Xu Hướng 10/2023 # Hình Tượng Bác Hồ Trong Ca Dao Việt Nam # Top 15 Xem Nhiều | Dtdecopark.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Hình Tượng Bác Hồ Trong Ca Dao Việt Nam # Top 15 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Hình Tượng Bác Hồ Trong Ca Dao Việt Nam được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

ThS. Phan Thị Hoài

Phòng Tuyên truyền, Giáo dục

Để nói lên tâm tư, tình cảm của mình, nhân dân ta thường sáng tác ca dao. Ca dao là những sáng tác có vần điệu được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong lịch sử văn học dân tộc và thế giới chưa có danh nhân nào được ca dao hóa với số lượng nhiều và sâu đậm nghĩa tình như Chủ tịch Hồ Chí Minh.

1.       Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ

Ca dao về Bác Hồ là những bài ca dao do nhân dân khắp mọi miền đất nước sáng tác về Bác từ sau cách mạng tháng Tám. Đây là một bộ phận của ca dao hiện đại. Tình cảm sâu nặng của nhân dân dành cho Bác không chỉ vì Bác Hồ là lãnh tụ tối cao của dân tộc mà vì Bác là tấm gương mẫu mực hy sinh cả cuộc đời tận trung với nước, tận hiếu với dân.

Đất nước lầm than, thấu hiểu sâu sắc nỗi thống khổ, vất vả của người dân trong cảnh cơ hàn, ngày 05/6/1911, từ bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên 21 tuổi dưới tên Văn Ba đã rời quê hương xứ sở. Không tiền bạc, không bạn bè người thân, người thanh niên ra đi với hành trang là tấm lòng yêu nước, thương dân thiết tha:

Nhà Rồng bến cũ tối tăm/ Ra đi cho sáng trăng rằm nước non/ Nhìn về một dải giang sơn/ Càng cao sóng biển căm hờn bấy nhiêu; Thương nhà phải tạm rời nhà/ Xa quê năm tháng không nhòa tình quê/ Hướng về đồng ruộng, bờ tre/ Xót tình non nước bốn bề lao đao/ Bao phen sóng vỗ thuyền chao/ Đinh ninh tấc dạ mai sau lại về.

Ba mươi năm bôn ba trên đất khách quê người, hòa mình vào cuộc sống của những người dân lao động nghèo khổ ở các dân tộc trên thế giới, Bác đã sống bằng nhiều nghề vất vả chỉ để tìm ra con đường cứu nước, trở về Tổ quốc lãnh đạo nhân dân thoát khỏi ách nô lệ. Ca dao đã thuật lại sống động những ngày dài gian khổ đó:

Đêm dài thăm thẳm Châu Phi/ Công Poanh tuyết trắng, Pa-ri gió cồn/ Sương mù mờ mịt Luân Đôn/ Thương đôi dép nhỏ đã mòn chông gai/ Giữa trời băng giá Quảng Đông/ Bác nhen nhóm ngọn lửa hồng mai sau; Nỗi lòng đau đáu canh thâu/ Trời Tây tuyết giá mây sầu tứ giăng/ Tình dân dây đã buộc ràng/ Nỗi riêng gác lại gió sương quản gì/ Con đường cứu nước nhiêu khê/ Bồi bàn, quét tuyết, việc chi cũng làm…

Trên suốt chặng đường bôn ba khắp các châu lục, cuộc sống lao động đầy gian khổ đã không làm Người chùn bước, trái lại càng tôi luyện, hun đúc lòng yêu nước nồng nàn, thôi thúc Người tranh thủ mọi cơ hội để học hỏi, để nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Trong khó khăn gian khổ ấy, Người đã tìm ra chân lí sáng ngời: đó là Chủ nghĩa Mác – Lênin:

Canh dài tâm sự ngổn ngang/ Đồng bào giai cấp, tìm đường tiến lên/ Sáng lòng nhờ Mác – Lênin/ Đầu rơi máu đổ vẫn tin một ngày./ Khắp nơi đỏ rực cờ bay/ Bình minh xua bóng đêm dài tối tăm.

Cách mạng tháng Tám thành công nhưng chính quyền non trẻ gặp khó khăn trăm bề. Khó khăn lớn nhất chính là nạn đói. Vấn đề cấp bách nhất của Chính phủ lâm thời là cứu đói. Ngoài giải pháp “sẻ cơm nhường áo” thì tăng gia sản xuất là giải pháp giải quyết vấn đề từ gốc. Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập”. Hưởng ứng lời kêu gọi đó, người nông dân trên đồng ruộng, người công nhân trong xưởng máy thi đua đẩy mạnh tăng gia sản xuất:

Nghe lời Bác dạy thì no/ Đừng để đất nghỉ, đừng cho máy ngừng/ Đừng để ao cá vắng tăm/ Chuồng gà vắng trứng, buồng tằm vắng tơ; Chúng con quyết chí thi đua/ Sản xuất, tiết kiệm cho vừa lòng Cha.

Cùng với chiến dịch chống giặc đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động cuộc thi đua chống giặc dốt bởi một “quốc nạn” mà thời Pháp thuộc để lại là hơn 90% dân Việt Nam mù chữ. Chính vì thế, Bác đã kêu gọi nhân dân “chống nạn mù chữ”, “diệt giặc dốt” vì “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Thực hiện lời hiệu triệu của Người, phong trào “Bình dân học vụ” phát triển khắp nơi và chỉ trong ba năm đã có hơn 8 triệu người Việt Nam biết đọc, biết viết. Ca dao về Bác xuất hiện hàng loạt các bài cổ động cho phong trào này:

Hôm qua anh đến chơi nhà/ Thấy mẹ dệt vải thay cha đi bừa/ Thấy nàng mải miết xe tơ/ Thay cháu “i – tờ” ngồi học bi bô/ Thì ra vâng lệnh Cụ Hồ/ Cả nhà yêu nước “thi đua” học hành; Giỏi như đến mức Cụ Hồ/ Người còn phải học huống hồ chúng ta; Không đèn thì lấy ánh trăng/ Mực bằng đậu cút, giấy bằng lồ ô/ Quyết tâm học chữ Bác Hồ/ Nước nhà độc lập, tự do có ngày.

Suốt chặng đường dài đấu tranh, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với từng thăng trầm biến thiên của lịch sử dân tộc, trên từng bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam. Mọi đối tượng, mọi giai cấp, mọi tầng lớp, Bác đều chỉ dẫn tận tình, thương yêu, lo lắng vô bờ:

Cụ Hồ lo lắng sớm chiều/ Dân công vất vả bấy nhiêu thấm gì; Cụ Hồ lo lắng quanh năm/ Anh đắp chăn ấm, anh nằm chiếu êm/ Cụ Hồ lo nghĩ ngày đêm/ Cho anh Vệ quốc có thêm đôi giày; Bác Hồ yêu mến thợ thuyền/ Bác lo chăm sóc yêu thương mọi người/ Lo ăn, lo mặc, lo chơi/ Lo chốn làm việc, lo nơi học hành/ Bác lo chăn ấm áo lành/ Bác dìu dắt thợ đấu tranh từng giờ…

Thế nhưng, chưa kịp nhìn đất nước mừng vui trong ngày thống nhất, ngày 02/9/1969, Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta. Trong nỗi tiếc thương vô hạn không gì có thể tả được, người dân lại mượn những câu ca dao để ghi lại những giây phút nghẹn ngào ấy:

Tin sét đánh từ thủ đô Hà Nội/ Vọng Hồ Nam vang dội đất trời/ Cả nước kêu Bác Hồ ơi/ Tim người ngừng đập vạn lời đau thương; Tang chung ảm đạm đất trời/ Một lời Di chúc ngàn đời để thương; Bạc phơ mái tóc phong trần/ Quên mình chỉ nghĩ nhân dân đồng bào/ Bác đi xa mãi rồi sao/ Nghĩa sâu ơn cả thấm vào chúng con; Nhất xanh là bạch đàn chanh/ Bác đi để lại hương lành cho con/ Nhất xanh là tán đa tròn/ Bác đi để bóng mát trùm nghìn sau/ Nhất thẳng là ngọn phi lao/ Giữa trời hát mãi công lao Bác Hồ.

Bác mất là một tổn thất lớn lao nhưng tên tuổi và sự nghiệp của Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp của dân tộc. Hình ảnh Bác luôn hiện hữu trên mỗi chặng đường hành quân vất vả, trong những cơn gió núi, mưa nguồn, trong mỗi bước tiến công và cả trong niềm vui thắng lợi. Những bài ca dao về Bác vút lên từ những vùng giặc bình định, từ những chiến hào còn nồng khói bom, thuốc súng, trở thành sức mạnh tiêu diệt kẻ thù:

Dù cho giọt máu cuối cùng/ Con tin vào Bác vững lòng tiến lên/ Con thề: diệt sạch xâm lăng/ Hai miền Nam Bắc cùng xanh đất trời; Cho dù san phẳng Trường Sơn/ Bác ơi cháu chỉ sắt son một lòng /Đấu tranh thống nhất non sông/ Giấc ngàn thu thỏa ước mong Bác Hồ; Bác ơi khẩu súng cầm tay/ Dù muôn gian khổ chẳng lay được lòng; Lòng còn hẹn với muôn lòng/ Bắc Nam thống nhất thành công mới về…

“Bác Hồ đã mất; Đường lối Bác vẫn còn”. Bài ca dao này tiếp bài ca dao khác ra đời, nén chặt những quyết tâm, những nỗi lòng, âm thầm truyền trong trái tim người Việt Nam như một thứ truyền đơn vô hình với một niềm tin sắt đá: có sự dìu dắt chỉ dẫn của Bác thì thắng lợi nhất định sẽ về ta, non sông sẽ liền một dải, hai miền Nam Bắc sẽ sum họp một nhà.

2.       Ngàn năm ơn Bác vẫn còn ghi sâu

Bác là người dẫn đường, là tấm gương sáng, là ngọn đuốc lung linh soi sáng cho nhân dân cả nước đi trên con đường tới độc lập, tự do và hạnh phúc. Nhờ Đảng, nhờ Bác, nhân dân ta đã thoát cảnh tối tăm vươn lên cuộc đời mới:

Cụ Hồ yêu nước thương dân/ Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù/ Giặc Tây, giặc đói, giặc mù/ Cả ba thứ giặc Bác Hồ vượt qua; Từ ngày giải phóng quê tôi/ Mít- tinh lại họp, rợp trời cờ bay/ Trẻ em đi học ban ngày/ Nhân dân đi cấy, đi cày mừng vui/ Thuyền bè xuôi ngược, ngược xuôi/ Có chè Phú Thọ có sồi Bắc Ninh/ Cây đa bóng mát đầu đình/ Bờ tre trong xóm, lúa xanh ngoài đồng/ Từ nay mặc sức vun trồng/ Nước giàu dân mạnh, vợ chồng ấm no/ Hòa bình, độc lập, tự do/ Nghìn năm ơn đức Cụ Hồ không quên…

Với đạo lý uống nước nhớ nguồn, nhân dân ta từ thế hệ này qua thế hệ khác không quên công ơn của các bậc tiền nhân. Tuy nhiên, chỉ với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân mới sáng tác một lượng ca dao nhiều và sâu đậm nghĩa tình như vậy. Bởi Bác là người tổ chức và lãnh đạo hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Mọi thắng lợi của cách mạng và kháng chiến gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Bác. Bác đem lại sự đổi đời cho đất nước, cho toàn dân. Nhân dân mãi mãi ghi sâu công ơn này:

Trăm năm bia đá thì mòn/ Ngàn năm ơn Bác vẫn còn ghi sâu/ Dù cho vật đổi sao dời/ Ơn cụ Hồ, nghĩa Đảng đời đời không quên; Uống nước là nhớ đến nguồn/ Cơm no áo ấm nhớ ơn Bác Hồ/ Ơn Bác Hồ sâu hơn Nam Hải/ Công Bác Hồ bằng dải Trường Sơn/ Nam Hải sâu ta đo cũng được/ Trường Sơn dài ta vượt cũng qua/ Công ơn của Bác bao la/ Nhân dân kể đến bao giờ cho xong.

Để diễn tả công lao to lớn ấy, nhân dân ta thường sử dụng bút pháp “thần thánh hóa”. Với bút pháp này, ca dao tìm đến những biểu trưng của cái đẹp tuyệt đối, lý tưởng, những gì thiêng liêng nhất, kỳ vĩ nhất trong thiên nhiên vũ trụ để xây dựng hình ảnh Lãnh tụ như: mặt trời, vầng Thái Dương, sao Bắc Đẩu, gương Hồ Thủy, núi Thái Sơn, trời đất, sông bể, hoa sen, hương quế, hương trầm… Phải chăng nhân dân đã tạc Người vào sông núi trường tồn mãi mãi với các thế hệ con Rồng cháu Tiên. Cách so sánh như thế càng làm nổi bật sự vĩ đại của Bác, chỉ có những hình ảnh ấy mới xứng đáng với tầm vóc vĩ đại của Bác và mới thỏa tấm lòng ngưỡng mộ, tôn kính, biết ơn của nhân dân ta đối với Bác:

Tháp Mười đẹp nhất bông sen/ Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ; Núi cao là núi Thái Sơn/ Ơn cao nghĩa cả là ơn Cụ Hồ; Cụ Hồ ơn đức biết bao/ Ơn dày sánh đất, đức cao sánh trời; Đố ai đếm được lá rừng/ Đố ai đếm được mấy tầng trời cao/ Đố ai đếm đủ vì sao/ Đố ai đếm được công lao Bác Hồ/ Bác Hồ là vị cha chung/ Là sao Bắc Đẩu, là vầng Thái Dương; Ơn Cha như núi như non/ Như gương Hồ Thủy, như hòn Thái Sơn; Trên trời có ông sao Rua/ Dưới đất ta có Cụ Hồ sáng soi/ Ánh sao Rua sáng ngời một góc/ Gương Cụ Hồ chiếu khắp năm châu…

Qua ca dao về Bác Hồ, chúng ta thấy một tấm lòng thương yêu, một mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Bác với nhân dân, giữa lãnh tụ với quần chúng. Nhân dân gọi Người là Bác, là Cha và xưng mình là con, là cháu. Dường như, khoảng cách giữa lãnh tụ và nhân dân đã bị xóa bỏ, thay vào đó là mối quan hệ Cha-con, Bác-cháu ruột thịt thân thiết, không tách rời, không một sức mạnh nào có thể phá vỡ:

Cụ Hồ với dân/ Như chân với tay/ Như chày với cối/ Như cội với cành.

Dành trọn cuộc đời để cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, với Bác, điều quý nhất, niềm mong mỏi sâu nặng nhất là độc lập cho Tổ quốc, là cơm no áo ấm, tự do hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Điều đó đã trở thành lý tưởng, hoài bão, mục tiêu suốt đời hy sinh, cống hiến của Người: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo – là vì mục đích đó. Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ đeo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”. Với kết cấu đối lập, bài ca dao đã đúc kết gần như hết thảy các lí do khiến nhân dân ta yêu kính Người:

Người thường cực khổ đôi ba/ Cụ Hồ cực khổ tính ra tới mười/ Người thường ngày tháng vui chơi/ Cụ Hồ mãn có lo đời ấm no/ Người thường toan tính so đo/ Cụ Hồ thương nước nên thờ nước thôi/ Người thường chỉ biết cái tôi/ Cụ Hồ yêu mến khắp người trần gian/ Người thường nhà cửa cao sang/ Cụ Hồ lắm lúc nằm hang, ở gò/ Người thường rượu thịt say no/ Cụ Hồ có lúc không thường chén cơm/ Người thường là lụa đầy rương / Cụ Hồ bộ vải tầm thường đủ thay/ Người thường nệm ấm loay hoay/ Cụ Hồ nhiều tối gối tay mà nằm/ Người thường sợ nhọc tấm thân/ Cụ Hồ dầu dãi phong trần vẫn vui/ Cụ Hồ của chúng con ơi/ Bao giờ Cụ mới thảnh thơi bằng người.

3.       Lòng dân với Bác vuông tròn thủy chung

Ca dao về Hồ Chí Minh nằm trong dòng phát triển của thơ ca dân gian về nhân vật lịch sử. Về điều kiện phát sinh và lưu truyền, nếu như trong thời kỳ quốc gia phong kiến, ca dao lịch sử thường xuất hiện ở nơi xảy ra sự kiện lịch sử đó, rồi dần dần lan truyền ra nhiều địa phương và truyền tụng từ đời này sang đời khác, thì ca dao về Bác Hồ có ở khắp mọi nơi trên đất nước. Từ miền núi Trường Sơn Tây Nguyên đến đồng bằng ven biển. Từ Bắc vào Trung tới chót mũi Cà Mau. Từ trong nước đến đồng bào xa Tổ quốc. Nghĩa là ở đâu có người Việt Nam yêu nước ở đó có ca dao về Bác Hồ.

Từ núi rừng Việt Bắc, chúng ta nghe hát:

Em về giã gạo ba giăng/ Anh lên múc nước Cao Bằng về ngâm/ Đến ngày mười chín tháng năm/ Gói thành đôi bánh đem dâng Bác Hồ.

Đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Tày, Nùng, Hmông ở Việt Bắc, Tây Bắc luôn cảm nhận được tình cảm của Bác dành cho họ:

Đất nước ta có Cụ Hồ/ Cụ Hồ thương dân đất Mường ta, sông bể không bằng.

Đất Hồng Lam cũng là một mảnh đất của ca dao và thần thoại. Những làn điệu dân ca xứ Nghệ luôn làm xao xuyến lòng người:

Bác trao cờ tặng quê ta/ Lá cờ chiến thắng là quà lập công/ Cờ bay đỏ đất Lam Hồng/ Cờ bay muôn nẻo, lập công muôn miền/ Ngắm cho trúng, bắn cho tin/ Làm quà thắng lợi dâng lên Bác Hồ.

Đồng bào Quảng Bình, Vĩnh Linh, Đông Anh lúc nào cũng đinh ninh lời dạy của Bác:

Ca rằng dân tuyến Vinh Linh/ Ghi sâu lời Bác đinh ninh đời này; Bạc màu là đất Đông Anh/ Làm theo lời Bác vẫn xanh ruộng đồng.

Thông qua việc ngợi ca cảnh đẹp Quảng Ngãi – Bình Định, tác giả dân gian muốn nhấn mạnh đến ơn đức của Bác Hồ. Nhờ Bác chèo lái con thuyền cách mạng đến bến bờ vinh quang nên cuộc sống và thiên nhiên mới tươi đẹp đến như vậy:

Đồng nào cao bằng đồng Thi Phổ/ Thổ nào cao bằng thổ Ba Tơ/ Ơn nào sâu bằng ơn Cụ Hồ/ Nguồn bao nhiêu nước ơn Cụ Hồ bấy nhiêu/ Nước sông Trà in hình núi Ấn/ Dừa Trung Lương soi bóng Lại Giang/ Nhìn lên cờ đỏ sao vàng/ Lòng dân ơn Bác muôn vàn Bác ơi.

Đồng bào Tây Nguyên đã gửi lòng thương yêu, trìu mến của mình đối với Bác Hồ bằng những vần thơ mộc mạc và giản dị, giản dị như chính con người, lối sống, tiếng nói hàng ngày của đồng bào:

Hồ Chí Minh, Người là con sông lớn/ Người là mặt trời, Người là mặt trăng/ Mùa lạnh nhắc tên Hồ Chí Minh, cái bụng ấm/ Mùa nắng nhắc tên Hồ Chí Minh, mây thêu mặt trời hồng/ Mùa thu nhắc tên Hồ Chí Minh, mây lắng trời trong/ Mùa xuân nhắc tên Hồ Chí Minh, cây cỏ đâm nhựa, trổ bông.

Đến với đồng bào Bình-Trị-Thiên, chúng ta vô cùng xúc động khi được đọc lại những vần ca dao nói lên tình cảm sâu nặng của nhân dân đối với Bác Hồ:

Cụ Hồ với chúng mình như tình phụ tử/ Cụ hi sinh suốt đời để phụng sự nhân dân/ Với tác phong liêm, chính, kiệm, cần/ Tấm lòng đức độ muôn dân được nhờ.

Cũng như bao dân tộc ít người khác, người dân Jrai, Ba Na cũng có những nghĩ suy về Bác rất độc đáo, cụ thể, sinh động. Họ nghĩ về Bác, họ tin vào Bác, Bác luôn là hiện thân của những gì tốt đẹp nhất. Bởi với họ Bác là:

Người già làm to nhất/ Người đứng đầu đoàn kết/ Người lãnh tụ đất Việt/ Tên vang lừng nơi nơi…

Miền Nam luôn ở trong trái tim Hồ Chí Minh, và bởi vậy, hình ảnh Người luôn hiển hiện trong tâm khảm của mỗi một người dân miền Nam yêu quí. Muôn triệu tấm lòng, muôn triệu trái tim nhân dân miền Nam luôn hướng về Bác:

Trời còn khi nắng khi mưa/ Miền Nam thương nhớ Bác Hồ không nguôi/ Dù cho vật đổi sao dời/ Ơn sâu nghĩa nặng đời đời không quên.

Sống dưới ách kìm kẹp của kẻ thù, đồng bào miền Nam càng thấm công ơn của Bác. Nhân dân khắp các tỉnh thành miền Nam đều có ca dao về Người:

Bao giờ thống nhất non sông/ Cần Thơ gửi vú sữa kính dâng lên Bác Hồ; Ai xây, ai đắp, ai bồi/ Công ơn của Bác chói ngời Bạc Liêu;Miền Nam nhớ Bác vô cùng/ Mong ngày đón Bác vào trong Khánh Hòa; Đêm qua nằm ngủ con mơ/ Thấy tàu của Bác cập bờ Cà Mau…

Từ đảo khơi xa, trong tiếng sóng vẫn lắng nghe những lời Bác dạy:

Đảo xa sóng dội bốn bề/ Lắng nghe lời Bác vọng về biển khơi/ Quân nghe phơi phới niềm vui/ Biển nghe dậy sóng hòa lời thiết tha.

Biết nói làm sao hết những lời ca cất lên từ đáy lòng thương nhớ và biết ơn vô hạn của nhân dân với Bác. Không chỉ nhân dân trong nước mà cả kiều bào ở nước ngoài dù ở xa nhưng lúc nào cũng hướng về quê hương, đất tổ, nơi có Cụ Hồ đang “đồng cam cộng khổ” kháng chiến với nhân dân:

Chúng con ở bốn phương trời / Quay về hướng Cụ muôn đời chúc mong/ Dài lâu như suối như ông/ Cụ Hồ sống mãi trong lòng chúng con.

Lời Bác, tên Bác thấm sâu vào lòng mỗi người và tỏa khắp núi sông. Khắp nơi trên dải đất Việt Nam, đâu đâu cũng có ca dao về Bác Hồ. Nhân dân mỗi địa phương, mỗi miền đều có một cách biểu hiện tình cảm mang sắc thái địa phương khác nhau đối với lãnh tụ. Họ hình tượng hóa tình cảm đó vào những gì thân thiết nhất gắn liền với miền đất mà họ đang sống nhưng tựu chung những tình cảm ấy đã hòa vào làm một. Bởi nhân dân ta dù miền ngược hay miền xuôi, dù là người Kinh hay người Thượng, thành thị hay nông thôn, ở tiền tuyến hay hậu phương,… cùng chung một lòng:

Lòng dân chung một Cụ Hồ; Lòng dân chung một Thủ đô; Lòng dân chung một cơ đồ Việt Nam; Bắc Nam là con một Cha/ Là gà một mẹ, là hoa một cành/ Nguyện cùng biển thẳm non xanh/ Cùng nhau một chí đấu tranh vững bền.

Bác Hồ ở giữa lòng dân, Bác Hồ sống mãi trong lòng nhân dân. Làm sao kể hết công lao của Bác Hồ và làm sao kể hết những câu ca dao của nhân dân ta viết về Bác Hồ vì đó là mạch nguồn cảm hứng vô tận, như nghĩa tình tha thiết của những người con đất Việt hướng về vị Cha già dân tộc kính yêu. Có một tượng đài sống mãi trong lòng dân, thời gian, gió mưa không thể bào mòn được là tượng đài Bác Hồ trong ca dao Việt Nam.

Ẩm Thực Trong Ca Dao Việt Nam

CA DAO VIỆT-NAM

Nói đến ca dao là nói đến niềm tự hào của dân tộc mình. Ca dao là văn chương dân gian dã dạng trải qua nhiều thế hệ lịch sử, đã được sinh ra trong những giai đoạn xã hội lúc bấy giờ và lưu truyền cho đến ngày nay. Ít có người biết đến được chính xác các tác giả, dù vậy ca dao đã là vũ khí chống lại những xăm nhập văn hóa trải qua sự đô hộ của nhiều thời đại. Ca dao Việt là thành trì bảo tồn nền văn hóa dân tộc. Những câu ca dao tục ngữ, lời hò, hát dặm, bài vè thường đề cặp đến nhiều khía cạnh khác nhau như xả hội, gia đình, tính ngưỡng, tình yêu, thiên nhiên .v..v . . . Ca dao Việt là một kho tàng vô giá, làm giàu thêm tiếng Mẹ Đẻ, chúng ta nên cố gắng và trang trọng gìn giữ.

Là một người phụ nữ Việt , tôi luôn cố gắng để làm trọn bốn đức tính ‘Công Dung Ngôn Hạnh’ của một người con gái Việt Bởi vậy, tôi đã xem việc nội trợ rất cần thiết, tôi rất ưa thích học hỏi nấu nướng những món ăn, thực đơn lạ. Ca dao Việt đã chứa đựng rất nhiều thú vị trong việc nội trợ qua các thực đơn mỗi miền.

Bắt đầu từ miền Bắc, tha thiết với món thịt nấu đông cho ba ngày Tết, cũng như những món ăn mà ca dao diễn tả như sau:

Và rồi mỗi vùng đều có các món riêng cố hữu:

Tôi biết chắc rằng kho tàng ca dao Việt rất bao la cũng như các món ăn, làm sao kể cho hết . . . thôi thì ăn ít mình sẽ thèm muốn thêm hoài hoài vậy. .

Bước vào miền Trung cổ kính, ca dao Việt sẽ giúp chúng ta thưởng thức những món ăn của xứ Cố Đô:

Những ân tình hình như bị bỏ quên mỗi khi nhắc đến món rượu dâu rừng có vị chua chua, ngọt ngọt của miền Trung. Biết bao chàng trai đắm say men rượu thay men tình:

Xứ Huế, đất Đế Đô, đất Thần Kinh không làm sao bỏ quên những câu ca dao bất hủ của các món như:

Các món ăn theo ca dao cùng nhau vượt núi, vượt đèo Hải Vân:

Ca dao ngọt ngào hương vị khi về tới xứ Quảng, Qui Nhơn:

Ca dao qua các món sơn hào, hải vị khi bước vào Khánh Hòa:

Ca dao không những qua thực đơn mà còn có những điệu hò ru con của các bà mẹ:

Ca dao còn giúp những món rau cải được tăng thêm sư thèm muốn cho người dùng:

Cũng như các ông thường thèm chút rượu đi đôi với:

Món cá kho tiêu của miền mà tôi học được, rất bình dân cũng lại là món mà tôi thích nhất. Cứ mỗi lần nấu món này, tôi vẫn thường sợ hàng xóm ngửi mùi. (cái mùi rất đặc biệt đối với dân Việt mình nhưng không mấy thân thiện cho người Mỹ!!):

Sự dồi dào, phong phú của ca dao Việt các thực đơn đã giúp cho việc nội trợ của tôi thêm phần thích thú mỗi khi vô bếp. Hy vọng rằng đã đem lại chút ít hứng thú cho người đọc và mong được bạn đọc chia xẻ những gì thiếu sót, cũng như ca dao Việt qua những khía cạnh khác như đời sống, gia đình, tình yêu, thiên nhiên v… v

Tấm Lòng Của Bác Hồ Với Phụ Nữ Việt Nam

Tuổi trẻ Tỉnh Hà Tĩnh xung kích, năng động, sáng tạo, tình nguyện vì cộng đồng!

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Người khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”, làm cách mạng mà không giải phóng phụ nữ thì mới giải phóng một nửa thế giới và chỉ làm cách mạng giải phóng dân tộc để có độc lập dân tộc thì phụ nữ mới được giải phóng.

Khi đất nước đắm chìm trong đêm trường nô lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, chú ý đến người phụ nữ. Bởi phụ nữ là lớp người khổ nhất trong những “người cùng khổ”. Họ không những phải chịu đựng nỗi đau của một người dân mất nước, bị tước đoạt hết các quyền tự do, dân chủ mà còn bị ngược đãi, chà đạp lên cả phẩm giá con người. Người căm ghét bọn thống trị đã “đối xử một cách hết sức bỉ ổi với người phụ nữ, xúc phạm tới phong hóa, trinh tiết và đời sống của họ”.

 

Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản chất của thực dân Pháp đó là chế độ “ăn cướp và giết người”, “hãm hiếp đàn bà và trẻ nhỏ”. Người đã tố cáo những hành động phi nhân tính của bọn thực dân xâm lược đối với phụ nữ: “Một người Âu mắng phụ nữ An Nam là con đĩ, con bú dù là một việc thông thường. Ngay giữa chợ Bến Thành ở Sài Gòn… bọn gác chợ người Âu cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh người phụ nữ bản xứ bắt họ tránh không làm nghẽn lối đi”

Xuất phát từ lòng nhân ái bao la và sự đồng cảm sâu sắc với nỗi đau khổ tột cùng mà người phụ nữ phải gánh chịu dưới chế độ thực dân, phong kiến nên Hồ Chí Minh luôn đặt ra yêu cầu bức thiết phải giải phóng “nửa thế giới” khỏi “xiềng xích nô lệ”. Người xác định: “Phụ nữ chiếm một nửa tổng số nhân dân. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải thật sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ”.

Đây chính là một trong những động lực giúp Người vượt qua mọi khó khăn, thử thách để cùng với toàn Đảng và toàn dân ta lật đổ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm thực hiện “nam nữ bình quyền”.

 

Đại biểu phụ nữ các dân tộc tỉnh Hà Giang về thăm Hà Nội vui mừng được gặp Bác Hồ 25/11/1965.

Ngay trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày mồng 6 tháng 01 năm 1946, Người vui sướng nhận ra rằng “Phụ nữ là tầng lớp đi bỏ phiếu hăng hái nhất”. Sau khi đã trở thành Chủ tịch nước, mặc dầu bận trăm công ngàn việc nhưng Bác vẫn luôn giành cho các thế hệ phụ nữ Việt Nam sự quan tâm, yêu thương, tôn trọng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vị trí, vai trò của người phụ nữ đối với tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong diễn ca “Lịch sử nước ta”, Người đã khẳng định:”Phụ nữ ta chẳng tầm thường. Ðánh Ðông, dẹp Bắc làm gương để đời”. Vì vậy, Người luôn tự hào: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng… Phụ nữ Việt Nam là phụ nữ anh hùng”. Nhân kỷ niệm ngày khởi nghĩa Hai Bà Trưng và Quốc tế phụ nữ (8/3/1952), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư động viên, khen ngợi chị em phụ nữ. Cuối bức thư Người khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.

Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định phụ nữ là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng.

 

Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ III, tháng 3/1961.

Tại Lễ kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1966), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc đến truyền thống yêu nước đầy tự hào của người Phụ nữ Việt Nam: “Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu nước, cứu dân, cho đến ngày hôm nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì phụ nữ ta hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.Do đó ta có câu tục ngữ rất hùng hồn: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.

Người đã thấu hiểu được sự vất vả, hy sinh thầm lặng của phụ nữ Việt Nam trong điều kiện chiến tranh ác liệt. Không những tham gia kháng chiến mà họ còn phải cáng đáng việc nhà để chồng con yên tâm đi đánh giặc. Ruộng nương, vườn tược, nhà cửa, chăm sóc nuôi dạy con cái, phụng dưỡng cha mẹ… đều đổ dồn lên đôi vai gầy yếu của các chị, các mẹ. Do đó nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền Nam, Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ anh hùng của nước ta. Ghi nhận những cống hiến to lớn của chị em trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thần thánh của dân tộc, Bác đã trao tặng cho phụ nữ Việt Nam 8 chữ vàng cao quý: “Anh hùng – Bất khuất-  Trung hậu – Đảm đang”.

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Người nhận thấy rằng phụ nữ có nhiều khả năng làm lãnh đạo, có nhiều phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo ở từ cơ sở đến trung ương, nhiều người rất giỏi, ưu điểm của cán bộ nữ là “ít mắc tệ tham ô, lãng phí, không hay chè chén, ít hống hách, mệnh lệnh như một số cán bộ nam”. Vì vậy Đảng, Chính phủ và các cấp, các ngành phải đặc biệt chú ý, cất nhắc phụ nữ vào đúng những vị trí, chức vụ phù hợp với khả  năng để chị em có điều kiện phát huy năng lực của mình.

Người đã thẳng thắn phê bình một số cán bộ của Đảng chưa đánh giá đúng về vai trò, vị trí của phụ nữ và xem đây như một “căn bệnh hết sức nguy hiểm”, là một tàn dư tồi tệ nhất của chế độ cũ nên Người yêu cầu phải kịp thời sữa chữa.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng hoa phong lan cho ba đại biểu nữ dân quân Quảng Bình và Vĩnh Linh, năm 1968.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thường xuyên động viên, nhắc nhở chị em phải cố gắng vươn lên để “tự giải phóng mình” chứ không được trông chờ vào Đảng và Chính phủ. Một lần, tới một hội nghị, thấy phụ nữ ngồi hết ở dãy ghế cuối. Bác nói: Ngay việc ngồi cũng không bình đẳng. Phụ nữ muốn được bình đẳng không phải đợi Đảng và Chính phủ hay nam giới mời lên ngồi mới ngồi mà phải tự đấu tranh, phấn đấu giành lấy. Muốn vậy, bản thân phụ nữ phải chủ động quyết tâm, khắc phục, khó khăn, tự tin, tự lực, tự cường, không nên tự ti. Phải gắng học tập chính trị, học tập văn hóa kỹ thuật; nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ xã hội chủ nghĩa; hăng hái thi đua thực hiện “Cần kiệm xây dựng Tổ quốc, cần kiệm xây dựng gia đình” để xứng đáng là người làm chủ nước nhà.

Người đã dành trọn vẹn cả cuộc đời mình cho dân, cho nước. Trước khi “vĩnh biệt ánh mặt trời” để về với Mác – Lê nin, Bác đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta một bản Di chúc lịch sử. Trong đó Người không quên nhắc tới phụ nữ Việt Nam: “… Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi chị em dân công lao động đào mương chống hạn ở Từ Liêm, Hà Nội, ngày 16/12/1958.

Trong một lần trả lời phỏng vấn Đài phát thanh BBC (Anh) nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đã nói: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng con đường giải phóng phụ nữ tại Việt Nam. Người đã thức tỉnh phụ nữ tham gia giải phóng dân tộc, nhân loại và từ đó giải phóng chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ của người phụ nữ Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai.

Người xác định rõ, bất bình đẳng nam nữ không đơn thuần là bị ảnh hưởng bởi các tư tưởng lạc hậu mà chủ yếu là do chế độ kinh tế xã hội. Hồ Chí Minh là lãnh tụ Việt Nam đầu tiêu kêu gọi “Thực hiện nam nữ bình quyền”, coi sự nghiệp giải phóng phụ nữ là một mục tiêu của cách mạng.

Trong di chúc, Bác viết “Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ vô cùng đảm đang, đã đóng góp rất nhiều trong chiến đấu và sản xuất. Đảng, Chính phủ cần có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ, phụ trách nhiều công việc kể cả lãnh đạo. Phụ nữ phải phấn đấu vươn lên, đây thực sự là một cuộc cách mạng”.

Sự quan tâm của Bác Hồ với phụ nữ Việt Nam thật nhân ái bao la. Bác từng viết: “Ông Các Mác nói rằng: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi (Đường Kách Mệnh).

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh trao huy hiệu cho đại biểu có nhiều thành tích tại Đại hội Những người xuất sắc trong phong trào Ba đảm đang của phụ nữ Thủ đô ngày 2-12-1965.

Trong lần nói chuyện với đại biểu nhân dân Nghệ An dịp về thăm quê ngày 14-6-1957, khi nói đến những thành tích của tỉnh trên lĩnh vực nông nghiệp, Bác nhấn mạnh đến vai trò của chị em phụ nữ, Bác nói: “Tôi muốn nêu một công trạng của chị em phụ nữ tỉnh ta. Đó là phong trào chăn nuôi gia súc”. Bác khen: Phụ nữ Anh Sơn, Nghi Lộc phong trào nổi trội hơn và Bác căn dặn phụ nữ Anh Sơn, Nghi Lộc phải cố gắng hơn nữa, để có kết quả cao hơn, để làm mẫu, làm gương cho chị em khác cùng thi đua. Còn chị em các huyện khác phải thi đua cho kịp với chị em Anh Sơn, Nghi Lộc…

Tiếp đó, Bác biểu dương chị Trương Thị Tâm ở Nghĩa Đàn một mình nuôi 300 con gà, 4 con lợn, chị còn làm ruộng, tham gia công tác xã hội, làm tổ trưởng phụ nữ. Bác nói “Đây là một phụ nữ anh hùng… Anh hùng không phải “Đông chinh Tây phạt”, hoặc cứ làm cái gì kỳ khôi xuất chúng. Nuôi được nhiều lợn, nhiều gà, tăng gia sản xuất, tiết kiệm, tham gia công tác xã hội tốt, như thế là anh hùng, như thế là chiến sĩ”… “Các chị em ở đây cứ cố gắng thì ai cũng có thể làm anh hùng, chiến sĩ”. Những lời căn dặn của Bác thật cụ thể, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc. Làm theo lời Bác để trở thành anh hùng, chiến sĩ không phải chuyện gì quá xa xôi. Mỗi chị em chúng ta hãy làm tốt những việc giản dị, bình thường hàng ngày trong gia đình, thôn xóm, bản làng, cơ quan, đơn vị.

Ngày 9/12/1962, Bác đến thăm nhà máy Cơ khí Vinh. Nói về những sáng kiến trong cải tiến sản xuất của công nhân nhà máy, Bác hỏi “thế thì các cháu trai có sáng kiến nhiều hơn hay các cháu gái có sáng kiến nhiều hơn?”. Được biết các cháu trai có nhiều sáng kiến hơn, Bác nhẹ nhàng động viên “Các cháu gái phải cố gắng”.

 

Bác Hồ về thăm quê Kim Liên, Nghệ An năm 1961.

Trong những năm qua, không phụ lòng tin yêu và sự kỳ vọng của Bác, chị em phụ nữ cả nước nói chung và phụ nữ Nghệ An nói riêng đã ra sức học tập, rèn luyện, vươn lên khẳng định vai trò và vị thế của mình trong xã hội. Đảng và Nhà nước ta cũng luôn tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ, thông qua các chủ trương, chính sách về phụ nữ, về bình đẳng giới nhằm phát huy vai trò của phụ nữ. Không chỉ là những người vợ, người mẹ đảm đang trong gia đình, nhiều phụ nữ đã đạt được những thành tích nổi bật, được xã hội ghi nhận trong nhiều lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ… 

Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của chị em phụ nữ cả nước, công tác phụ nữ trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, xây dựng và phát triển đất nước. Ðể phong trào phụ nữ tiếp tục phát triển, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các cấp ủy đảng, chính quyền, các bộ, ban, ngành và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cần phối hợp, tạo điều kiện để phụ nữ có cơ hội cống hiến nhiều hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục phát huy truyền thống “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” trong thời kỳ mới, xứng đáng với tám chữ vàng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tặng phụ nữ Việt Nam.

Chữ Hiếu Trong Tục Ngữ, Ca Dao Việt Nam

Công Cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Tinh thần hiếu đễ của người Á Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng đã thấm sâu vào xương tủy của mọi người, và phát khởi ra sự sinh hoạt bên ngoài tạo nên những nét đẹp cao quý, thành ca dao, tục ngữ, thành đặc tính tinh thần Đông Phương. Có lẽ chỉ có người Á Đông mới có tục lệ chúc thọ cho ông bà, cha mẹ và cũng có lẽ chỉ có người Á Đông mới yêu chuộng tinh thần “đại gia đình” – Ông bà, cha mẹ, con cháu, chắt, chút chít… sống quây quần đầm ấm trên cùng một mảnh đất gia tiên, bao bọc bởi lũy tre xanh, hàng dậu bông bụt – Và vì thế nên tình thân được nẩy nở, đơm hoa kết trái để luôn luôn gần gũi, thương yêu và đùm bọc với nhau.

Có hình ảnh nào đẹp hơn cảnh gia đình xum họp trong những buổi chiều nhàn nhã, gió hiu hiu nhẹ thổi vừa đủ để bà nằm võng đu đưa, tay ôm đứa cháu nhỏ nhè nhẹ hát ru cháu dưới bóng mát của hàng cây sau vườn; ông ngồi kể truyện cổ tích với đàn cháu vây quanh vừa lắng tai theo dõi vừa nhổ tóc sâu, thỉnh thoảng lại chen vào những câu hỏi thơ ngây làm câu chuyện thêm rộn ràng giữa hương thơm của hoa cau, hoa bưởi ngạt ngào trong không gian miền thôn dã. Hoặc những buổi tối: “… Cha tôi ngồi xem báo, me tôi ngồi đan áo, bên cây đèn dầu hao…”

Tinh thần chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam được diễn đạt qua những câu thơ sau đây của Trần Kế Xương càng làm nổi bật những đức tính hy sinh của người mẹ, người vợ:

– Quanh năm buôn bán ở ven sông.

Nuôi đủ năm con với một chồng…

Mẹ đã tảo tần thức khuya, dậy sớm lo việc tang tầm, thu vén nhà cửa, không những lo cho con mà còn phải lo cho người chồng thư sinh chỉ biết việc bút nghiên:

– Canh một dọn cửa dọn nhà,

Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm,

Canh tư bước sang canh năm,

Trình anh dậy học chớ nằm làm chi.

Lỡ mai Chúa mở khoa thi,

Bảng vàng kia cũng sẽ đề tên anh.

Hay là:

– … Nửa đêm về sáng gánh gồng nuôi con…

– Nuôi con buôn bán tảo tần,

Chỉ mong con lớn nên thân với đời.

Những khi trái nắng trở trời,

Con đau là mẹ đứng ngồi không yên.

Trọn đời vất vả triền miên,

Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con.

Tấm lòng của mẹ thật bao la, mênh mông như trời bể, mặc thân gầy yếu, hao mòn chỉ mong cho con được khôn lớn, mẹ đã vắt cạn dòng sữa thơm cho con được no đủ:

– Bồng con cho bú một hồi,

Mẹ đã hết sữa con vòi, con la.

Lại còn những khi con đau ốm, mẹ nào được an giấc:

– Con ho lòng mẹ tan tành,

Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi.

Mẹ đã đem hết sức mình để bảo bọc, che chở cho con được an lành, bình yên:

– Nuôi con chẳng quản chi thân,

Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn.

Tấm lòng mẹ trải rộng bao la, không nghĩ gì đến sức khỏe bản thân chỉ nhất mực lo cho con, dù suốt đêm không chợp mắt:

– Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,

Năm canh chày thức đủ vừa năm.

Nào đã hết, ngoài việc chăm nuôi, cho con bú mớm, mẹ phải thay cha nuôi dạy con cái:

– … Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân…

Mẹ còn phải năng động hơn, xông xáo hơn để giáo dục, truyền đạt cho con những kinh nghiệm cá nhân mong con khôn ngoan, thành đạt trong xã hội:

– Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.

Khó đi, mẹ dắt con đi,

Con đi trường học, mẹ đi trường đời.

Vì thế người mẹ được ví: “Mẹ già bằng ba hàng dậu”. Hạnh phúc thay cho những ai còn có mẹ để chia xẻ niềm vui, nỗi buồn, để được mẹ lo lắng chăm sóc như ngày còn thơ, để được hầu hạ gần gũi với mẹ. Có mẹ để thấy mình vẫn trẻ thơ như ngày nào:

– Có cha có mẹ thì hơn,

Không cha không mẹ như đờn đứt giây.

Đờn đứt giây còn tay nối lại,

Cha mẹ mất rồi con phải mồ côi.

Nào đã hết, mẹ vẫn lo toan vất vả trong phận dâu con, có sức chịu đựng nào bằng bổn phận người con dâu đè nặng trên hai vai của mẹ, dẫu chồng có lơ là, lạnh nhạt, nhưng vẫn không thất xuất trách nhiệm cá nhân, qua những câu ca dao sau đây:

– Gió đưa bụi chuối sau hè,

Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.

Con thơ tay ẵm tay bồng,

Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng rơm.

Chữ hiếu không những chỉ thể hiện trong bổn phận người con, mà còn ràng buộc cả người con dâu nữa. Cụ bà Phan Bội Châu đã thay cụ ông hầu hạ, thuốc thang cho thân sinh cụ ông nay đau, mai ốm trong cảnh gia đình túng thiếu với các con thơ dại trong suốt thời gian cụ ông lo việc nước. Gương hy sinh, tiết liệt của người phụ nữ Việt Nam điển hình qua tinh thần trách nhiệm của cụ bà Phan Bội Châu làm rạng rỡ giá trị thiêng liêng tình nghĩa gia đình.

Người xưa ra đi lo việc nước đã nhắn nhủ vợ nhà:

– Anh đi, em ở lại nhà,

Vườn dâu em bón mẹ già em trông.

– Con cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non,

– Nàng về nuôi cái cùng con,

Để anh trẩy hội nước non Cao Bằng.

Bằng tâm tình của người chồng phải vắng nhà buôn bán phương xa, đã ân cần nhờ cậy vợ lo toan mọi việc và chăm sóc mẹ già sao cho tròn câu hiếu kính:

– Nhà anh chỉ có một gian,

Nửa thời làm bếp, nửa toan làm buồng.

Anh cậy em coi sóc trăm đường,

Để anh buôn bán trẩy trương thông hành.

Còn chút mẹ già nuôi lấy cho anh,

Để anh buôn bán thông hành đường xa.

Liệu mà thờ kính mẹ già,

Đừng tiếng nặng nhẹ người ta chê cười.

Vai trò của người mẹ quan trọng biết là chừng nào:

– Mồ côi cha ăn cơm với cá,

Mồ côi mẹ, lót lá mà nằm.

– Gió đưa bụi trúc ngã quì,

Vì cha con phải lụy dì, dì ơi!

Phải chăng vì thế con cái thường có khuynh hướng thương yêu và thân cận với mẹ hơn? Nói như thế không có nghĩa là vai trò của người cha không quan trọng:

– Con có cha như nhà có nóc,

Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.

– Còn cha gót đỏ như son,

Đến khi cha mất, gót con đen sì.

Còn cha nhiều kẻ yêu vì,

Một mai cha thác ai thì nuôi con?

Sự chăm sóc của cha có thể không chăm chút tỉ mỉ bằng mẹ, nhưng hoàn cảnh bắt buộc cha cũng vẫn lo cho con được no dạ:

– Nghiêng bình mở hộp nút ra,

Con ơi, con bú cho cha yên lòng.

Cha tuy già nhưng không quản ngại, cũng vẫn phải lo sinh kế trong vai trò cột trụ của gia đình, vì thế hình ảnh người cha cũng rất đậm nét trong tâm khảm của mọi người trong nhà:

– Cha tôi tuy đã già rồi,

Nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà.

Sớm hôm vừa gáy tiếng gà,

Cha tôi đã dậy để ra đi làm.

Vắng bóng người cha làm cho gia đình trống vắng, quạnh hiu:

– Vắng đàn ông quạnh nhà.

Hơn thế nữa, trong vai trò giáo huấn đàn con, người cha bao giờ cũng coi trọng và nghiêm minh hơn, do đó ảnh hưởng giáo dục người cha thường tốt đẹp và tác dụng nhiều hơn mẹ:

– Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.

Hoặc:

– Mẹ đánh một trăm, không bằng cha hăm một tiếng.

– Mẹ dạy thời con khéo,

Cha dạy thời con khôn.

Dẫu thương yêu, gần gũi với mẹ nhiều hơn con cũng không quên được công ơn dưỡng dục của cha, bao giờ cũng hằn sâu trong tâm trí:

– Khôn ngoan nhờ ấm cha ông,

Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ,

Đạo làm con chớ hững hờ,

Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm.

Biết bao nhiêu áng văn thơ, ca dao, tục ngữ tán thán công đức Cha và Mẹ, cái hạnh phúc có được cha mẹ vẹn toàn để nhất tâm hiếu kính đã làm cho bao nhiêu người con thiếu vắng cha mẹ phải ước ao ngậm ngùi:

– Ân cha nặng lắm ai ơi!

Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.

– Vẳng nghe chim vịt kêu chiều,

Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.

Nhớ ơn chín chữ cù lao,

Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình?

– Ngày nào em bé cỏn con,

Bây giờ em đã lớn khôn thế này.

Cơm cha, áo mẹ, công thầy,

Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.

– Làm trai đủ nết trăm đường,

Trước tiên điều hiếu, đạo thường xưa nay.

Công cha đức mẹ cao dày,

Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.

Nuôi con khó nhọc đến giờ,

Trưởng thành con phải biết thờ song thân.

Thức khuya dậy sớm cho cần,

Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con.

“Xảy nhà ra thất nghiệp”, mẹ cha có biết lòng con thương nhớ khôn nguôn, tâm hiếu kính mang mang, luôn tưởng nhớ đến công ơn sinh dưỡng của đấng sinh thành:

– Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,

Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.

– Ngó lần nuột lạt mái nhà,

Bao nhiêu nuột lạt, em thương mẹ già bấy nhiêu.

– Chiều chiều ra đứng ngõ sau,

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

– Gió đưa cây cửu lý hương,

Từ xa cha mẹ thất thường bữa ăn.

Sầu riêng cơm chẳng muốn ăn,

Đã bưng lấy bát, lại dằn xuống mâm.

Phải xa nhà lòng đau như cắt, biết có ai sớm hôm phụng dưỡng mẹ cha, để con khắc khoải nhớ thương:

– Lòng riêng nhớ mẹ, thương cha,

Bóng chim tăm cá biết là tìm đâu?

Trong vòng binh lửa dãi dầu,

Bơ vơ lưu lạc, bạn bầu cùng ai?

– Ra đi bỏ mẹ ở nhà,

Gối nghiêng ai sửa, mẹ già ai nâng?

– Một mai cha mẹ yếu già,

Bát cơm đôi đũa, kỷ trà ai dâng?

– Đêm đêm khấn nguyện Phật Trời,

Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

Cha mẹ có hay lòng con như muối xát, chỉ mong sao cha mẹ được đầy đủ, mong được sáng thăm tối viếng, mong dâng đến cha mẹ miếng ngon vật lạ tỏ lòng hiếu kính phụng thờ mẹ cha:

– Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,

Giã gạo cho trắng đặng nuôi mẹ già.

Đói lòng ăn hột chà là,

Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.

– Đây bát cơm đầy nặng ước mong,

Mẹ ơi, đây ngọc (1) với đây lòng,

Đây tình con nặng trong tha thiết,

Ơn nghĩa sanh thành, chưa trả xong.

(1) Hạt gạo là hạt ngọc.

– Lên chùa thấy Phật muốn tu,

Về nhà thấy mẹ công phu sao đành?

Mẹ già ở túp lều tranh,

Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.

– Cau non khéo bửa cũng dày,

Trầu têm cánh phượng để thầy mẹ xơi.

– Ai về tôi gởi buồng cau,

Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.

Ai về tôi gửi đôi giầy,

Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.

Cha mẹ nuôi con ơn sâu nghĩa nặng, dẫu nhọc nhằn vất vả con cũng chẳng ưu tư:

– Dấn mình gánh nước làm thuê,

Miễn nuôi được mẹ, quản gì là thân .

Làm con ăn ở sao cho phải đạo, mình biết hiếu kính mẹ cha đó là tấm gương tốt cho con cái noi theo “sóng trước làm sao, sóng sau như vậy”, có hết lòng thờ phụng mẹ cha mới mong sanh con hiếu nghĩa:

– Nếu mình hiếu với mẹ cha,

Chắc con cũng hiếu với ta khác gì.

Nếu mình ăn ở vô nghì,

Đừng mong con hiếu làm gì uổng công.

Hoặc:

– Hiếu thuận sinh ra con hiếu thuận,

Ngỗ nghịch nào con có khác chi!

Xem thử trước thềm mưa xối nước,

Giọt sau, giọt trước chẳng sai gì!

– Người xưa khó nhọc nuôi mình,

Khác gì mình đã hết tình nuôi con.

Suốt một đời sống trong tình thương của cha mẹ, biết bao công khó cho con được nên người, bao lo lắng hy sinh, nhọc nhằn mong con được đầy đủ không thua bạn, kém bè. Nay cha mẹ không còn, đau đớn biết dường nào, dù nuối tiếc bao nhiêu cũng không làm sao được. Bạn hỡi! Ngay bây giờ hãy làm bất cứ điều gì có thể làm được cho cha mẹ để sau này có muốn cũng không thể nào thực hiện được:

– … Độ nhỏ tôi không tin,

Người thân yêu sẽ mất.

Hôm ấy tôi sững sờ,

Và nghi ngờ trời đất.

Từ nay tôi hết thấy,

Trên trán mẹ hôn con.

Những khi con phải đòn,

Đau lòng mẹ la lẫy.

Kìa nhờ ai sung sướng,

Mẹ con vỗ về nhau.

Tìm mẹ, con không thấy,

Khi buồn biết trốn đâu?…

Hiếu đễ không phải là những lời đãi bôi, những xót xa không thật từ cửa miệng, những ao ước bâng quơ không bao giờ thực hiện, mà chữ Hiếu phải được thể hiện bằng những hành động cụ thể, bằng những chăm sóc, hầu hạ, phụng dưỡng xuất phát tự đáy tâm hồn với lòng thương quý chân thật.

Mùa Vu Lan là mùa báo Hiếu, mùa cho các người con tưởng nhớ đến công đức sinh thành của cha mẹ, mong muốn làm điều gì tốt đẹp hơn để đền đáp xứng đáng công ơn dưỡng dục của mẹ cha. Nhớ ơn và báo Hiếu luôn luôn là những suy tư triền miên, sâu đậm trong thâm tâm mọi người con Việt.

– Phụng dưỡng Cha và Mẹ,

Là công đức tối thượng.

Ca Dao &Amp; Tục Ngữ Việt Nam

10:36:14 AM, Sep 07, 2023 * Số lần xem: 854101 * Cập nhật

* đăng lúc 11:22:41 AM, Jan 26, 2009 Ca Dao & Tục Ngữ Việt Nam Ca dao là gì?

Trước hết là Ca dao, là những câu thơ ca dân gian Việt Nam. Được truyền miệng dưới dạng những câu hát không thể một điệu nhất định. Và thông thường được phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ và dễ thuộc.

Và đặc biệt hơn đó chính là ca dao đã để lại dấu vết rõ rệt nhất trong ngôn ngữ văn học. Trong đó phần lớn nội dung ca dao thể hiện tình yêu nam nữ. Ngoài ra còn có các nội dung khác như: quan hệ gia đình, các mối quan hệ phức tạp trong xã hội. Và tóm lại ca dao được hiểu ý nghĩa ngắn gọn là những câu thơ dân gian được truyền miệng từ ông cha ta để lại.

Tục ngữ là gì?

Khác với ca dao, thì tục ngữ lại thể hiện những câu nói đúc kết kinh nghiệm của dân gian. Về mọi mặt trong cuộc sống như: tự nhiên, lao động sản xuất và xã hội, được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ, lời ăn tiếng nói và khuyên răn…

Với ý nghĩa ngắn gọn dễ hiểu, dễ nhớ, có nhịp điệu, có hình ảnh thường gieo vần lưng. Và đây cũng là một thể loại văn học dân gian Việt Nam. Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn của con người. Trong đó gữa hình thức và nội dung, tục ngữ có một sự gắn bó chặt chẽ. Thông thường trong một câu tục ngữ có 2 nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng.

Khác với ca dao, tục ngữ thường có vần, gồm 2 loại chính là: vần liền và vần cách.

Ca Dao Tục Ngữ Phần II từ H tới L Ca Dao Tục Ngữ Phần III từ M tới Y :: ::

Xin bấm vào các links sau đây để đọc tiếp :

1. Ai ai cũng tưởng bậu hiềnA

Cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai

2. Ai đem con sáo sang song Để cho con sáo sổ lồng bay cao

3. Ai đi bờ đắp một mình Phất phơ chiếc áo giống hình phu quân

4. Ai đi đâu đấy hỡi ai Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm Ai đi muôn dặm non song Để ai chứa chất sầu đong vời đầy

5. Ai đi sục sịch ngoài hàng dưa Phải chăng chú thợ mộc với cái cưa cái bào Ai đi sục sịch ngoài hàng rào Phải chăng chú thợ mộc với cái bào cái cưa

6. Ai kêu là rạch, em gọi là song Phù sa theo nước chảy mênh mông Sông ơi, thấm mát đời con gái Chẳng muốn lìa sông, chẳng muốn lấy chồng

7. Ai làm cho bướm lìa hoa Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng

8. Ai làm Nam Bắc phân kỳ Cho hai giòng lệ đầm đìa nhớ thương

9. Ai mà nói dối cùng ai Thì trời giáng hạ cây khoai giữa đồng Ai mà nói dối cùng chồng Thì trời giáng hạ cây hồng bờ ao

10. Ai nhứt thì tôi đứng nhì Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba

11. Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần

12. Ai ơi chơi lấy kẻo già Măng mọc có lứa người ta có thì Chơi xuân kẻo hết xuân đi Cái già sòng sọc nó thì theo sau Phần I từ A tới G

100. Áo anh đứt chỉ đường tà Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu

B

Mưa rầu, nắng lửa, người ta lừ đừBuồn về một nỗi tháng tưCon mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ănBuồn về một nỗi tháng nămChửa đặt mình nằm gà gáy, chim kêuLựu xa đào, lựu xéo đào xiênVàng cầm trên tay rớt xuống không phiềnChỉ phiền một nỗi nợ với duyên không trònChờ con bạn ngọc thở than đôi lờianh hai vật đổi sao dờiTính sao nàng tính trọn đời thủy chungCanh ba cờ phất trống rungMặc ai ai thẳng ai dùn mặc aiCanh tư hạc đậu cành maiSương sa lác đác khói bay mịt mờCanh chầy tơ tưởng tưởng tơChiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu khôngAi làm lỡ chuyến đò ngangCho loan với phượng đôi hàng biệt ly

C

78. Bước vô trường án, vỗ ván cái rầm Bủa xua ông Tham biện, bạc tiền ông để đâu

80. Bực mình chẳng muốn nói ra Muốn đi ăn giỗ chẳng ma nào mời

79. Bước xuống ruộng sâu, em mảng sầu tấc dạ

75. Bươm bướm mà đậu cành bong Đã dê con chị, lại bồng con em

76. Bước lên xe kiếng đi viếng mả chồng Mả chưa cỏ mọc trong lòng đậu thai

77. Bước sang canh một anh thắp ngọn đèn vàng

73. Buổi chợ đông con cá đồng anh chê lạt Buổi chợ tan rồi con tép bạc anh cũng khen ngon

74. Bùn xa bèo, bùn khô bèo héo Tay em ôm bó mạ, luỵ ứa hai hàng

C

Đi buôn cau héo có buồn hay không

43. Chén tình là chén say sưa Nón tình anh đội nắng mưa trên đầu

VẦN D VẦN Đ

Đánh bạc quen tay Ngủ ngày quen mắt Ăn vặt quen mồm

Đánh chết, mà nết không chừa Đến mai ăn chợ, bánh dừa lại ăn

Đàn bà nói có là không Nói yêu là ghét, nói buồn là vui

Đàn bà tốt tóc thì sang Đàn ông tốt tóc thì mang nặng đầu

Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi

Đàn kêu tích tịch tình tang Ai đem công chúa lên thang mà về

Đàn ông đi biển có đôi Đàn bà đi biển mồ côi một mình

Đàn ông không râu vô nghì Đàn bà không vú lấy gì nuôi con

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ nhu Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ

Đèn cầu tàu ngọn lu ngọn tỏ Anh trông không rõ, anh ngỡ đèn màu Rút gươm đâm họng máu trào Để em ở lại, em kiếm thằng nào hơn anh

Đèn nhà lầu hết dầu đèn tắt Lửa nhà máy hết cháy thành than Nhang chùa Ông hết mạt nhang tàn Kể từ khi em biết được chàng Đêm về em lăn lộn như con chim phượng hoàng bị tên

Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc Xứ nào dốc bằng xứ Nam Vang Một tiếng anh than ba bốn đôi vàng em không tiếc Anh lấy đặng em rồi anh trốn biệt lánh thân

Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần THương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run

Đèn treo ngang quán Tỏ rạng bờ kinh Em có thương anh thì ăn nói cho thiệt tình Đừng để cho anh lên xuống một mình bơ vơ

Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn Đồng hồ điểm nhặt nhớ chàng không quên

Đêm khuya ra đứng bờ ao Trông cá cá lặn trông sao sao mờ Buồn trông con nhện giăng tơ Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai

Đêm khuya thắp chút dầu dư Tim loan cháy lụn, sầu tư một mình

Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?

Đêm khuya trăng dọi lầu son Vào ra thương bạn, héo hon ruột vàng Bển qua đây đàng đã xa đàng Dầu tui có lâm nguy thất thế Hỏi con bạn vàng nó cứu không? Chiều rồi kẻ Bắc, người Đông Trách lòng người nghĩa, nói không thiệt lời

Đêm nằm tàu chuối có đôi Hơn nằm chiếu tốt lẻ loi một mình

Đêm qua, đêm lạnh, đêm lùng Đêm đắp áo ngắn, đêm chung áo dài Bây giờ chàng đã nghe ai Aó ngắn chẳng đắp, aó dài không chung Bây giờ sự đã nhạt nhùn Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua Cá lên mặt nước, cá khô Vì anh, em phải giang hồ tiếng tăm

Đêm qua nguyệt lặn về Tây Sự tình kẻ ấy, người đây còn dài Trúc với mai, mai về trúc nhớ Trúc trở về, mai nhớ trúc không Bây giờ kẻ Bắc, người Đông Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư

Đêm thanh cảnh vắng Thức trắng năm canh Một duyên, hai nợ, ba tình Đường kia,nỗi nọ, phận mình ra sao

Đến đây đất nước lạ lùng Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo

Đến ta mới biết của ta Trăm nghìn năm trước biết là của ai

Đề huề chồng vợ Như bí rợ nấu kiểm với khoai lang Như tép rang ăn cặp với canh khoai mỡ

Đi chùa lạy Phật cầu chồng Hộ pháp liền bảo đờn ông hết rồi

Đi đâu cho thiếp theo cùng Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam

Đi đâu mà vội mà vàng Mà vấp phải đá mà quàng phải dây Thủng thỉnh như chúng anh đây Thì đá nào vấp, thì dây nào quàng

Đi cho biết đó biết đây Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn

Đi qua nhà nhỏ Thấy đôi liễn đỏ có bốn chữ vàng Thạnh suy anh chưa biết chớ thấy nàng anh vội thương

Đó đây trước lạ sau quen Chẳng gần, qua lại đôi phen cũng gần

Đói lòng ăn đọt chà là Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng

Đói lòng ăn nắm lá sung Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng

Đói lòng ăn nửa trái sim Uống lưng bát nước đi tìm người thương

Đói lòng nuốt trái khổ qua Nuốt vô sợ đắng, nhả ra con bạn cười

Đôi ta chẳng được sum vầy Khác nào cánh nhạn lạc bầy kêu sương Vì sương nên núi bạc đầu Cành lay bởi gió hoa sầu vì mưa

Đôi ta đã trót lời thề Con dao lá trúc đã kề tóc mai Dặn rằng: Ai chớ quên ai!

Đôi ta như loan với phượng Nỡ lòng nào để phượng lià cây Muốn cho có đó, có đây Ai làm nên nỗi nước này chàng ôi Thà rằng chẳng biết thì thôi Biết rồi gối chiếc lẻ loi thêm phiền

Đôi ta như thể con tằm Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong Đôi ta như thể con ong Con quấn con quít, con trong con ngoài Đôi ta như thể con bài Chồng đánh vợ kết chẳng sai con nào

Đố ai biết luá mấy cây Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng Đố ai quét sạch lá rừng Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây Rung cây, rung cỗi, rung cành Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng

Đố ai lặn xuống vực sâu Ru con không hát, em chừa nguyệt hoa

Đố anh con rít mấy chưn Cầu Ô mấy nhịp, chợ Đinh mấy người Mấy người bán áo con trai Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim

Đốt than nướng cá cho vàng Lấy tiềng mua rượu cho chàng uống chơi

Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm Muốn ăn bôn súng mắm kho Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm

Đồng tiền Vạn lịch Thích bốn chữ vàng Anh tiếc công anh gắn bó với cô nàng bấy lâu Bây giờ cô lấy chồng đâủ Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng

Đổ lửa than nên vàng lộn trấu Anh mảng thương thầm chưa thấu dạ em

Đổng Kim Lân hồi còn nhỏ, đi bán giỏ nuôi mẹ Anh gặp em đây không cửa không nhà Muốn vô gá nghĩa, biết là đặng chăng?

Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Lúa rụng đầy đồng, gà chẳng cần ăn

Đờn cò lên trục kêu vang Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương Chiều nay qua phản bạn hồi hương Nghe bậu ở lại vầy vươn nơi nào Ghe tui tới chỗ cắm sào Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông

Đu đủ tiá, bạc hà cũng tiá Ngọn lang dâm, ngọn mía cũng dâm Anh thấy em tốt mã anh lầm Bây giờ anh biết rõ, vàng cầm anh cũng buông

Đưa nhau đổ chén rượu hồng Mai sau em có theo chồng đất xa Qua đò gõ nhịp chèo ca Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say

Đường trơn trợt gượng đi kẻo té Áo còn nguyên ai nỡ xé vá quàng Hồi sớm mai, gặp em sao anh không hỏi Hay dạ của chàng nay đã hết thương?

Đứt tay một chút còn đau Huống chi nhân nghĩa, lià sao cho đành

Đ Đất lành chim đậu.

E

VẦN E

Em có chồng sao em không nói? Để anh theo anh chọc em hoài Chắc có ngày anh sẽ bị ăn dao phay!

Em đeo chiếc kim hườn Em còn chờn vờn chiếc kim xuyến Hườn xuyến vuột tay rồi, buồn nghiến, ai thương!

Em liều một cái bánh bò Còn nào chót chét, cặp giò em chặt hai

Em liều một chén dầu chanh Con nào hỗn dữ vuốt nanh em bẻ liền

Em liều một trái sầu giêng Con nào độc hiểm, em nghiền ra tro

Em nghĩ thân em, như kiếng lấm lem cát bụi Ai đó lau chùi, biết tới buổi nào xong?

Em nhớ thương ai mà mặt mày ngơ ngác Nhớ tên hốt rác hay thương thằng vét đường mương?

Em ơi, anh bảo em này Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi

Em ơi, em có thương anh Em ra canh lính cho anh leo tường!

Em ơi em ở lại nhà Vườn dâu em hái mẹ già em thương Mẹ già một nắng hai sương Chị đi một bước trăm đường xót xa Cậy em em ở lại nhà

Em thấy anh em cũng muốn chào Sợ anh chồng cũ nó đứng bờ rào nó trông

Em chấy anh em cũng muốn chào Sợ rằng chị ả vắt dao trong mình Dao trong mình, gươm anh cặp nách Thuận nhơn tình khoét vách sang chơi

Em thương nhớ ai ngơ ngẩn bên đầu cầu Lược thưa biếng chải, gương tàu biếng soi Cái sập đá bỏ vắng em không ngồi Vườn hoa hoang lạnh mặc người vào ra

Em về hỏi mẹ cùng cha Có cho em lấy chồng xa hay đừng

Én bay thấp, mưa ngập bờ ao Én bay cao, mưa rào lại tạnh

Em nghe tiếng hát đâu xa

Còn trẻ hay già mà còn tinh vang.

Ê

Êm như ru

Ếch ngồi đáy giếng

VẦN G

Gan teo mấy đoạn, ruột thắt mấy từng Mình bảy buôi lỗ miệng đặng cầm chừng xa tui

Gái Tầm Vu đồng xu ba đứa Con trai Thủ Thừa cỡi ngựa xuống mua

Gái Thới Bình lòng ngay dạ thẳng Trai bạc tình một cẳng về quê

Gái lấy trai đứng là gái dại Trai lấy rồi trai lại bán rao Gái đâu có thứ hỗn hào Trai chưa làm rể, gái vào làm dâu

Gà đẻ, gà cục tác

Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân

Gạo Ba Thắt trắng như bông bưởi Nước phông-tên tiền rưỡi một đôi Saigon vui lắm em ơi Lấy chồng về đó một đời sướng thân

Gạo chợ, nước sông, củi đồng, nồi đất

Gạo ngon nấu cháo chưa nhừ Mặt chị có thẹo ảnh chừa đôi bông

Gẫm xem sự thế nực cười Một con cá lội mấy người buông câu

Gần mực thì đen gần đèn thì sáng

Gập ghềnh nước chảy qua đèo Bà già tập tễnh mua heo cưới chồng

Ghe anh đỏ mũi xanh lườn Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em

Ghe anh mỏng ván, bóng láng nhẹ chèo Xin anh bớt mái, nương lèo đợi em

Ghe em rẽ vô ngọn, anh chẳng đón chẳng chờ Ghe anh tách bến tách bờ, em buồn cho trăng mờ sao lặn Mình lấy nhau chẳng đặng bởi bà mai lưỡi vắn ít lời Mật đường dù chẳng đi đôi Chút hương rớt lại, một đời chưa quên

Ghe lên ghe xuống dầm dề Sao anh không gởi thơ về thăm em?

Ghét con xẩm lai mê trai, mi lai nhãn khứ Ôm bụng trống chầu, bỏ xứ ra đi

Già thì đặc bí bì bì Con gái đương thì rỗng toác toàng toang Ngoài xanh trong trắng như ngà Đàn ông cũng chuộng, đàn bà cũng yêu (Đố là gì? – cau dầy)

Giàu cha giàu mẹ thì ham Giàu cô giàu bác ai làm nấy ăn

Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa Sang đâu đến kẻ say sưa rượu chè

Giàu từ trong trứng giàu ra

Giàu út ăn, khó út chịu

Giả đò mua khế bán chanh Giả đi đòi nợ thăm anh kẻo buồn

Giặc Tây đánh tới Cần Giờ Bậu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công

Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh

Giấy hồng đơn bán mấy Cho anh mua lấy một tờ Viết thơ quốc ngữ Dán trên trái bưởi Thả xuống giang hà Bớ cô gánh nước bên bờ Xuống sông vớt bưởi để mà xem thơ

Giận chồng xách gói ra đi Chồng theo năn nỉ, khoái tù ti trở về

Gieo gió gặp bão

**************************************

Toàn bộ từ vần A đến Y

-B-

-C-

Ca Li đi dễ khó về

Câu nguyên gốc là..nói về những người đi trồng cao su

Cao su đi dễ khó về Khi đi trai tráng, khi về bủng beo ================================================== ======= Có công mài sắt, có ngày nên kim ================================================== ======== Chân cứng đá mềm ================================================== ======== Có chí thì nên ================================================== ======== Cô kia bới tóc đuôi gà Nắm đuôi kéo lại hỏi nhà ở đâu ? Nhà tôi ở trước đám dâu Ở sau đám cải đầu cầu ngó qua

Cái câu này còn có khác hơn một tí đó là..

Đ-

Còn trẻ hay già mà còn tinh vang.

Ếch ngồi đáy giếng

================================================== ========

-G-

-H-

-I-

================================================== ========

-K-

-L-

-M-

-N-

Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ ================================================== ======== Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm ================================================== ======== Nhất quỷ nhì ma Thứ ba học trò …. ) ================================================== ======== Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng ================================================== ======== No bụng đói con mắt ================================================== ========

-O-

Ở đâu cũng có anh hùng Ở đâu cũng có thằng khùng thằng điên ================================================== ======== Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài ================================================== ======== Ớt nào là ớt chẳng cay, Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng. Vôi nào là vôi chẳng nồng Gái nào là gái có chồng chẳng ghen ! ================================================== ======== Ở hiền gặp lành ================================================== ========

-Q-

Quả cau nho nhỏ Cái vỏ vân vân Nay anh học gần Mai anh học xa Tiền, gạo là của mẹ cha Bút nghiên, kinh sách thì là của anh

Lấy chàng từ thuở mười ba Đến năm mười tám thiếp đà năm con Ra đường thiếp hãy còn son Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng

================================================== ========

-R-

Râu tôm nấu với ruột bầu Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon ================================================== ========

-S-

Sông sâu còn có kẻ dò Nào ai lấy thước mà đo lòng người ================================================== ======== Sá gì một nải chuối xanh Năm bảy người giành cho mủ dính tay ================================================== ========

-T-

-U-

================================================== ========

-V-

Vì sông nên phải lụy thuyền Chứ như đường liền ai phải lụy ai ================================================== ======== Vải thưa che mắt thánh ================================================== ========

-X-

========

-Y-

Yêu nhau cởi áo cho nhau Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay

========

Yêu nhau thì ném miếng trầu Ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra Yêu nhau cau bổ làm ba Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười

☆ ☆

Xem Thêm Cập nhật 2023:

Mèo khen mèo dài đuôi.

N Năm nắng mười mưa

Những Vần Ca Dao Hiện Đại Về Bác Hồ

Đất nước ta, dân tộc ta và ca dao, từ bao đời nay luôn bền chặt, thắm đỏ. Đất nước này là đất nước của nhân dân/ Đất nước của ca dao, thần thoại (Nguyễn Khoa Điềm). Và dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta. (Điếu văn của BCHTƯ Đảng Cộng sản Việt Nam trong lễ tang Hồ Chủ tịch). Trong lịch sử văn học dân tộc và thế giới chưa có danh nhân nào được ca dao hóa như Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bởi vì Người là Cha, là Bác, là Anh/ Quả tim lớn lọc trăm dòng máu đỏ (Tố Hữu), bởi vì Hồ Chí Minh – tên Người là cả một niềm thơ (Pêlix Pita Rôđrighêt – nhà thơ Cu Ba).

Sinh thời Bác rất thích dùng ca dao, tục ngữ trong các bài viết của mình để mọi người dễ hiểu, dễ thuộc, dễ tuyên truyền cách mạng. Những ngày bệnh nặng, Bác vẫn thèm nghe một câu hò xứ Nghệ. Nhà thơ Lê Anh Xuân trong Trường ca Nguyễn Văn Trỗi đã viết: Điệu lục bát, khúc dân ca/ Việt Nam là Bác, Bác là Việt Nam. Ngay trong bản Di chúc thiêng liêng, trước lúc đi xa, Người vẫn còn dặn lại đồng bào, đồng chí bằng một câu lục bát biến thể:

Còn non, còn nước, còn người

Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!

Có thể nói: Bác và ca dao, ca dao và Bác đã có sự hài hòa, nồng thắm. Còn gì đẹp hơn, tự hào hơn khi nhân dân ta từ núi rừng, hải đảo xa xôi đến bưng biền Đồng Tháp đã dành những vần ca dao chứa chan nghĩa tình để viết về Người:

Là sao Bắc Đẩu, là vầng Thái dương.

Nhà thơ Trần Hữu Thung ở quê hương Bác, đã lọc ra trong hàng ngàn câu ca dao viết về Bác ở mọi vùng, mọi miền để có được cuốn Ca dao về Bác Hồ với 1.240 câu. Nhà giáo Nguyễn Nghĩa Dân trong Ca dao Việt Nam 1945-1975 (NXB Văn hóa – Thông tin – Hà Nội 1997) đã sưu tầm 745 bài (đơn vị ngắn nhất của một bài ca dao là 2 dòng lục bát), thì có tới 93 bài viết về Bác Hồ (chiếm trên 13%). Bác sống như trời đất của ta (Tố Hữu), như ánh sáng, như khí trời không thể thiếu được trong cuộc đời mỗi con người Việt Nam, và ai cũng cảm thấy:

Bác cho con cả cuộc đời tự do

Con đang đi giữa đêm trường

Nhờ Cha soi đuốc dẫn đường cho con

Công Cha như nước, như non

Như gương Hồ Thủy, như hòn Thái Sơn.

Các hình ảnh như vầng dương, sao Bắc Đẩu, núi Thái Sơn, ngọn đuốc, biển rộng, sông dài, núi cao, trăng rằm, hoa sen… luôn xuất hiện với tần số cao trong những câu ca dao về Bác:

Đố ai đếm được công lao Bác Hồ.

Muốn lay chẳng ngã, muốn rung chẳng rời…

Đồng bào Tây Nguyên đã có bài ca dao về Bác với những so sánh liên tưởng thật xúc động:

Hồ Chí Minh – Người là con sông lớn

Người là mặt trời, Người là mặt trăng.

Mùa lạnh nhắc tên Hồ Chí Minh: Cái bụng ấm,

Mùa nắng nhắc tên Hồ Chí Minh: Mây thêu mặt trời hồng,

Mùa Thu nhắc tên Hồ Chí Minh: Mây lắng trời trong,

Mùa Xuân nhắc tên Hồ Chí Minh: Cây cỏ đâm nhựa trổ bông.

Đồng bào Ê đê, Gia lai, Ba na cũng thường hát:

Lên rừng nhắc tên Hồ Chí Minh/ quên cả chân chồn, leo dốc nhanh

Xuống đồng nhắc tên Hồ Chí Minh/ cấy lúa suốt ngày không thấy mệt.

Bữa ăn nhắc tên Hồ Chí Minh/ đôi đũa và cơm như và ngọc

Nằm ngủ nhắc tên Hồ Chí Minh/ trời tan bóng tối, ấm năm canh.

Đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Tày, Nùng, Hmông ở Việt Bắc, Tây Bắc luôn cảm nhận được tình cảm của Bác dành cho họ:

Cụ Hồ thương dân đất Mường ta, sông bể không bằng.

Đưa đến chòm này người cán bộ giỏi giang.

Đồng bào Khmer, Chăm, Hoa cũng như muôn triệu trái tim miền Nam luôn tin tưởng và biết ơn Bác:

Cụ Hồ với dân như chân với tay

Như chày với cối, như cội với cành.

Nhưng rồi ngẫm lại mà coi

Có Đảng, có Bác, châu chấu đá voi lộn nhào.

Có Đảng, có Bác chẳng sợ chông gai bùn lầy.

Các chiến sĩ hành quân trên dải Trường Sơn – bên nắng đốt bên mưa quay, lại nhớ đến ngọn Tây Phong Lĩnh, nơi Bác đã từng tập leo núi khi mới ra tù, để từ đó có thêm sức mạnh:

Ngọn Tây Phong Lĩnh Bác trèo

Để giờ có núi, có đèo con qua.

Trường Sơn mây phủ, mưa sa

Chồn chân càng nhớ bước Cha mở đường.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân ta đã coi khinh máy bay giặc, bởi tin vào đôi tay lãnh đạo thần kỳ của Người:

Thằng Tây có trăm máy bay

Cũng không bằng cái móng tay Cụ Hồ.

Đặc biệt nhà thơ Bảo Định Giang đã nói hộ tấm lòng của muôn triệu đồng bào miền Nam đối với Bác qua bài ca dao nổi tiếng – Cụ Hồ và bông sen:

Tháp Mười đẹp nhứt bông sen

Nước Nam đẹp nhứt có tên Cụ Hồ

Cụ Hồ thì để tôn thờ trong tâm.

Có thể nói hai câu ca dao của Bảo Định Giang: Tháp Mười đẹp nhứt bông sen/ Nước Nam đẹp nhứt có tên Cụ Hồ đã trở thành tài sản phi vật thể chung của cả dân tộc, là câu ca dao hiện đại hay nhất về Bác. Câu ca dao này đã phổ thông hóa bằng sự biến đổi đi bốn từ của phương ngữ Nam Bộ:

Tháp Mười đẹp nhất hoa sen,

Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.

Bác đã đi vào cõi trường sinh, nhưng mỗi khi đọc những vần thơ của Bác, hay những câu ca dao của dân tộc ta viết về Bác, mỗi chúng ta lại thấy: Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn để rồi Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước/ Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau (Tố Hữu). Và sau cùng, tôi xin phép trích một bài ca dao thời kháng chiến chống Pháp, viết về Bác để kết thúc bài viết nhỏ này như một thông điệp gửi tới bạn đọc gần xa và dâng lên hương hồn Bác nhân Ngày sinh của Người 19- 5:

Tuy xa, xa lắm, nhưng gần, gần ghê,

Rộn ràng khắp chợ cùng quê đón mừng,

Ai ngoài muôn dặm trùng dương

Cũng thường nhận được tình thương Cụ Hồ.

Cập nhật thông tin chi tiết về Hình Tượng Bác Hồ Trong Ca Dao Việt Nam trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!