ ban Đời sống mới, Cụ bỗng hỏi như níu lại:
Chủ tịch như đang ngơ ngác trước những danh từ to lớn của tôi. Thực tình tôi lo: nếu Chủ tịch không hiểu thì quần chúng hiểu sao đây. Mà quả thật, Cụ đứng hẳn về phía quần chúng. Cụ nói:
Mọi người nhìn nhau và tôi không giấu nổi vẻ bối rối. Tôi nói về tuyên truyền, tổ chức,.. Cụ lắng nghe. Một họa sĩ ngồi đối diện Cụ Hồ ở cuối bàn, lặng lẽ ghi trên giấy hình ảnh vị Chủ tịch hòa nhã. Khi tôi nói hết, Cụ lắc đầu nhìn tôi, nhìn mọi người, tay gân guốc vỗ vào bụng và nói:
Cả bọn chúng tôi người bàn thế này, người bàn thế nọ. Cụ chậm rãi nói một cách nghiêm trang.
Và sợ chúng tôi hoài nghi, Cụ nhắc lại:
Cụ đưa mắt nhìn mọi người như để căn dặn điều đó
… Đến đây Cụ đứng dậy vì có khách chờ.
Hôm ấy, Bác mặc quần áo gụ, đội mũ lá cọ, chân đi dép cao su, quần xắn đến đầu gối, khăn vắt trên vai, tay chống gậy đi ra cánh đồng thăm bà con nông dân đang tát nước.
Mới 10 giờ mà trời nắng như đổ lửa, chúng tôi – những cán bộ đi theo cũng thấm mệt, mồ hôi vã ra như tắm tràn xuống mắt giàn giụa, tràn xuống miệng mặn chát. Bác đi rất nhanh, mặc dù đường sống trâu, Bác vẫn thoăn thoắt đặt chân trên các gồ đất cách nhau 30-40 cm một cách nhẹ nhàng như một lão nông thực thụ. Đến dầu một con mương, đồng chí chủ tịch Hà Đông thấy bờ mương hẹp, khó đi, vội chạy lên trước để mời Bác đi theo đường chính. Bác xua tay và rẽ vào bờ mương để đến chân ruộng bà con đang lao động giữa cánh đồng bị hạn. Tất nhiên chúng tôi phải đi sau và cố hết sức mới kịp. Đến một chỗ bờ mương bị xé ra 1,5m để tát nước gần đấy, đồng chí Chủ tịch lại chạy lên định dắt Bác đi, chưa kịp thì Bác đã nhảy phắt và đi tiếp sang bên kia. Những người đi sau, người nhảy qua được, người phải men xuống ruộng để qua.
Thấy Bác đến, lại còn mặc như lão nông, bà con vui mừng bỏ cả gầu đổ xô lại vây quanh Bác rất đông. Có cháu thiếu niên 14-15 tuổi len đến gần Bác, đưa tay lên vuốtrâu Bác. Bác thân mật hỏi thăm mọi người, bắt tay bà con, rồi nói bằng giọng miền Bắc pha xứ Nghệ ấm áp:
Thuở nhỏ, đã nhiêu năm, tôi sống với bà con làng xóm làm nông nghiệp, tôi hiểu nỗi cơ cực cả bà con khi trời hạn hán. Bây giờ chúng ta có chính quyền, bà con làm chủ ruộng đồng, gặp lúc thiên tai, phải cùng nhau chống hạn, cứu lúa.
Mọi người “vâng ạ!” thật rõ và to.
Sau đó Bác lên đạp guồng cùng một Bác nông dân ngoài 50 tuổi, để bác nông dân đỡ vất vả và được nhiều nước, Bác căn dặn chính quyền thôn xã phải tích cức huy động bà con biết nghề mộc xẻ gỗ để đóng guồng.
Bà con hỏi Bác đủ thứ chuyện. Bác đều trả lời thân mật, dễ hiểu. Trước khi chia tay với bà con nông dân, Bác đã đọc hai câu thơ:
“Hỡi ai bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.
Mọi người xúc động đứng mãi tại nơi đã gặp Bác, vẫy chào tạm biệt.
Cuối năm 1968, Tông cục trưởng Lâm nghiệp được Bác mời lên báo cáo về tình huống cây gây rừng. Sau khi thú thật với Bác làm mấy năm nay, phần thì thiên tai, lũ lụt, phần thì địch phá hoại, phần lớn nữa là dân đót rừng, chặt cây, gây cháy rừng nên rừng bị phá hoại nhiều trong khi dân vẫn cần nhiều gỗ để làm nhà. Nhà nước cần giữ rừng để chống lụt, giữ nước đầu nguồn,…Tổng cục trưởng nói:
Và Tết năm 1969, Bác lại viết bài “Tết trồng cây”…
Bác hỏi đồng chí Bí thư:
Bác nhấn mạnh chữ “định” ý muốn nhắc Nghệ An đã “quyết” chưa?
Bác giao hẹn:
39 đồng chí tỉnh ủy viên, trong đó có 3 nữ ( không được một phần mười “ít quá” như Bác đã nhận xét buổi đầu câu chuyện), đều hứa sẽ thực hiện đúng lời Bác dạy.
Giữa tháng 5 năm 1946, được tin đoàn cán bộ miền Nam ra Bắc đang ở tại nhà ông Bộ trưởng Bộ giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm đoàn. Người hỏi thăm sức khỏe của đoàn và tình hình Nam Bộ. Khi biết chiến trường cán bộ rất cần súng, Người nói: “Thế nào Trung ương và Chính phủ cũng có súng gửi vào Nam. Nhưng nước ta còn nghèo, các cô chú về, phải đánh Pháp cho giỏi, cướp lấy nhiều súng của nó dùng thì cái vốn đó mới nhiều”.
Sang đến năm 1967, Bác Hồ của chúng ta đã già và yếu đi nhiều. Nhưng ngày ba bữa, Bác vẫn tự mình từ nhà sàn đi bộ xuống nhà ăn. Một phần, không muốn phiền anh em phục vụ, phần nữa, Bác muốn đặt ra cho mình một kỷ luật, buộc mình phải vận động, rèn luyện, chống lại suy yến của tuổi già .
Các đồng chí phục vụ Bác rất áy náy. Phần thương Bác vất vả, ngày nắng còn ngày mưa, phần lo Bác già yếu, chẳng may vấp nã, nếu có chuyện gì thì ảnh hưởng lớn đến công việc của đất nước và của Đảng.
Ngày đó, con đường quanh ao cá chưa được tôn tạo như bây giờ. Sau những trận mưa lớn, đường đi còn ngập nước. Nhưng đến giờ ăn, dù đang còn mưa, Bác vẫn xắn quần quá đầu gối, cầm ô, cùng đồng chí bảo vệ, lội nước đi sang nhà ăn. Nhìn ống chân Bác gầy gò, nổi gân xanh, anh em thương Bác, trào nước mắt, nhưng không sao thuyết phục được Bác cho phép dọn cơm bên nhà sàn.
Có hôm, buổi sớm, Bác vào thay quần áo xong, đến bữa, gặp trời mưa, Bác không muốn các đồng chí phục vụ phải giặt nhiều, Bác cởi quần dài, gập lai, cắp nách, sang đến nơi mới mặc vào. Bác coi mình cũng chỉ là một người phục vụ và xem các đồng chí phục vụ cũng như mình nên không muốn làm phiền ai. Tuy vậy, các đồng chí phục vụ Bác vẫn cố gắng tìm mọi cách để có thể thay đổi tình tình ấy.
Một hôm, Bác gọi cho chị Trần Thị Lý, người con gái miền Nam vào ăn cơm với Bác. Bác mờ vào ngày Chủ Nhật, nhưng hôm đó đồng chí Lý lại đi vắng nên hôm sau chị mới vào được.
Hôm đó, trời mưa rất to. Đồng chí Vũ Kỳ cho dọn cơm ngay bên dưới nhà sàn để Bác ăn cùng chị Lý. Thương chị Lý thương tật, đau yếu, đường mưa trơn, đi lại khó khăn, bữa đó Bác Hồ đồng ý ở lại ăn cơm dưới nhà sàn. Hôm sau, các đồng chí phục vụ lại dọn cơm dưới nhà sàn,mời Bác ăn, coi như đã có một tiền lệ và không thỉnh thị Bác. Nhưng Bác đã cho gọi đồng chí Vũ Kỳ đến và phê bình:
Ý Bác đã rõ, Bác muốn mỗi ngày ba bữa, mỗi bữa ăn, đi vòng quanh hồ một lần, như một kỷ luật với bản thân. Tuổi già, cũng giống như trẻ thơ, muốn được chiều chuộng. Bác biết: nếu dễ dãi với mình và để người khác dễ dãi với mình dần dần sẽ hư thân đi.
Không ai sinh ra đã trở thành lãnh tụ. Muốn trở thành vĩ đại nhân, phải có chí rèn luyện. Làm Chủ tịch nước tồi, trở thành lãnh tụ kính yêu của cả giai cấp và dân tộc rồi, Bác Hồ vẫn không ngừng rèn luyện. Vì vậy, ở vị trí càng cao, càng nổi tiếng, tinh hoa, phẩm chất, đạo đức của Bác càng sáng, càng trong.
( Theo Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
Ở khách sạn Các- tơn, hằng ngày có người phục vụ dưới bếp. Những người này, sau khi khách ăn xong, có nhiệm vụ phải thu dọn bát đĩa… và đổ tất cả thức ăn thừa vào một thùng to rồi đem đổ đi. Có những khi thức ăn thừa là một phần tư con gà, hau cả đĩa bánh mì và những miếng bít tết to tướng…
Đến lượt anh Thanh làm phụ bếp, những thức ăn thừa của khách, anh đem để riêng và đậy lại cẩn thận, sạch sẽ, sắp xếp gọn gàng rồi đưa cho nhà bếp.
Thấy vậy ông đầu bếp Ết-cô-phi-e hỏi lại anh:
Ông chủ bếp và mọi người nhìn anh, biểu hiện một sự quý mến và khâm phục trước tấm lòng yêu thương của anh trước người nghèo khổ.
Nếp sinh hoạt, cách ăn mặc của Bác đã thành thói quen,Người luôn có ý thức trước những việc làm đó. Từ những năm tháng hoạt động ở nước ngoài, lúc ở Thái Lan, khi về Trung Quốc, về nước thời kỳ bí mật ở Cao Bằng hay khi làm chủ tịch nước, những năm tháng kháng chiến, lúc về thăm nông dân gặt hái hay làm thượng khách ở nước ngoài , Bác luôn luôn với một tư thế giản dị, ung dung, tự tại, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh. Dù ở đâu, lúc nào, Bác cũng để lại ấn tượng tốt đẹp, một phong cách mẫu mực của một lãnh tụ. Hành trang Bác mang theo tự nói lên một điều chân thực: Làm chức càng cao càng phải giản dị. Làm Chủ tịch nước, Bác nhận lấy cho mình cái quyền đượcsống giản dị, bằng mức sống bình thường của người dân. Các đồng chí được giao nhiệm vụ phục vụ Bác,tìm mọi cách để lo cho Bác chu tất về mọi mặt. Nhưng Bác luôn có cái lý của Bác, thời kỳ chiến khu gian khổ Bác bảo chưa cần thiết, khi làm Chủ tịch nước Bác bảo dân còn nghèo.
Tư trang của Bác bao giờ cũng ở mức cần thiết cho sinh hoạt, nhưng Bác luôn luôn lo cho sự thiếu, đủ của từng người. Đến thăm thương binh, bác lo từng chiếc áo ấm cho họ. Lúc vào trại tù binh, thấy tù binh thiếu áo, Bác cũng lo áo cho họ, cử ngĩa đó làm bớt đi căng thẳng thù hận giữa con người với con ng ười , của hai dân tộc. Trong gian khổ kháng chiến, Bác cùng chịu đựng đói, no, giá lạnh như người chiến sĩ. Không lo cho riêng mình, Bác lo cho chiến sĩ trước. B á c là người khởi xướng phong trào “mùa đông chiến sĩ” vận động nhân dân không những lo cái ăn mà còn lo cái mặc cho chiến sĩ. Ở hậu phương có ai có thành tích lo cho cái mặc ấm của các chiến sĩ Bác đều gởi thư khen ngợi.
Có lần Bác đi thăm một nhà máy, Bác xuống tận tổ công nhân đang cho chạy máy, Bác đến hỏi han công việc, chất xút bắn vào áo, tạo thành nhiều vết khác màu áo, Bác bảo đồng chí phục vụ khắc phục làm cho vết xút và màu áo gần giống nhau, và chiếc áo lại dùng được bình thường. Tất cả những áo quần đó đều mang vết nên không thể gi ấu Bác mà thay cái mới được, thay cái khác là Bác biết, Bác phê bình ngay. Đồng chí Cần, chuyên lo ăn uống, quần áo cho Bác. Đồng chí tâm cỡ người như Bác, đồng chí may vừa là Bác mặc vừa. Quần áo thường ngày Bác thích màu gụ, nên khi may xong đồng chí mang sang xí nghiệp Tô Châu nhuộm gụ. Bộ nào hơi cũ là đồng chí t hay bộ khác cùng kiểu, cùng màu nên Bác không biết. Một thời gian sau Bác thấy quần áo vẫn mới. Bác bèn đánh dấu rất kín và phát hiện ra là đồng chí đã đổi quần áo của Bác. Bác liền phê bình, từ đó rất khó thay đổi quần áo của Bác. Áo Bác dùng lâu, giặt đigiặt lại nhiều lần nên cổ áo bị sờn và rách dần, khi mọi người đề nghị Bác cho thay cái mới, Bác bảo “Cả cái áo mới bị sờn chỗ cổ mà vứt đi thì không được, chú chịu khó tháo rồi lộn trong ra ngoài, may lại vẫn lành như mới’. Làm theo ý Bác được mấy lần, sau không thể “khắc phục” được nữa Bác mới cho thay cái mới.
Đôi bít tất Bác đi cũng vậy, bị thủng ở đầu ngón chân Bác cũng bảo vá lại cho Bác dùng, vì không biết làm thế nào nên xuống nhờ các cô ở Bộ nội vụ giúp. Các cô đề nghị thay đổi khác cho Bác nhưng Bác dặn bít tất của Bác chỉ hỏng mũi còn các chỗ khác vẫn nguyên lành, chỉ nhờ các cô khâu lại, nếu đem đổi đôi khác là Bác không dùng đâu. Khi Bác dùng lại đôi tất, khen các cô khéo tay, Bác nói “Chú xem, chỉ cần chịu khó một tí là có một đôi bít tất như mới”. Lần sau, đôi bít tất đó thủng hai chỗ trước và sau, rồi lại lần nữa, các cô phải khâu lại đến ba lần. Bác thường dùng khăn mặt vuông, vì khăn mặt vuông tiết kiệm hơn khăn mặt hình chữ nhật, mỗi khi dùng xong Bác có thói quen phơi lên dây, giữ cho hai phép dưới bằng nhau. Bác tìm mấy hòn quậy nhỏ xếp vào hộp xà phòng, khi dùng xong Bác để xà phòng lên những hòn cuội, xà phòng mau khô, nên tiết kiệm.
Khi về Hà Nội, Bác vẫn dùng dép cao su. Đôi dép Bác dùng lâu ngày vẹt cả đế, quai bị tuột luôn, đóng đinh găm quai nhiều mà vẫn bị tuột, có kiên trì và khéo tay mới làm lại được, khi sửa xong vẫn thấy dùng được là Bác cứ dùng. Thấy dép Bác cũ, hỏng nhiều, các đồng chí phục vụ đề nghị thay đôi khác, Bác không chịu. Anh em bàn “kế hoạch” làm một đôi khác thật giống đôi dép Bác đang đi, chỉ có khác là chắc, bền hơn,lợi dụng thời cơ thay vào.
Một lần Bác đến thăm một đơn vị hải quân,các chiến sĩ lần đầu gặp Bác, ai cũng muốn được gần Bác nên chen chúc nhau làm tuột quai dép của Bác. Bác bảo chú nào khéo tay sửa lại cho Bác. Ai cũng giành lấy để giúp Bác, thế rồi đôi dép được chuyền tay nhau những không ai sửa được vì đôi dép đã quá vét mòn, đã đóng đỉnh mấy lần rồi, xâu vào nó lại tuột ra. Có người nhanh chân kịp lấy búa và đinh sửa lại cho Bác. Có người yêu cầu Bác đổi dép khác, Bác bảo: “Dép đã sửa xong, khi nào không sửa được hẵng hay, giờ mua đôi khác không cần thiết, vẫn dùng được sao vứt đi, dân ta còn nghèo, mỗi người kể cả Chủ tịch nước cũng phải tiết kiệm.”
Có mẩu chuyện vui về đôi d á p của Bác. Lần đó xem phim, tất cả mọi n g ười ngồi bệt xuống mặt đất, Bác để dép ngay ở phía trước để khi về tiện lấy và không nhầm lẫn. Xem phim xong Bác cùng mọi người chụp ảnh. Cô gái ngồi cạnh Bác thấy đôi dép đã cũ, không biết dép Bác, sợ xấu mất ảnh, vươn người với tới định cất đi. Bác nhanh tay hơn với trước, vội cất ra sau và nói vui: “Ờ đúng rồi, ph ải giấu nó đi chứ vào ảnh hỏng ảnh mất.”
Đầu năm 1958, đi thăm Ấn Độ, Bác vẫn đi đôi dép thường ngày. Mọi người trong đoàn thấy thế rất ái ngại nên bàn nhau mang theo một đôi giầy vải. Lên máy bay nhân lúc Bác ngủ, thay đôi dép bằng đôi giày vải. Khi thức giấc Bác hỏi dép, anh em trả lời Bác dép đã để dưới khoang máy bay. Khi xuống sân bay, Bác yêu cầu lấy dép để Bác đi, Bác bảo đừng lo gì cả, đất nước Ấn Độ cũng nghèo như nước mình, mới có độc lập nên còn nhiều vất vả. Bác đi dép có bít tất thế là rất tốt, họ không chê mình đâu. Nhân dịp này Bác muốn gần gũi với nhân dân lao động Ấn Độ. Hôm sau trên các trang báo lớn Ấn Độ đều hết lời ca ngợi Bác là vị Chủ tịch nước dân chủ nhất thế giới, ca ngợi đôi dép Bác Hồ là một huyền thoại. Hôm Bác đến một ngôi chùa, Bác cởi để dép ở ngoài, các phóng viên được dịp tha hồ quay phim, chụp ảnh đôi dép huyền thoại đó.
Lo cho dân, Bác không chỉ ngồi ở bàn giấy rồi nghe báo cáo, mà Bác trực tiếp xuống tận cơ sở đến với từng người lao động để hiểu rõ hơn tình hình thực tế. Đi đâu Bác cũng chỉ dùng xe “Pabeda”do nhân dân Liên Xô gửi tặng. Xe dùng lâu ngày nên đã cũ và hay hỏng vặt, văn phòng đề nghị Bác đổi xe khác tốt hơn, Bác không đồng ý, Bác bảo: “Ai thích đi nhanh, thích êm thì đổi, còn Bác thì không”. Có hôm đến giờ đi công tác, xe không nổ máy được, Bác ôn tồn bảo đồng chí lái xe: “Máy móc cũng có lúc trục trặc. Chú cứ bình tĩnh sửa, sửa xong Bác cháu đi cũng kịp”, mấy phút sau xe mới nổ máy được, Bác cười vui vẻ và nói: “Thế là xe vân còn tốt”.
Ở Bác, tiết kiệm là hành trang trong cuộc đời. Thật cảm động khi biết rằng, bản di chúc của Bác đã đi vào lịch sử dân tộc được Bác viết ở mặt sau tờ tin hàng ngày của Việt Nam Thông tấn xã.
Hành trang của Bác – của một vị lãnh tụ, giản dị như hành trang của một người dân bình thường, bởi Bác sống không chỉ cho riêng mình.
Tại buổi giao l với tuổi trẻ các l c lượng vũ trang khu v c miền Trung và vùng 3 Hải quaan vào đầu tháng 3-1968, nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang Trần Thị ý đã xúc động kể lại kỷ niệm sâu sắc 3 lần được gặp Bác Hồ. Mỗi lần gặp Bác, th o chị đó là một lần được Người dạy bảo về đạo làm người, truyền thêm sức mạnh và niềm tin, chắp cánh cho chị suốt cả cuộc đời…
Ngày mồng 10 tháng 5 năm 1951, Bác Hồ viết thư gửi các cháu học sinh trường Việt Bắc:
Người ta đã nói nhiều rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực về sự giản dị và khiêm tốn. Người nói thẳng và dùng từ ngữ đơn giản trong đời sống hằng ngày cũng như trong bài viết và trong các bài diễn văn của mình. Người không bao giờ quên nguồn gốc xuất thân cũng như kinh nghiệm người từng là một người lao động bình thường, Người có những tư tưởng cao thượng và tầm nhìn xa trông rộng. Người không bao giờ quên những nỗi thống khổ mà nhân dân Việt Nam và các dân tộc khácđã phải trải qua dưới áp bức của chủ nghĩa thực dân và áp bức của chủ nghĩa tư bản.
Bài học thứ nhất: Sự khiêm tốn không thừa
Tháng 1-1967, sau Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc, Đoàn đại biểu tỉnh Quảng Bình được Bác ưu tiên cho gặp riêng tại phủ chủ tịch hơn 30 phút. Không khí buổi gặp rất ấm cúng. Bác hỏi kỹ hoàn cảnh của từng người, thành tích lập được trong hoàn cảnh nào? Đời sống quê hương ra sao…Người dặn dò cả đoàn: Thành tích của các cô, các chú và các cháu, ngoài sự nỗ lực của cá nhân, còn có sự đóng góp và động viên to lớn của tập thể. Bởi vậy phải hết sức khiêm tốn, học tập phấn đấu thêm, tránh cho bằng được sư kiêu căng tự mãn. Cả đoàn đều rưng rưng, thầm hứa sẽ phấn đấu để xứng đáng hơn nữa, ai cũng mong cho thời gian gặp Bác được dài hơn. Thấy cả đoàn bịn rịn không muốn chia tay Bác, Bác nói: “Ở Quảng Bình có bài “Quảng Bình quê ta ơi” hay lắm- nghe nói cháu Lý có hứa với thủ tướng nếu được gặp Bác sẽ hát riêng cho Bác nghe. Bây giờ hãy hát cho Bác và Thủ tướng cùng nghe”. Chị Lý: “Thưa Bác, được gặp Bác cháu xúc động quá, cho phép cháu được cầm càng cho đoàn Quảng Bình hát tặng Bác và Thủ Tướng”. Bác gật đầu đồng ý…
Bài học thứ hai: Bất cứ việc gì cũng phải làm việc tỉ mỉ, chu đáo.
Tháng 7-1967, đang học văn hóa tại trường văn hóa quân khu, chị Lý nhân được tin vui: ra thủ đô để đi thăm Cu-ba. Trong thời gian làm thủ tục, một vinh dự nữa đến với chị, chị được gặp Bác lần hai.
Đêm trước khi được gặp Bác, chị không sao ngủ được. S á ng hôm sau, chị đã có mặt rất sớm để được đón đến Phủ Chủ Tịch. Vừa xuống xe thì đồng chí Vũ Kỳ thông báo: “Bác cho gọi cháu vào gặp. Bác đang làm cỏ ở vườn, cháu cứ vào”. Mừng quýnh, chị chạy lại chỗ Bác. Người dùng tay, vuốt mồ hôi trên trán và ân cần: “Lý đấy hả cháu, từ sau đại hội đến giờ, về làm những chi mà đen và gầy thế!”. Chị xúc động không nói nên làm, Bác nhanh nhẹn đi về phía nhà sàn. Đứng ngắm Bác không mỏi thấy Bác gài lệch chiếc cú c áo lụa mỏng, chị xin phép gài lại hàng cúc áo cho Bác. Hai Bác cháu ngồi lại dưới sàn. Bác hỏi: “Nghe nói cháu được đi nước ngoài phải không?”. Chị Lý: “Thưa Bác, được đi nhưng cháu lo quá.” Bác hỏi việc chuẩn bị thế nào, khi nghe chị kể được các chú may cho cái áo dài, giày da đen cao gót, những thứ mà chị chưa hề quen sử dụng, còn ngập ngừng và lúng túng lắm. Bác nói: ” Mình đi thăm nước bạn, cũng là để báo cáo kinh nghiệm chiến đấu của mình cho bạn học tập chưa không phải là tiểu thư đi du lịch. Để Bác nói cho chú Song Hào chuẩn bị bộ đồ bộ đội và dép cao su cho cháu”. Bác hỏi kỹ về việc chuẩn bị sổ tay, bút ghi chép. Khi nghe chị nói mang theo cây bút máy mà đại hội tặng, Bác bảo: ” Không được, bút mực không tiện, sang đấy hết mực thì biết lấy ở đâu? Tốt nhất là bút bi,nếu không có bút bi dùng bút chì gọt cả hai đầu”. Ngừng một lát, Bác nói tiếp: “Sang đó cháu phải ghi chép đầy đủ, về còn nói chuyện cho bên nhà nghe”. Bác dặn tiếp: ” Theo kinh nghiệm của Bác tiếp khách quốc tế, không tham nói dài, chuẩn bị cho kỹ nội d ung thật xúc tích, dễ nghe, dễ hiểu, không cầu kỳ, kiểu cách”. Rồi như chợt nhớ, Bác hỏi tiếp: ” Ra Hà Nội cháu đi được những đâu, cháu có biết tượng Lý Tự Trọng ở phố nào, quay về hướng nào không?”. Thấy chị lúng túng, Bác quay lại nhắc mấy chú: “Cháu Lý ra Hà Nội, cong nhiều bỡ nhỡ, các chú phải hướng dẫn cho cháu biết Hà Nội có bao nhiêu phố phường, có di tích gì? Cho cháu đi chơi phố phường phải dẫn cháu đi bộ để cháu nhớ, tuyệt đối đừng dùng xe chở vì như thế chỉ như “cưỡi ngựa xem hoa”, không biết và không nhớ được những gì đâu”. Tạm biệt Bác ra về, lòng chị trào lên một nỗi niềm xúc động trước sự chăm lo chu đáo của Bác.
Bài học thứ ba: Tiết kiệm từ thứ nhỏ nhất
Sau chuyến đi Cuba về, Bác cho gọi chị Lý vào ăn cơm cùng, mâm cơm giản dị gồm có một tô canh bí đao, một đĩa cá bống nhỏ và một đĩa thịt gà. Bác n ói vui: ” Hôm nay có khách, Bác giết gà để đãi khách đấy”. Trong bữa ăn, Bác luôn miệng giục và gắp thịt gà cho chị. Đang ăn cơm có báo động, bác cháu lại phải xuống hầm. Bữa cơm gián đoạn đến mấy lần. Khi đơm cơm cho Bác, chị sơ ý làm r ơ i mấy hạt cơm ra mâm, Bác nhặt lên cho vào bát và quay sang hỏi chị: “Quê mình bây giờ còn dùng đá để đập hạt sần(ngô) không!”. Chị thưa: “Có n ơ i còn dùng nhưng đại đa số nhân dân đã dùng công cụ khác như máy xay, cối xay tay.” Tuy không nói ra nhưng chị hiểu ý Bác nhắc nhở: Dân mình còn nghèo, phải hết sức tiết kiệm, hạt gạo là hạt ngọc chớ để lãng phí. Ăn cơm xong, Bác hỏi: ” Cháu học lớp mấy, đã biết đọc bản đò chưa? Ở Quảng Bình nơi nào bị đánh phá ác liệt nhất, cháu chỉ cho Bác xem”. Thấy chị lúng túng, Bác bảo: “Phải cố mà học, cán bộ quân sự phải biết bản đồ, còn phải hướng dẫn cho chiến sĩ”. Trước khi chia tay, Bác dặn dò: “Được đi thăm Cuba, được gặp Bác, được ăn c ơ m với Bác, về công tác cho tốt lập thành tích xuất sắc hơn, lần sau ra báo cáo t hành tích Bác cho gặp nữa…”
Xe đến, Bác xuống vẫy chào bà con đến đón. Các cháu thiếu nhi ùa ra vây quanh Bác.
Các đồng chí lãnh đạo địa phương định đưa Bác vào nhà khách trước, nhưng Bác đã ngăn lại và nói:
– Tôi nhớ chỗ này còn có hàng cây.
Sau đó, Bác đi ra cửa sau chỉ vào chỗ hàng rào nói:
Khi ra ngõ gặp một cụ già, Bác nhìn cụ rất cảm động và hỏi:
Bác đi nhanh tới cụ già và nắm lấy tay cụ hỏi bằng một giọng ấm áp:
Bác nói chuyện với cụ Điền một hồi lâu, rồi sau đó đi sang quê ngoại.
Đứng giữa ngôi nhà tranh đơn sơ, nơi Bác đã sinh ra và lớn lên, Bác thân mật cùng trò chuyện cùng bà con quê nhà.
Mùa thu năm 1964, tôi là thành viên trong Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Namdo đồng chí Trần Văn Thành dẫn đầu, ra thăm miền Bắc và dự hội nghị Quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam.
Một buổi sáng tháng Mười, xe đưa chúng tôi vào Phủ Chủ Tịch. Giữa lòng Thủ đô mà cảnh vật có những nét giống núi rừng quê hương.
Đoàn chúng tôi vừa xuống xe đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân. Bác ôm hôn thắm thiết đồng chí Trần Văn Thành và từng người trong đoàn.
Chúng tôi xúc động và tràn ngập vui sướng theo chân Bác đến dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa thơm và nắng ấm. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc Cơ Tu, Bác cười bảo:
Bác bảo tôi ngồi cạnh Bác. Vui mừng, sung sướng và xúc động xen lẫn lòng tôi. Lần đầu tiên được gặp Bác, chúng tôi không ngăn nổi xúc động. Chị Ngần, chị Cao và tôi đều bật khóc. Bác dịu dàng nhìn chúng tôi và nói:
Chúng tôi lau nhanh nước mắt. Cả đoàn chúng tôi quây quần bên Bác. Bác rơm rớm nước mắt khi nhìn em Hồ Văn Bột mang đầy thương tích do bom napan của giặc Mĩ gây nên. Bác âu yếm bảo em Bột hãy giữu gìn sức khỏe và tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ ở miền nam cho toàn thế giới biết.
Rời Bác quay sang tôi, trìu mến hỏi:
Bác bảo tôi kể cho Bác nghe tình hình sản xuất và chiến đấu của đồng bào, tình hình đời sống của bà con dân tộc về phong trào thanh niên, phụ nữ, bộ đội du kích ở vùng người Cơ Tu,Ve, nơi tôi sinh sống và hoạt động.
Cây rừng bao nhiêu lá thì đồng bào và phụ nữ các dân tộc đối với Bác có bao nhiêu ân tình. Tấm lòng của đồng bào các dân tộc đối với Bác bao giờ cũng trong như dong nước Đắc Pring, mãi chảy xuôi về dòng.
(Theo Bác Hồ với đất Quảng, Nxb.Chính trị quốc gia,
Tết Mậu Thân năm 1968 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuốc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Tiến lên!Toàn thắng ắt về ta!
Bác Hồ yên lặng đón giao thừa. Tiếng Bác trên đài hòa cùng tiếng nhác hùng tráng như một nguồn động viên lớn lao với chiến sĩ cả nước.
Từ trong căn phòng nhỏ ấy, lời Bác nói một cách khe khẽ nhưng nghe rất rõ: “Giờ đây miền Nam đang nổ súng”.
Thì ra trong lúc này, không phải Bác chỉ ngồi để nghe tiếng pháo nổ, mừng năm mới mà chính Bác đang hướng về Tổ Quốc, hướng về đồng bào chiến sĩ đang chiến đấu hi sinh ngoài mặt trận.
Sang sớm hôm mồng một Tết Mậu Thân, Bác nhận được tin ” Cả miền Nam đều nổ sung”. Kẻ thù hung ác của dân tộc bị một đòn đau bất ngờ, choáng váng.
Bác Hồ vui trong niềm vui chiến thắng của chiên sĩ, đồng bào cả nước.
(Theo Thư ký Bác Hồ kể chuyện – Vũ Kỳ,Nxb.Chính trị Quốc gia, 2005)
Thời gian quý báu lắm
Thế là Bác lên đường đến thăm lớp chỉnh huấn đúng lịch trình trong tiếng reo hò sung sướng của các học viên…Bác Hồ của chúng ta quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu. Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời Bác không để bất cứ ai đợi mình. Sự quý trọng thời gian của Bác thực sự là tấm gương sáng để chúng ta học tập.
Đôi dép Bác Hồ – Lối sống giản dị
Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy… Các chiến sĩ cảnh vệ cũng đã đôi ba lần “xin ” Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được ” .
Ba chiếc ba lô – Sự công bằng
– Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít. Khi mọi thứ đã được phân ra cho vào 3 ba lô rồi, Bác còn hỏi thêm:
Giữ lời hứa
– Cháu ở nhà nhớ ngoan ngoãn, khi nào Bác về Bác sẽ mua tặng cháu. Nói xong Bác vẫy chào mọi người ra đi. Hơn hai năm sau Bác quay trở về, mọi người mừng rỡ ra đón Bác. Ai cũng vui mừng xúm xít hỏi thăm sức khỏe Bác, không một ai còn nhớ đến chuyện năm xưa. Bỗng Bác mở túi lấy ra một chiếc vòng bạc mới tinh trao tận tay em bé – bây giờ đã là một cô bé. Cô bé và mọi người cảm động đến rơi nước mắt. Bác nói:
Phụ Nữ Việt Nam Qua Ca Dao
Khi nói về phụ nữ Việt Nam, ai ai cũng đều thừa nhận rằng từ ngàn xưa cho đến nay họ là những người đàn bà dịu hiền, thùy mị, đoan trang, đảm đang, trung trinh tiết hạnh, giàu lòng hy sinh; trong gia đình thì hiếu thảo với cha mẹ, tảo tần lo cho chồng con, ra ngoài là những bậc anh thư liệt nữ. Chính những đức tính đẹp này đã nâng cao phẩm giá của người phụ nữ ViệtNam:
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, phụ nữ Việt đã góp phần viết nên những trang sử vàng son, làm vẻ vang giống nòi như: Bà Trưng, Bà Triệu; nữ tướng Bùi Thị Xuân của Quang Trung… Về thi ca, các bà Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Sương Nguyệt Ánh… đều là những nữ sĩ tài hoa, nức tiếng trên văn đàn, là những cánh hồng tươi thắm trong vườn hoa văn học. Ngoài ra, còn có biết bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác sống một cuộc sống bình thường, thầm lặng nơi thôn trang, xóm làng nhưng những nét đẹp tâm hồn của họ vẫn được dân gian ca tụng bằng những áng văn, những vần thơ, điệu hát, câu hò hay những vần ca dao phong phú.
Nói đến phụ nữ Việt , trước hết phải nói đến lòng hiếu thảo đối với mẹ cha và tiết hạnh của bản thân. Không phải chỉ có một nàng Kiều của cụ Nguyễn Du mới biết báo hiếu mà bất cứ người con gái Việt Nam nào cũng đều nhớ đến ơn sinh thành, công lao nuôi dưỡng bao la của đấng song thân:
Đó là đối với cha mẹ, còn đối với bản thân thì:
Ngay từ khi còn ẵm ngửa, mỗi chúng ta lớn dần trong nhịp võng đưa qua tiếng hát của ru của bà, của mẹ, của chị:
Những vần ca dao mộc mạc, bình dị đưa tuổi thơ của chúng ta vào giấc ngủ an bình. Và từ ngày này qua ngày khác, tiếng ru lắng đọng, thẩm thấu vào tiềm thức của chúng ta nên khi chúng ta lớn lên thành chị, thành mẹ, thành bà lại tiếp tục khúc hát ru ngàn đời theo nhịp võng đưa kẽo kẹt, đều đều nâng giấc ngủ bé thơ.
Vẻ đẹp phụ nữ hiện lên trong ca dao không chỉ về hình thức bên ngoài với khuôn mặt, vóc dáng, nụ cười, mà còn cả vẻ đẹp chiều sâu tâm hồn, làm rung động biết bao trái tim các chàng trai:
Những người con gái “thắt đáy lưng ong” được ca dao đúc kết ca ngợi:
Mái tóc đen dài, nụ cười duyên dáng quyến rũ biết bao trái tim si tình:
Ca dao cũng không quên ca tụng nét đẹp tâm hồn của phụ nữ Việt :
Tình yêu của nàng còn sâu đậm hơn nữa:
Và chung tình cho đến chết:
Làm cho tỏ mặt đàn bà Việt Nam!
Lê Thương (Hoa Kỳ)
Lời Phật Dạy Liên Quan Đến Phụ Nữ
Mặc dù, thực sự Đức Phật nâng cao thân phận người phụ nữ, Ngài đã thể hiện qua sự giữ giới của Ngài và khuyên dạy các để tử từ thời này sang thời khác, nhưng Ngài vẫn nhận biết được sự khác biệt về vấn đề xã hội và sinh lý giữa người nam và người nữ vẫn còn tồn tại.
– Một người phụ nữ phẩm hạnh. (S.IV.250)
Ðược tăng trưởng với năm sự tăng trưởng, này các Tỷ-kheo, một nữ Thánh đệ tử, được tăng trưởng trong Thánh tăng trưởng, nắm giữ được những lõi cây (căn bản, tinh vi), nắm giữ được những tốt đẹp nhất về thân. Thế nào là năm?
Tăng trưởng về lòng tin, tăng trưởng về giới hạnh, tăng trưởng về nghe nhiều (sutena), tăng trưởng về thí xả, tăng trưởng về trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, được tăng trưởng với năm sự tăng trưởng này, này các Tỷ-kheo, một nữ Thánh đệ tử được tăng trưởng trong Thánh tăng trưởng, nắm giữ được những lõi cây (căn bản, tinh vi), nắm giữ được những điểm tốt đẹp nhất về thân. (Tương Ưng Bộ Kinh 4. Tương Ưng Nữ Nhân. Phẩm Các Sức Mạnh. Phần Tăng Trưởng)
Này Visākhā, đầy đủ bốn pháp, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời này. Ðời này rơi vào tầm tay của nàng. Thế nào là bốn?
Ở đây, này Visākhā, nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc, biết thâu nhiếp các người phục vụ, sở hành vừa ý chồng, biết giữ gìn tài sản cất chứa. Này Visākhā, thế nào là nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc?
Này Visākhā, đầy đủ bốn pháp, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời sau. Ðời sau rơi vào tầm tay của nàng. Thế nào là bốn?
Ở đây, này Visākhā, nữ nhân đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ. Và này Visākhā, thế nào là nữ nhân đầy đủ lòng tin? (Tăng Chi Bộ Kinh 4. Chương Tám Pháp. Phẩm Ngày Trai Giới. Phần Ở Đời Này)
– Sự gia nhập của người nữ vào Tăng đoàn. (A.IV)
Thân phận người phụ nữ ở xã hội Ấn Độ cách đây 2.500 năm thường được xem như hạ lưu. Họ không được phép đi học để mở mang kiến thức và tham gia vào các hoạt động tôn giáo để phát triển tâm linh.
Nhận biết được tình trạng bất công và không lành mạnh này, Đức Phật đã cho phép họ được tham gia vào những hoạt động tôn giáo. Họ được phép gia nhập vào tăng đoàn Tỳ-khưu ni (bhikkhunī) với điều kiện phải gìn giữ thêm tám giới do Đức Phật chế định ngoài những giới mà Đức Phật đã chế định cho Tỳ-khưu tăng trước đây.
Những giới này không cố ý làm giảm đi nhân cách của họ mà chỉ nhằm vào những khuyết điểm đặc biệt của giới nữ và để hướng dẫn họ hoàn thành tốt đẹp cuộc sống phạm hạnh không bị trở ngại. Đây là cơ hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại mà người phụ nữ được phép tham dự vào tập thể của tăng chúng.
Tám giới ấy là :
Dầu cho thọ đại giới một trăm năm, một Tỷ-kheo-ni đối với một Tỷ-kheo mới thọ đại giới trong một ngày cũng phải đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay, xử sự đúng pháp. Pháp này sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Tỷ-kheo-ni không có thể an cư mùa mưa tại chỗ không có Tỷ-kheo. Pháp này sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Nửa tháng một lần, Tỷ-kheo-ni cần phải thỉnh chúng Tỷ-kheo hỏi ngày trai giới và đến để thuyết giới. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Sau khi an cư mùa mưa xong, Tỷ-kheo-ni cần phải làm lễ Tự tứ trước hai Tăng chúng về ba vấn đề được thấy, được nghe và nghi. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Tỷ-kheo-ni phạm trọng tội phải hành pháp pakkhamānattaṃ (man-na-đọa) cho đến nửa tháng. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Sau khi học tập sáu pháp trong hai năm, phải đến xin thọ cụ túc giới trước hai Tăng chúng. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Không vì duyên cớ gì, một Tỷ-kheo-ni có thể mắng nhiếc, chỉ trích một Tỷ-kheo. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Này Ānanda, bắt đầu từ hôm nay, có sự giáo giới phê bình giữa các Tỷ-kheo về Tỷ-kheo-ni, không có sự giáo giới phê bình giữa các Tỷ-kheo-ni về các Tỷ-kheo. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Chương Tám Pháp. Phẩm Gotamī. Phần Mahāpajāpatī Gotamī)
– Năm khuyết điểm của phụ nữ. (S.IV.328)
Này các Tỷ-kheo, có năm đau khổ riêng biệt mà người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người đàn bà lúc trẻ tuổi đi đến nhà chồng, không có bà con. Ðây là đau khổ riêng biệt thứ nhất, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu điều đó khác biệt với đàn ông.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người đàn bà có kinh nguyệt. Ðây là đau khổ riêng biệt thứ hai, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải mang thai. Ðây là sự đau khổ riêng biệt thứ ba, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một người đàn bà phải sinh con. Ðây là đau khổ riêng biệt thứ tư, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người đàn bà hầu hạ đàn ông. Ðây là đau khổ riêng biệt thứ năm, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm đau khổ riêng biệt, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Tương Ưng Nữ Nhân. Phẩm Đặc Thù. Phần Trung Lực)
– Năm sức mạnh làm cho người phụ nữ tin tưởng. (S.IV.248)
Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này của người đàn bà. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh.
Này các Tỷ-kheo, người đàn bà không do nhân nhan sắc, không do nhân tài sản, không do nhân bà con hay không do nhân con trai, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, người đàn bà do nhân giới hạnh, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Này các Tỷ-kheo, đây là năm sức mạnh của người đàn bà.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Tương Ưng Nữ Nhân. Phẩm Các Sức Mạnh. Phần Nhân)
– Nghiệp làm thành tựu ước nguyện của họ. (S.IV.249)
Có năm sự kiện này, này các Tỷ-kheo, thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được. Thế nào là năm?
“Mong rằng tôi được sinh vào một gia đình thích đáng!” Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ nhất thật dễ cho người đàn bà làm các công đức có thể thực hiện được.
“Sau khi được sinh vào một gia đình thích đáng, mong rằng tôi được đi đến (làm vợ) một gia đình thích đáng!” Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ hai thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
“Sau khi được vào một gia đình thích đáng, sau khi được đi đến (làm vợ) một gia đình thích đáng, mong rằng tôi được sống trong một gia đình không có người vợ địch thủ!” Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ ba thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
“Sau khi được sinh vào một gia đình thích đáng, sau khi được đi đến (làm vợ) một gia đình thích đáng, sau khi được sống trong một gia đình không có người vợ địch thủ, mong rằng tôi được sinh con trai!” Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ tư thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
“Sau khi được sinh vào một gia đình thích đáng, sau khi được đi đến (làm vợ) một gia đình thích đáng, sau khi được ở trong một gia đình không có người vợ địch thủ, sau khi được sinh con trai, mong rằng tôi chinh phục được người chồng!” Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ năm thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
Năm sự kiện này, này các Tỷ-kheo, thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Tương Ưng Nữ Nhân. Phẩm Các Sức Mạnh. Phần Sự Kiện)
– Có vài phụ nữ vẫn tốt hơn nam nhân. (S.I.89)
Một người đi đến vua Pasenadi nước Kosala và báo tin kề bên tai vua Pasenadi nước Kosala: “Thưa Ðại vương, hoàng hậu Mallikà đã sinh hạ được một người con gái”.
Khi được nói vậy, vua Pasenadi nước Kosala không được hoan hỷ.
Rồi Thế Tôn, sau khi biết vua Pasenadi nước Kosala không được hoan hỷ, ngay lúc ấy nói lên bài kệ:
Này Nhân chủ, ở đời, Có một số thiếu nữ, Có thể tốt đẹp hơn, So sánh với con trai, Có trí tuệ, giới đức, Khiến nhạc mẫu thán phục. Rồi sinh được con trai, Là anh hùng, quốc chủ, Người con trai như vậy, Của người vợ hiền đức, Thật xứng là Ðạo sư, Giáo giới cho toàn quốc.
(Tăng Chi Bộ Kinh 1. Tương Ưng Kosala. Phẩm Thứ Hai. Phần Người Con Gái)
1. Sát nhân thê – vaddhakā bhariyā.
2. Đạo tặc thê – corī bhariyā.
3. Chủ nhân thê – ayyā bhariyā.
4. Hiền mẫu thê – mātā bhariyā.
5. Hiền muội thê – bhaginī bhariyā.
6. Bằng hữu thê – sakhī bhariyā.
7. Nô bộc thê – dāsī bhariyā.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Chương Bảy Pháp. Phẩm Không Tuyên Bố. Phần Các Người Vợ)
– Năm cách để cho người vợ trở thành hoàn hảo. (A.III.36-37)
Đức Phật đã dạy cho những người con gái sắp lấy chồng năm điều để họ suy ngẫm :
Này các thiếu nữ, các Con hãy học tập như sau: “Ðối với những người chồng nào, mẹ cha cho các con, vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn khởi lên, đối với vị ấy, chúng ta sẽ thức dậy trước, chúng ta sẽ đi ngủ sau cùng, vui lòng nhận làm mọi công việc, xử sự đẹp lòng, lời nói dễ thương.” Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: “Những ai, chồng ta kính trọng, như mẹ, cha, Sa-môn, Bà-la-môn, chúng ta sẽ tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường và khi họ đến, chúng ta sẽ dâng hiến họ chỗ ngồi và nước.” Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: “Phàm có những công nghiệp trong nhà, hoặc thuộc về len vải hay vải bông, ở đây, chúng ta sẽ phải thông thạo, không được biếng nhác, tự tìm hiểu phương pháp làm, vừa đủ để tự mình làm, vừa đủ để sắp đặt người làm.” Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: “Trong nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người công thợ, chúng ta sẽ phải biết công việc của họ với công việc đã làm; chúng ta sẽ phải biết sự thiếu sót của họ với công việc không làm. Chúng ta sẽ biết sức mạnh hay sức không mạnh của những người đau bệnh. Chúng ta sẽ chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo phần của mình”. Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: “Phàm có tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người chồng đem về, chúng ta cần phải phòng hộ, bảo vệ chúng, và sẽ gìn giữ để khỏi ăn trộm, ăn cắp, kẻ uống rượu, kẻ phá hoại”. Như vậy, này các Thiếu nữ, các con cần phải học tập.
(Tăng Chi Bộ Kinh 3. Chương Năm Pháp. Phẩm Sumanā. Phần Người Gia Chủ)
Yassa bhariyā tulyavayā samaggā, Anubbatā dhammakāmā pajātā; Koliniyā sīlavatī patibbatā, Dāresu ve sotthānaṃ tadāhu.
Vợ hiền, đồng tuổi, có tình thân, Tận tụy, nhân từ, trẻ lại đông, Ðức hạnh, trung thành, dòng quý tộc, Ấy niềm hạnh phúc giữa hồng quần.
– Của hồi môn tốt đẹp nhất. (DhpA.53)
Của hồi môn tốt đẹp nhất mà cha mẹ có thể dành cho con gái mình là những lời giáo huấn được ghi lại trong chú giải kinh pháp cú qua những lời huấn dụ của cha nói với bà đại thí chủ Visākhā vào ngày bà lấy chồng :
Không đem lửa trong nhà ra ngoài. Không đem lửa ở ngoài vào nhà. Chỉ cho những người đáng được cho. Không cho những người không đáng cho. Cho cả hai hạng người, đáng cho và không đáng cho. Ngồi một cách vui vẻ. Ăn một cách vui vẻ. Ngủ một cách an lạc. Trông nom, gìn giữ lửa. Tôn trọng các vị trời ở trong nhà. Ngụ ý những lời dạy trên như sau :
Lửa ở đây ngụ ý những lời phỉ báng, vu cáo. Một người vợ không nên nói xấu chồng và gia đình chồng cho người khác nghe; cũng như không nên nói những khuyết điểm hay những cuộc cãi cọ ở trong nhà chồng cho người khác nghe.
Không nên nghe ngóng ở ngoài đường hay những người láng giềng nói xấu gia đình bên chồng rồi đem về nhà mà thuật lại cho gia đình bên chồng nghe. Chỉ nên cho người nào mượn mà biết rằng sẽ đem trả lại.
Không nên cho người nào mượn mà biết rằng người ấy thường mượn luôn không bao giờ hoàn trả lại.
Những thân bằng quyến thuộc nghèo khó thì nên giúp đỡ họ, cho dù biết rằng họ không thể trả lại được.
Ngồi một cách vui vẻ có nghĩa là khi thấy cha mẹ chồng, nên đứng dậy để tỏ lòng tôn kính chớ không nên ngồi im lặng. Những lời dạy này dành cho những người vợ biết khiêm nhường, biết lễ độ để biểu hiện sự kính trọng cha mẹ chồng.
Ăn một cách vui vẻ nghĩa là trước khi ăn cơm, hãy quan sát xem có những gì thiếu xót mà cha mẹ chồng cần khi ăn không; nếu có nên đi lấy mang đến dâng cho họ rồi mới được ngồi ăn. Và cũng nên chăm sóc miếng ăn cho tôi tớ trong nhà chu đáo nữa.
Ngủ một cách an lạc không có nghĩa là người vợ muốn ngủ bao lâu hay giờ giấc nào tùy thích mà ngụ ý là trước khi đi ngủ phải nên đi quan sát xem tất cả cửa nẻo đã đóng lại hết chưa, đồ đạc trong nhà được an toàn chưa, tôi tớ đã làm xong phận sự trong nhà chưa, cha mẹ chồng và chồng đã lên giường ngủ chưa, xong rồi mới nên đi ngủ. Một người vợ hiền phải nên thức dậy sớm trừ khi bị đau ốm hay không được khỏe và cũng không nên ngủ ban ngày.
Lửa ở đây ám chỉ cho cha mẹ chồng và chồng. Hãy đối xử với họ hết sức cẩn trọng như thể sử dụng lửa vậy, nếu vô ý sẽ bị phỏng hoặc nhiều tai hại khác nữa. Các vị trời trong nhà ở đây ý muốn nói đến cha mẹ chồng và chồng. Phải tỏ ra hết sức kính trọng họ. Chính ngay như Đức Phật khi đề cập đến cha mẹ bên vợ lúc Ngài còn là bồ tát thì Ngài vẫn xem họ như là chư thiên tại thế (sassudeva).
Theo phong tục phương Đông, người vợ xem chồng mình như ông vua. Theo lời dạy của Đức Phật thì người vợ được xem như là một người bạn tốt của chồng. Nhiệm vụ của người chồng là phải nên đối xử với vợ như một người thân cận mang đến lợi ích to lớn nhất và nên xem vợ như là tấm thân thứ hai của mình. Một người vợ đảm đang và chung thủy hết sức coi trọng chồng như là nơi nương tựa, che chở lý tưởng của mình.
Người vợ cũng không quên lo lắng đến nhữngbản phận trong đời sống đạo hạnh. Các vị Sa môn, Bà-la-môn đến nhà lúc hợp thời phải nên đối xử với họ một cách tôn kính. Phải tỏ ra niềm nở với các vị ấy.
– Sức mạnh tinh thần của người phụ nữ. (Apa.11.535)
Người nam luôn thể hiện sự ngờ vực về tinh thần của người nữ là không tin tưởng, ngay như sau khi biết được sự thành tựu của giáo hội Tỳ-khưu Ni là một minh chứng tốt đẹp được Đức Phật tán thán khi bà Gotamī viếng thăm và đảnh lễ Ngài vào thời điểm bà sắp Níp-bàn :
“Này Tỳ-khưu ni Gotamī, bà đã thực hiện tốt đẹp một cách kỳ diệu trong việc xóa tan mọi quan điểm sai lầm của những người nam ngu muội mà trong tâm trí của họ đầy sự hoài nghi về những tiềm lực tâm kinh của người phụ nữ”.
– Vật hấp dẫn ở thế gian. (A.I.1)
Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như sắc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một tiếng nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như tiếng người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, tiếng người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một hương nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như hương người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, hương người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một vị nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như vị người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, vị người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một xúc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như xúc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
(Tăng Chi Bộ Kinh 1. Chương Một Pháp. Phẩm Sắc. Phần Nữ Sắc)
– Các đức hạnh mà người phụ nữ nên trau dồi. (S.IV.143)
Những đức hạnh làm cho người phụ nữ trở nên tốt đẹp cả hai đời, đời này và đời sau đã được Đức Phật tuyên bố như sau: 1. Có tâm đạo nhiệt thành. 2. Có tâm hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. 3. Không nuôi dưỡng tâm địa ác độc, oán thù và sân hận. 4. Không ghen tuông bóng gió. 5. Không cãi vả mà nên có lòng rộng lượng. 6. Nhã nhặn trong mọi hành vi. 7. Đầy đủ đức hạnh. 8. Học hỏi để nâng cao kiến thức, nhất là sự hiểu biết. 9. Nhiệt tình và sốt sắng trong công việc. 10. Luôn phòng hộ tâm và khôn khéo trong xử sự. 11. Có trí tuệ hiểu biết.
Mặc dù, thực sự Đức Phật nâng cao thân phận người phụ nữ, Ngài đã thể hiện qua sự giữ giới của Ngài và khuyên dạy các để tử từ thời này sang thời khác, nhưng Ngài vẫn nhận biết được sự khác biệt về vấn đề xã hội và sinh lý giữa người nam và người nữ vẫn còn tồn tại.
Những điều này đã được miêu tả trong Aṅguttara Nikāya và Saṃyutta Nikāya. Mặc dù trong một vài đoạn kinh, có một vài nguyên do nói lên tai hại về tư cách và sự quyến rũ của người nữ đáng bị chỉ trích đã được ghi lại.
Trong Saṃyutta Nikāya, Đức Phật đã có ý đưa ra nhiều yếu tố để xóa bỏ thành kiến này. Trong một vài trường hợp, người nữ được xem như sáng suốt và thông minh hơn người nam, và người nữ cũng có khả năng chứng đắc quả giải thoát hay đắc được các quả vị Thánh sau khi họ tu tập Bát chính đạo.
Đối với những người phụ nữ đã bị xúc động thái quá và đau khổ cùng tột khi bị mất đi người thân yêu, Đức Phật đã dạy về cái chết không thể nào tránh được của chúng sinh như đã được trình bày trong tứ diệu đế và nhiều dẫn vụ khác nhau được trích giảng về vấn đề này. Đối với và Visākhā, bị quá xúc động vì lòng thương yêu của bà ngoại khi bị mất đi đứa cháu gái, Đức Phật đã an ủi bà như sau :
Do ái sinh sầu ưu, Do ái sinh sợ hãi, Ai thoát khỏi tham ái, Không sầu, đâu sợ hãi? (Dhp.212)
Tác giả bài viết: Samadhi Punno
Sưu tầm và hình ảnh: chúng tôi
Những Lời Chúc Hay Nhất Ngày Phụ Nữ Việt Nam
Nhân ngày Phụ nữ Việt Nam, những tin nhắn ý nghĩa trao gửi người phụ nữ mà bạn yêu thương nhất là điều không thể thiếu.
Tin nhắn chúc mừng 20/10 dành tặng Mẹ:
– Chúc mừng mẹ – người phụ nữ quan trọng nhất trong cuộc đời con. Chúc mừng người phụ nữ rất xinh đẹp, rất đảm đang và vô cùng tuyệt vời… Chúc mẹ có một ngày 20/10 hạnh phúc trọn vẹn bên cha và gia đình thân yêu. Con yêu mẹ nhiều lắm!
– Mẹ! Cám ơn mẹ rất nhiều vì mẹ đã sinh ra con và nuôi con khôn lớn. Con luôn cầu mong mẹ mạnh khoẻ và hạnh phúc không chỉ riêng “Ngày 20/10”. Lúc nào mẹ cũng ở trong trái tim con. Con yêu mẹ nhiều, mẹ kính yêu của con.
Tin nhắn chúc mừng 20/10 dành tặng bà xã:
– Em yêu! Đã có lần em nói với anh, anh là người đem đến cho em những niềm vui trong cuộc sống nhưng cũng đem đến cho em rất nhiều nỗi buồn. Nếu có một điều ước thì anh sẽ ước rằng mỗi ngày trôi qua đều là một ngày 20/10 thật đẹp đối với em!
– Tôi, đồng chí chồng xin chúc đồng chí vợ 20/10 có một ngày nghỉ ngơi, chơi bời và đặc biệt chúc đồng chí vợ luôn luôn xinh đẹp.
– Sáng sớm thức dậy Chúa đã gõ cửa hỏi anh “nếu cho con một điều ước con sẽ ước điều gì?”. Em biết không khi ấy trong đầu anh hiện lên vô vàn điều ước, nhưng rồi anh quyết định dừng lại ở một điều ước, và nói với Chúa “Con ước người con yêu có một ngày 20/10 hạnh phúc và may mắn nhất”. Và Chúa nói điều ước này không khó nên đã đồng ý với anh.
– Đừng buồn vì chưa nhận được lời chúc từ anh, đừng khóc vì nghĩ anh đã quên lời chúc trong ngày 20/10, mà hãy mỉm cười thật tươi vì anh không chỉ muốn chúc em những lời sáo rỗng, mà hơn thế nữa anh muốn làm tất cả vì em.
– Thay vì chúc em khỏe mạnh anh sẽ nguyện làm hết phần việc của em trong ngày hôm nay. Thay vì chúc em xinh đẹp anh sẽ đưa em đi làm đẹp, và cũng thay vì chúc em hạnh phúc anh sẽ cố gắng hết mình để mang lại hạnh phúc đến cho em!
Tin nhắn chúc mừng 20/10 dành tặng người yêu
– Tặng em một món quà bé nhỏ tên là buổi sáng tốt lành, được gói bằng sự chân thành, buộc bằng sự quan tâm và dính keo bằng lời cầu nguyện của anh, để em được an bình và hạnh phúc cả ngày. Yêu em nhiều. Chúc em 20/10 vui vẻ!
– 20/10 người ta chúc nhau bình yên, hạnh phúc, may mắn… còn anh, anh sẽ không chúc em bất cứ điều gì cả. Vì anh tin tất cả những lời chúc ấy gom hết lại anh sẽ làm được cho em. Vì vậy, mình chẳng phải chúc nhau đâu, chỉ cần em đón nhận tất cả những gì anh đã làm cho em.
– Em yêu, hôm nay là ngày Phụ nữ Việt Nam ngày để thể hiện lòng biết ơn sự quan tâm đến phụ nữ. Anh muốn gửi tới em trọn vẹn khối óc và trái tim anh, gửi tới em trọn vẹn tấm lòng anh, gửi tới em tất cả những gì cao quý và thiêng liêng nhất của anh.
– Tặng em một món quà bé nhỏ tên là buổi sáng tốt lành, được gói bằng sự chân thành, buộc bằng sự quan tâm và dính keo bằng lời cầu nguyện của anh, để em được an bình và hạnh phúc cả ngày. Yêu em nhiều. Happy women’s day 20/10.
– Mỗi ngày, khi Chúa mở cánh cửa thiên đường, Ngài nhìn anh và hỏi: “Điều ước hôm nay của con là gì?”. Anh trả lời: “Xin Người hãy bảo vệ người đang đọc tin nhắn này”.
– Em yêu! Đã có lần em nói với anh, anh là người đem đến cho em những niềm vui trong cuộc sống nhưng cũng đem đến cho em rất nhiều nỗi buồn. Nếu có một điều ước thì anh sẽ ước rằng mỗi ngày trôi qua đều là một ngày 20/10 thật đẹp đối với em!
– Trước khi quen em anh ngỡ tưởng 20/10 là ngày của các mẹ, cứ ngỡ nó như ngày 8/3… đến khi yêu em rồi anh mới biết kỳ thực 20/10 ý nghĩa biết bao, nó không chỉ là một ngày lễ đơn thuần dành cho một nửa thế giới mà hơn tất cả nó là ngày người yêu anh cảm thấy hạnh phúc .
– Nếu tất cả những lời chúc đều thành sự thật thì suốt đời này anh nguyện chúc mãi không thôi. Nhưng nếu đời người chỉ có một lần chúc, anh hứa sẽ chúc em hạnh phúc trong ngày 20/10 sắp tới. Chúc em mọi điều suôn sẻ. Yêu em.
– Trên Trái đất có 7.000.000.000 người. Và anh không hiểu vì sao anh chỉ nhắn tin cho mỗi mình em. Có lẽ vì 6.999.999.999 người còn lại không thể thay thế được em. Happy women’s day 20/10.
– Tới ngày 20/10 rồi anh không biết nhắn tin nhắn thế nào là ngọt ngào tới em nhưng anh biết tình yêu của em dành cho anh là rất nhiều. Anh hứa với em là anh sẽ mãi mãi yêu thương em suốt cuộc đời này cho dù có bao nhiêu sóng gió anh sẽ luôn ở bên để bảo vệ cho em.
– Hãy sống là chính em, biết yêu những gì mình đang có, biết tìm kiếm những gì mình chưa có, điều chưa có của anh là 1 nửa như em, điều chưa có của em có phải là một nửa của anh, dù sao đi chăng nữa anh chúc em một ngày của phụ nữ vui vẻ mãi đẹp như anh vẫn nghĩ về em.
– Chúc Honey của anh thật nhiều niềm vui và hạnh phúc, chúc cho em 1 ngày 20/10 tràn ngập tình yêu thương. Mong cho em mọi điều tốt đẹp nhất…
Tin nhắn chúc mừng 20/11 bạn bè – đồng nghiệp:
– Chẳng phải gió, chẳng phải sương, mà là cái lạnh của mùa đông, 20/10 là ngày mà đông đang về, chúc cho ai đó đang say giấc nồng được hạnh phúc, bình yên.
– 20/10 chúc cho chị em phụ nữ ngày càng xinh tươi, chúc cho da trắng môi hồng, tiền tiêu không hết, cả ngày.
Cập nhật thông tin chi tiết về Cổng Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!