Bạn đang xem bài viết Hòa Hợp Dân Tộc Theo Tinh Thần Cố Thủ Tướng Chính Phủ Võ Văn Kiệt được cập nhật mới nhất trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Kỷ niệm 44 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4):
30-4 năm nay đã tròn 44 năm đất nước thống nhất. 44 năm đã qua, lịch sử đã đủ độ dài cần thiết để các thế hệ hôm nay nhìn lại cuộc chiến kỳ lạ và đau thương của dân tộc. Cột mốc 30-4 có lẽ vì vậy sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm khảm của mỗi người dân đất Việt, bởi lẽ đó là ngày non sông thu về một mối, là ngày mà sự chia ly của biết bao gia đình người Việt được hàn gắn và đoàn tụ.
44 năm đã qua, lại nhớ về tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc của cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt.
Cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt
TIN LIÊN QUAN
Nhớ về ngày 30-4
Nguyên Phó chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa: Hỏi tuổi, tuổi khuyên nên dừng lại Hỏi lòng, lòng bảo: Cứ xung phong!”
Vững bước đi lên
Vinh dự có mặt trong thời khắc lịch sử
1. Sinh thời, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt luôn đau đáu với sự nghiệp hòa hợp dân tộc. Ông đã làm hết sức mình có thể để hàn gắn vết thương chiến tranh, để hòa hợp, hòa giải dân tộc.
Có lần khi trả lời phỏng vấn, ông Võ Văn Kiệt đã khẳng định: ‘’Kẻ thù của Việt Nam là Pháp trước đây, kẻ thù Việt Nam là Mỹ sau này, kẻ thù Việt Nam là Trung Quốc đánh biên giới phía Bắc, chúng ta cũng khép lại quá khứ được, thì tại sao chúng ta lại không khép lại quá khứ ấy mà lại cứ đố kỵ lẫn nhau”.
Chúng ta đều biết rằng, năm 1966, có một cuộc thảm sát của lính Mỹ trên sông Sài Gòn, trong đó lính Mỹ bắn chìm tàu Thuận Phong, trên con tàu định mệnh ấy, vợ, con trai và con gái của ông Võ Văn Kiệt đã bị giết hại và tới nay vẫn chưa tìm được hài cốt.
Thấu hiểu nỗi đau từ chính người trong cuộc nên ông hiểu rằng “khép lại” là một việc không hề dễ dàng. Thế nhưng, ông cho rằng: “Không gì là không làm được! Hòa hiếu, khoan dung” là những truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Người Việt thường chỉ kháng chiến khi có kẻ thù từ bên ngoài. Sau 30 năm qua, tôi nghĩ mọi người Việt Nam chúng ta, cả đôi bên đều nhận thấy khi không còn sự can thiệp từ bên ngoài nữa, chúng ta có thể trở về bên nhau, cùng nhau xây dựng. Và Việt Nam sẽ thêm phát triển khi mọi người Việt dù ở đâu cũng đều ở trong một cộng đồng hòa hợp”.
2. Trong 30 năm ròng rã chiến tranh ấy, kẻ thù đã gây ra không biết bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân tộc này. Thế nhưng, những đau thương về da thịt có thể ở nhiều nơi đã lành, chỉ có những nỗi đau trong lòng vẫn còn đâu đó. Ngay trong gia đình ông Võ Văn Kiệt cũng có những người cháu ở phía quân đội Sài Gòn.
Ông Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn có người em ruột là Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông Trần Văn Hương, Tổng thống chế độ Sài Gòn có con trai là Đại úy Quân đội nhân dân Việt Nam và đã từng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ… Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình trong hồi ký của mình cho biết trên 90% gia đình ở miền Nam có cả người ở phía bên này và phía bên kia. Đó là nỗi đau quá lớn của dân tộc này.
Sau ngày 30-4, vừa xuống thang máy bay ở Sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc, nói: “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai”. 44 năm đã trôi qua, có bao nhiêu người, nhất là những người có trách nhiệm hiểu trọn vẹn câu nói đặc biệt này của ông Lê Duẩn.
Cũng vậy, tối 2-5-1975, tại Dinh Độc Lập, trong buổi tiếp và trao trả tự do cho ông Dương Văn Minh và toàn bộ nội các cuối cùng của Sài Gòn, Thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản TP.Sài Gòn – Gia Định, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 đã phát biểu rằng đây là chiến thắng của toàn dân tộc Việt, đây là niềm hãnh diện chung của tất cả nhân dân Việt Nam chúng ta.
3. 44 năm qua, chúng ta đã làm được rất nhiều chuyện để hàn gắn nỗi đau này của dân tộc. Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26-3-2004 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đều đã khẳng định “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai”.
Trong cuốn hồi ký Tổ quốc trên hết, Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh cho rằng từ chiến thắng vĩ đại mùa Xuân 1975 đã đủ độ dài cho phép chúng ta có điều kiện nhìn lại mọi sự vật, hiện tượng đã diễn ra ngày càng rõ ràng, đầy đủ, chính xác hơn. Để giải quyết đồng loạt, rộng khắp, kịp thời và thật sự tạo nên đại thắng, phải thấy rõ vai trò tiến công và nổi dậy của lực lượng tại chỗ, của lực lượng chính trị quần chúng, trong đó có cả lực lượng của những người bị bắt buộc đứng trong hàng ngũ của địch, có cả cơ sở của cách mạng nằm trong hàng ngũ địch…
Phát biểu tại Đại hội MTTQ Việt Nam lần thứ VIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc”.
Tại chương trình giao lưu nghệ thuật “Xuân quê hương 2015 – Tổ quốc vinh quang” năm 2015, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định: “Không có lý do gì để còn bất kỳ ai trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài còn định kiến, mặc cảm về quá khứ mà cản trở sự củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam”.
Đại hội lần thứ XII của Đảng một lần nữa khẳng định các quan điểm, chủ trương về đoàn kết, hòa hợp dân tộc: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước”…
Lúc sinh thời, ông Võ Văn Kiệt cho biết khi nghe ông Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn, ông và ông Năm Xuân (Mai Chí Thọ) đã “thở phào nhẹ nhõm” và cho biết rằng chỉ những ai trực tiếp có mặt ở chiến trường trong thời điểm ấy mới cảm nhận hết được giá trị của lời tuyên bố ngừng bắn này của Tổng thống Dương Văn Minh.
Chính phủ cuối cùng của chế độ Sài Gòn do ông Dương Văn Minh đứng đầu tất cả đều thuộc thành phần thứ 3. Họ không có bất cứ liên hệ gì với chính phủ Nguyễn Văn Thiệu. Cụ Nguyễn Văn Huyền, một trí thức Công giáo, bạn của luật sư Nguyễn Hữu Thọ là Phó tổng thống đặc trách hòa đàm, GS.Vũ Văn Mẫu, người đã cạo trọc đầu phản đối chính sách đàn áp tôn giáo của chế độ Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng (cả 2 vị đều có những người ruột thịt là những người đứng khác chiến tuyến); Bộ trưởng Quốc phòng là một giáo sư đại học (GS.Bùi Tường Huân); Quyền Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh là cơ sở binh vận của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Giám đốc Nha Cảnh sát đô thành Sài Gòn là một đảng viên cộng sản (thẩm phán Triệu Quốc Mạnh); Tổng trưởng thông tin Lý Quý Chung (nhà báo Chánh Trinh) là một dân biểu đối lập của chế độ Nguyễn Văn Thiệu; các tổng, bộ trưởng, quốc vụ khanh: Dương Văn Ba, Trần Ngọc Liễng, Trần Thúc Linh, Châu Tâm Luân… đều là những người yêu nước và sau này họ đều có đóng góp xứng đáng trong chế độ mới…
Thế nhưng, vẫn còn đó không ít cá nhân người Việt ở nước ngoài vẫn chứa đầy hận thù, hậm hực, chửi bới, mạt sát Nhà nước Việt Nam. Dường như đó không thể và không phải là hành động sáng suốt trong bối cảnh hiện nay.
Đất nước đang đứng trước những thử thách, khó khăn, nguy hiểm từ bên ngoài, đây là lúc cần nhất sự đồng lòng, đoàn kết nhất trí của tất cả người Việt trong và ngoài nước…
Vũ Trung Kiên
Hồi Ức Về Cha Của Các Con Cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt
Ba tôi đi xa đã mười năm nhưng không hiểu sao tôi luôn có cảm giác ông vẫn ở rất gần. Có lẽ vì khi tuổi tác ngày càng cao thì niềm nhớ thương cha mẹ ngày càng đằm sâu…
Trao cho các con quyền quyết định đời mình
Cuối năm 1969, khi đang sống với cha mẹ nuôi ở miền Bắc, tôi nghe các cô chú có trách nhiệm nói sẽ đưa tôi vào miền Nam gặp ba. Thật khó tả niềm xao xuyến trong tôi lúc ấy. Suốt tuổi ấu thơ, tôi chỉ mang máng biết cha ruột của tôi đang hoạt động bí mật ở miền Nam, nơi ấy xa lắm, cuộc chiến đấu ác liệt lắm, khó định trước ngày hội ngộ. Niềm hạnh phúc sẽ được gặp mặt ba lần đầu trong đời đã khiến tôi thấy tất cả những trở ngại khác đều là chuyện nhỏ: việc học phổ thông bị gián đoạn, mối hiểm nguy khôn lường của chiến tranh trong chặng đường dài dằng dặc từ Bắc vào Nam…
Khi tôi vào đến nơi, ba tôi đang họp. Tôi đã ngồi đợi ông trong sự hồi hộp và tưởng tượng miên man… Rồi ông bước ra, nụ cười rạng rỡ và hiền từ, tiến về phía tôi với hai cánh tay dang rộng. Còn tôi, sau vài giây bỡ ngỡ đã bước tới như có một lực đẩy vô hình đến ôm chầm lấy ông. Chẳng lời nào thốt ra từ ai. Ấm áp huyết thống trong im lặng. Thế là đủ. Cuộc chiến đấu chưa kết thúc, tôi ở lại cơ quan Miền, còn ông trở về Khu 9 làm nhiệm vụ của bí thư Khu ủy. Hai tháng sau khi anh Phan Chí Dũng, con trai đầu lòng của ba tôi hy sinh tại Hòn Đất – Rạch Giá (4.1972), ba tôi cho gọi tôi từ miền Đông về Năm Căn – Cà Mau, công tác ở bộ phận thông tin liên lạc cho Khu ủy T3. Chiến tranh, việc ai nấy làm, cha con như hai đồng đội, ít có thời giờ riêng tư. Ngay cả khi về Tây Ninh, chuẩn bị chiến dịch Hồ Chí Minh, cha con tôi cũng chẳng đi chung một đợt. Ba tôi cùng đơn vị ông về tới Sài Gòn trưa ngày 30. 4.1975. Còn tôi thì tối hôm đó mới về tới.
Ở Sài Gòn những ngày đầu sau ngày giải phóng, tôi cũng gần như không ở chung với ba tôi. Ông tập trung cho việc lãnh đạo công tác tiếp quản thành phố. Còn tôi, khi được ba hỏi “Sao, giờ trở lại học hành hay là tiếp tục làm việc?”, tôi đã ngay lập tức chọn “giã từ vũ khí” để đi học. Học bổ túc một năm ba lớp, rồi thi đậu vào Đại học Bách khoa, ngành cơ khí chế tạo máy. Học xong năm 1981, thay vì về Sở Công nghiệp như một gợi ý của tổ chức, tôi về làm việc ở Xí nghiệp Cơ khí huyện Củ Chi. Sự lựa chọn đó đến từ một câu nói như bâng quơ của ba tôi: “Học cơ khí thì phải về cơ sở coi cơ khí ở nông thôn thiếu gì, cần gì, chứ ngồi ở văn phòng sở thì có thấy gì đâu”.
Tôi quyết định về Công ty Đầu tư Phát triển Giao thông Vận tải (TRACODI) – một đơn vị mới thành lập của Bộ Giao thông – Vận tải. Công việc mới mẻ nhưng không quá xa lạ với chuyên môn và khả năng của tôi. Sự hài lòng với lựa chọn của mình đã giữ chân tôi ở đơn vị này từ năm 1992 đến khi nghỉ hưu (2014), với chức vụ tổng giám đốc. Suốt 22 năm ấy, không phải đã không có những lần tôi được “rủ rê” vào con đường quan trường, nhưng tôi đã từ chối và tôi biết, chính ba tôi cũng không muốn điều đó.
Di ảnh cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt với dòng chữ viết tay của ông: “Tôi tự hào về các con tôi. Đó là Phúc lớn của tôi”. Ảnh: TLGĐ
Khi còn tại chức cũng như khi đã nghỉ hưu, ông chưa bao giờ, dù chỉ là gợi ý xa xôi, với cán bộ dưới quyền về việc học hành và bố trí công tác cho các con. Trao cho các con quyền tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về mọi lựa chọn khi chúng đã trưởng thành, cách xử sự ấy của ba tôi đã giúp anh em chúng tôi tự tin rất nhiều trong công việc và cuộc sống. Và, nói thật lòng, tôi chưa bao giờ có chút hối tiếc về cách xử sự đó của ba tôi. Cảm động nhất là khi chúng tôi tìm ra dòng chữ sau đây trong sổ ghi chép của ba tôi: “Tôi tự hào về các con tôi. Đó là phúc lớn của tôi”. Dòng chữ ấy với chúng tôi quý hơn của cải, bạc vàng. Nó là sự ghi nhận âm thầm và ấm áp của một người cha rất nổi tiếng, ở đỉnh cao của chính trường, về những đứa con bình thường đã biết giữ mình tử tế để người cha được yên tâm trong phận tề gia, trị quốc. Trong tấm hình thờ ba tôi ở nhà, tôi đã in thêm dòng chữ viết tay quý giá đó của ba tôi, như một lời tự răn mình và con cháu.
Lắng nghe và không áp đặt
Ông hay nói: “Nên nhớ, yêu nước không có nghĩa là yêu chủ nghĩa xã hội. Đừng có áp đặt cho người ta, phải để cho người ta quyền lựa chọn các giá trị tinh thần. Sự nghiệp này có được hôm nay là do trong cuộc chiến đấu gian khổ ác liệt vừa qua đâu phải chỉ có giai cấp nông dân và công nhân tham gia mà còn có rất nhiều người thuộc thành phần trí thức, địa chủ, tư sản”
Trong các cuộc tâm sự cha con, ông thường bảo với tôi, mỗi lần gặp gỡ ai đó, là người dân thường hay là chuyên gia, nếu không biết kéo họ lại gần mình, nếu không biết lắng nghe họ tức là mình đã tự đánh mất cơ hội nạp thêm hiểu biết về kiến thức, về tình hình, về kinh nghiệm mà họ đem tới từ địa phương, từ lĩnh vực chuyên ngành. Người đến nói chuyện với ba tôi, nói chối tai đến mấy ông cũng nghe được hết. Ngược lại, ông không ngần ngại đem đến cho người đối diện những cách nghĩ tuy chưa thuộc số đông trong Đảng, trong bộ máy nhưng ông tin là đúng và ông muốn chia sẻ. Chẳng hạn ông hay nói: “Nên nhớ, yêu nước không có nghĩa là yêu chủ nghĩa xã hội. Đừng có áp đặt cho người ta, phải để cho người ta quyền lựa chọn các giá trị tinh thần. Sự nghiệp này có được hôm nay là do trong cuộc chiến đấu gian khổ ác liệt vừa qua đâu phải chỉ có giai cấp nông dân và công nhân tham gia mà còn có rất nhiều người thuộc thành phần trí thức, địa chủ, tư sản”. Có thể nói, tư tưởng dân tộc rất rõ ở ông, rất lâu rồi và rất nhất quán.
Ba tôi từ giã chúng tôi, từ giã cuộc đời đã đúng mười năm. Sách báo nói không ít về những đóng góp đã được khẳng định của ông đối với công cuộc giải phóng và phát triển đất nước. Riêng tôi cứ ám ảnh không nguôi về nỗi trăn trở cuối cùng của ba tôi trong cuộc trò chuyện giữa hai cha con, chỉ không đầy hai tháng trước khi ông mất. Cuộc trò chuyện ấy là về thực trạng tàn phá rừng phòng hộ đầu nguồn – một nguyên nhân khiến lũ lụt ở miền Trung ngày càng diễn biến phức tạp; về mối lo ngại sâu sắc đối với cung cách trồng và quản lý rừng phòng hộ đặc biệt của các tỉnh miền Trung. Lũ quét ở miền Trung mỗi năm một dữ hơn, thiệt hại nặng nề hơn. Biến đổi khí hậu là một nguyên nhân. “Nhưng còn gì nữa nào? Quản lý rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng nguyên liệu có vấn đề gì nào? Thủy điện nữa?”. Biết ông sắp đi Hà Lan tìm hiểu cách trị thủy ở một quốc gia đất đai thấp hơn mực nước biển và ông muốn lắng nghe thêm tình hình lũ lụt trong nước, tôi mạnh dạn trao đổi với ông những gì tôi nắm được qua thực tế.
Rừng trồng ở nhiều tỉnh miền Trung sau sáu năm công phu chăm bẵm là khai thác trắng, băm chặt, vận chuyển đến cảng biển gần nhất để xuất khẩu dạng thô, cứ 1ha rừng trung bình được 50 tấn gỗ dăm mảnh thô xuất khẩu tại cảng Việt Nam (FOB) với giá rẻ bèo chỉ 100 USD/tấn, chẳng đủ bù đắp cho người trồng rừng! Việc trồng lại rừng không cách gì kịp với tốc độ chặt rừng. Hàng ngàn hecta rừng phòng hộ hiện nay chỉ trồng cây gỗ thuộc nhóm thấp thay vì trồng các loại cây gỗ quý có giá trị cao và lâu năm như lim, dầu, sao, sến… Nếu rừng phòng hộ cũng trồng keo lai, bạch đàn bên cạnh các cây có giá trị thấp khác, đến tuổi là phải thu hoạch, không khai thác trắng thì cũng cho chặt tỉa có tuyển chọn. Đâu dễ biết cây nào thuộc diện được phép chặt tỉa, cây nào không để kết tội vi phạm khi ra cửa rừng? Đây chính là kẽ hở, là cơ hội làm rỗng ruột rừng phòng hộ. Nạn mất diện tích rừng rất nhức nhối, gây tác hại ghê gớm cho môi trường, có nguyên nhân của cơ cấu cây rừng phòng hộ, có nguyên nhân buông lỏng quản lý khai thác mà khi ấy vẫn chưa có giải pháp khắc phục.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt cùng gia đình con trai Phan Thanh Nam. Ảnh: TLGĐ
Ba tôi ngồi nghe với ánh mắt lo lắng xen lẫn bất lực, ghi chép rất lâu, nhắc anh Trịnh thư ký gọi điện chỗ này, chỗ khác. Ông đã rời nhiệm vụ điều hành lâu rồi mà chưa bao giờ rời trách nhiệm công dân. Những nguy cơ, hiểm họa của thực tại đất nước cứ bám riết tâm trí ông. Cái dáng ông ngồi bên cây bút, cuốn sổ mỗi lúc như còng xuống… Cái dáng ngồi ấy và những câu hỏi đầy trăn trở của ông trong cuộc trò chuyện cuối cùng của hai cha con về tình hình đất nước hiện lên trong óc tôi khi ngồi bên thi hài ông trên chiếc máy bay y tế từ Singapore về Tân Sơn Nhất ngày 11.6.2008.
Cuộc trò chuyện cuối cùng với ba tôi ám ảnh tôi đến tận bây giờ và chắc còn rất lâu nữa…
***
Ngày rời Hà Nội về sống với ba ở Sài Gòn sau tháng 4.1975, cái gì với tôi cũng lạ lẫm. Đông đúc, ồn ào, đa dạng từ hàng quán đến cách ăn, kiểu nói. Tôi đi học đại học, còn ba thì bận bịu suốt ngày. Cán bộ lãnh đạo ai cũng bận như thế trong một thành phố mới vừa được giải phóng. Nhưng ba tôi có lẽ bận hơn những người khác là vì ông siêng “đi xóm” vào các ngày cuối tuần. “Đi xóm” là cách ba tôi gọi những cuộc đi thăm cơ sở. Khi thì một nông trường của Thanh niên Xung phong, khi thì một công trình đang xây dựng, một trường hoặc trại tập trung giáo dục các thành phần tệ nạn xã hội như mãi dâm, ma túy. “Đi xóm” gần thì quanh quanh Sài Gòn. “Đi xóm” xa thì Cần Giờ, Trị An, Đăk Nông. Trong ký ức của tôi, đáng nhớ và thú vị nhất có lẽ là những lần được ba rủ “đi xóm”: “Đi đi, vui lắm. Để đàn đó, lúc nào tập cũng được”.
Buồn cười là có lần, một học viên nam ở trại cai nghiện khi thấy tôi đi lang thang trong trại đã hỏi: “Cô ở trại nào, học viên khóa mấy (!)”. Đi xóm với ba riết, các tổng đội Thanh niên Xung phong bỗng dưng trở thành địa chỉ quen thuộc của tôi. Ba nhờ tôi đến đó thăm bệnh, tặng ai đó món quà, dự đám cưới của anh chị Võ Thị Bạch Tuyết và Thiều Hoành Chí… Nhớ lại những lần cùng ba tôi đi thăm các nông trường Phạm Văn Cội, Đỗ Hòa, Đắk Nông… ba mươi năm trước, tôi nhớ hoài hình ảnh các anh chị Thanh niên Xung phong lao động hăng say trên những cánh đồng khô cháy hoặc ngập nước. Chợt thấy chạnh lòng khi so sánh nét chân chất, trong sáng của các anh chị ngày ấy với hình ảnh của chính lực lượng này hôm nay, có gì đó rất khác.
Để kết lại chuyện “đi xóm”, ba tôi quả là người giỏi “dân vận”: ngoài tôi, sau này ông còn rủ được cả các cháu nội, ngoại “đi xóm” với ông! Không chỉ đi cùng, cháu ngoại Xuân Hà, cháu nội Võ Hiệp còn đàm đạo với ông những gì các cháu nhận biết bằng trí óc non trẻ khiến ông rất thích thú.
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cùng con gái Hiếu Dân và cháu ngoại Xuân Hà. Ảnh: TLGĐ
Hồi tôi tốt nghiệp Khoa Sinh học Đại học Tổng hợp, được về làm việc tại Phân viện Khoa học Việt Nam ở phía Nam (đường Mạc Đĩnh Chi, chúng tôi tôi thích lắm vì đúng chuyên môn và sở thích nghiên cứu của tôi. Vậy mà khi về đây, trong hai năm liền tôi chỉ được giao làm mỗi nhiệm vụ… rửa ống nghiệm, không được biết tới phòng thí nghiệm là gì! Mơ ước được cấy mô trong phòng thí nghiệm tưởng như bong bóng xà phòng trước gió. Cũng phải nói thật là tôi có thắc mắc (với chính mình thôi): vì sao kết quả tốt nghiệp của tôi tốt, tôi có chuyên môn không tồi mà lại phải làm nhiệm vụ rửa ống nghiệm lâu thế! Sau mới biết, hóa ra ba tôi đã nhờ người nói với Phòng tổ chức của Phân viện đừng ưu ái tôi hơn người khác và họ đã thực hiện… hơi quá.
Là con của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, chúng tôi đã được sống trong hào quang của ông. Nhưng điều chúng tôi có thể làm, đó chính là sống sao để cho bản thân không phải chạy trốn hào quang của cha mình hoặc gục ngã trong chính hào quang ấy.
Sau hơn mười năm làm chuyên môn sinh học ở Phân viện Khoa học và Viện Cây có dầu, tôi chuyển về làm việc ở Phòng kỹ thuật IMEXCO. Khi con gái Xuân Hà của tôi đã tương đối lớn, tôi bỗng muốn được thử thách mình bằng việc chuyển sang một lĩnh vực mới hoàn toàn: làm doanh nghiệp may gia công xuất khẩu cho khách hàng Nhật Bản. Lúc đó, Nhật là thị trường duy nhất không cần quota, nghĩa là không cần tới ảnh hưởng của ba tôi khi ấy đã giữ trọng trách trong Chính phủ. Nghe tôi bày tỏ ý nguyện chuyển sang lĩnh vực doanh nghiệp, ba tôi chỉ nói đúng một câu: “Ba tin vào sự tự chịu trách nhiệm của con”. Từ ngày đó, ông không cần phải nhắc nhở tôi thêm lần nào nữa.
Gần 30 năm làm tổng giám đốc của một doanh nghiệp đa ngành: may mặc, gia công xuất khẩu, giáo dục và văn hóa giải trí, bất động sản nghỉ dưỡng… tôi đã luôn chăm chút xây dựng văn hóa doanh nghiệp cho đội ngũ nhân viên với các tiêu chí: chăm chỉ, tận tâm, trung thực và hiệu quả. Niềm tự hào nhỏ bé của tôi là nhân viên giỏi của công ty tôi chuyển đến nơi nào cũng được đánh giá cao và được phân bổ vào vị trí quản lý chủ chốt. Nếu có điều gì tôi luôn tự răn mình trong mấy chục năm dốc sức trên thương trường thì đó chính là: bản thân mình vốn không có tố chất làm doanh nhân, phải rèn luyện không ngừng để làm được công việc mình đã lựa chọn, ráng sống tử tế, kinh doanh tử tế, làm người tử tế. Bởi vì tôi biết, chỉ có làm được điều tự răn ấy tôi mới xứng đáng với mong đợi lặng lẽ của ba tôi.
Tôi và anh tôi không thể chối bỏ một thực tế (mà chối bỏ làm gì): là con của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, chúng tôi đã được sống trong hào quang của ông. Nhưng điều chúng tôi có thể làm, đó chính là sống sao để cho bản thân không phải chạy trốn hào quang của cha mình hoặc gục ngã trong chính hào quang ấy.
Đã mười năm nay tôi không còn được dựa vào vai ba tôi để khoe nho nhỏ với ông những gì tôi đã cố gắng đạt được trong cuộc sống và công việc. Mỗi khi nhớ ông, nhớ ghê gớm, tôi lại không cầm được nước mắt xúc động khi nhớ đến câu nói của chú Việt Phương: “Gần gũi anh Sáu Dân nhiều năm, chưa bao giờ tôi thấy anh Sáu có niềm vui rạng rỡ đến thế khi nghe tin con gái anh có kết quả xét nghiệm không phải K. Nét rạng rỡ đó ở anh mới con người làm sao, mới Dân làm sao”.
Ba ơi!…
Cha và con và… karaoke. Ảnh: TLGĐ
Nguyễn Thế Thanh (thực hiện)
‘Tục Ngữ Phong Dao’: Di Sản Văn Hóa Dân Gian Của Dân Tộc Việt
Bộ sách “Tục ngữ phong dao” dù ra đời đã lâu, đến nay vẫn được phổ biến rộng rãi, được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu và viết về tục ngữ ca dao Việt Nam.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội năm 1988: Tục ngữ là câu ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của nhân dân; phong dao là những bài ca dao cổ.
Những câu tục ngữ như “Tối như đêm ba mươi”, “Tiễn ông Táo lên chầu trời”, “No ba ngày tết, đói ba tháng hè”… đều đi sâu vào đời sống nhân dân, được truyền từ đời này sang đời khác. Cũng có nhiều câu nói dần bị mai một, rồi biến mất, đó là điều rất đáng tiếc.
Ý thức được việc gìn giữ di sản quý giá của dân gian, nhiều cuốn sách về tục ngữ phong dao đã được biên soạn, như An Nam phong thổ thoại của cụ Thiên Bản cư sĩ Trần Tất Văn; Thanh Hóa quan phong sử của cụ Vương Duy Trinh; Đại Nam quốc túy của cụ Sự Sự Trai Ngô Giáp Đậu; Tục ngữ An Nam của cụ Triệu Hoàng Hòa; Nam ngạn trích cẩm của Phạm Quang Sán; Gương phong tục của Đoàn Duy Bình; …
Tuy nhiên, những sách này được biên soạn hoặc không theo trật tự nào, hoặc đối nhau thì hai câu một, hoặc chia ra từng mục như trời đất, năm tháng, tiền của, văn học; hay từng thiên như Sơn Tây, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thừa Thiên; từng chương như Tống Sơn, Nga Sơn, Hoằng Mỹ, Hậu Lộc;… Trong thực trạng đó, Nguyễn Văn Ngọc vẫn ấp ủ và khao khát tập hợp di sản tục ngữ phong dao của Việt Nam thành một cuốn sách có hệ thống, có tác dụng lưu giữ cho tương lai.
Sách Tục ngữ phong dao được in lần đầu tiên tại Vĩnh Hưng Long thư quán, năm 1928. Cuốn sách tập hợp các sáng tác ca dao, tục ngữ, câu đố, câu đối…., được phân chia theo thể loại rõ ràng, mạch lạc. Trong mỗi thể loại, các bài lại được sắp xếp theo vần, trong mỗi vần lại được chia theo số chữ, vô cùng cẩn thận, tỉ mỉ, giúp độc giả dễ theo dõi.
Đầu năm 2019, cuốn sách được tái bản lại, với diện mạo mới, đồng thời bổ sung thêm những chú thích, dị bản, giúp độc giả có cái nhìn đa dạng hơn về một nền văn hóa dân gian đồ sộ của dân tộc.
Trong bản in mới, Tục ngữ phong dao được chia thành 2 tập. Tập 1 thuộc về thể phương ngôn, tục ngữ từ ba chữ đến hai mươi chữ; tập 2 thuộc về thể phong dao, từ bốn câu trở lên.
Tục ngữ phong dao có khoảng gần 6.500 câu và 850 bài, với gần 700 trang sách dày dặn, được xem là một kho vàng chung của nhân loại. Theo nhà nghiên cứu Lê Thanh Hiền, cuốn sách là “tập hợp đầu tiên những giá trị tinh thần do các thế hệ người lao động Việt Nam sáng tạo và truyền khẩu qua hàng nghìn năm, được sưu tầm, biên soạn nghiêm túc ấn thành văn bản”.
Việc tập hợp, biên soạn, hệ thống tục ngữ ca dao của Nguyễn Văn Ngọc, theo ông, “cốt ở một điều là cứ theo như cái phong trào có mới nới cũ ngày nay, ai là người đã lưu tâm đến quốc văn quốc túy mà không lo sợ rằng những câu lý thú tối cổ của ông cha để lại, mà tức là cái kho vàng chung cho cả nhân loại nếu không chịu mau mau thu nạp, giữ gìn lấy, thì rồi tất mỗi ngày một sai suyễn, lưu lạc đi thực rất là đáng tiếc. Cho nên chúng tôi quả không dám kén chọn lựa lọc, san Thi gì”.
Bởi kho tàng tục ngữ ca dao của dân tộc quá đồ sộ, đồng thời cũng có mong muốn tập hợp được càng nhiều càng tốt, nên ở cuốn sách, Nguyễn Văn Ngọc chú trọng và việc thu thập thật nhiều câu, có khi không phân biệt rõ ràng thế nào là thành ngữ, tục ngữ, lý ngữ, sấm ngữ, mê ngữ, phương ngôn, đồng dao, ca dao hay phong dao.
Tác giả cho rằng, “đối với công việc sưu tập bây giờ, thiết tưởng ta còn phải quý hồ đa trước rồi nhiên hậu mới có nơi khảo cứu mà quý hồ tinh được.”
Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục trong bài viết Triết học bình dân trong tục ngữ phong dao đã viết tục ngữ phong dao “phản chiếu một cách trực tiếp và trung thành những cảm nghĩ của nhân dân sinh sống hàng ngày trong nhân quần xã hội và tiếp xúc với cảnh vật trong hoàn cảnh thiên nhiên. Như vậy thì tục ngữ phong dao chứa đựng những kinh nghiệm thực tế, những lẽ phải phổ thông của dân tộc. Chúng còn có ý nghĩa hơn là ngôn ngữ nói chung, vì đó là những cảm nghĩ đã trải qua kinh nghiệm và suy luận của đại chúng. Nếu phân tích ngôn ngữ có thể tìm ra một triết lý bình dân Việt Nam, thì nghiên cứu tục ngữ phong dao càng làm cho ta thấy cái triết lý ở một trình độ cao hơn và phong phú hơn nhiều.”
Cũng bởi thế, việc sưu tầm, biên soạn và lưu giữ di sản tục ngữ phong dao của dân tộc là việc là có ý nghĩa quan trọng, “để vun trồng cho các học văn Việt Nam của tổ tiên xưa được chắc rễ, bền cây”, đồng thời góp phần phát triển ngôn ngữ Việt hiện đại đa dạng, phong phú.
Bộ sách Tục ngữ phong dao dù ra đời đã lâu, đến nay vẫn được phổ biến rộng rãi, được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu và viết về tục ngữ ca dao Việt Nam.
Nguyễn Văn Ngọc (1/3/1890 – 26/ 4 /1942) tự Ôn Như là nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam.
Nguyễn Văn Ngọc có lòng say mê đặc biệt với văn hóa, văn học phương Đông, nhất là văn hóa, văn học dân tộc. Ông cho ra đời nhiều cuốn sách bằng tiếng Hán, tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ. Ông tham gia biên soạn các sách giáo khoa như Phổ thông độc bản, Phổ thông độc bản lớp đồng ấu, Luân lý giáo khoa thư, Giáo khoa văn học An Nam, Đông Tây ngụ ngôn. Về khảo cứu, Nguyễn Văn Ngọc có Cổ học tinh hoa, Nam thi hợp tuyển, Đào nương ca, Truyện cổ nước Nam, Ngụ ngôn, Tục ngữ phong dao…
“Không Bao Giờ Cần Giải Thích” Và Câu Chuyện Của Cố Thủ Tướng Anh Winston Churchill
Winston Churchill đã từng nói thế này: “Bạn sẽ không bao giờ đạt đến đích, nếu bạn cứ dừng lại và ném đá vào mỗi con chó bên đường, chỉ vì tiếng sủa của chúng”. Hãy nhớ rằng, những kẻ mà bạn tìm tới để than phiền có mục tiêu và quan điểm sống khác hẳn so với những nhu cầu và ước muốn của bạn. Vì thế, đừng phán nàn với họ cho tốn thời gian.
“Không bao giờ cần giải thích” và câu chuyện của cố Thủ tướng Anh Winston Churchill
Wiston Churchill là Thủ tướng của Anh trong thời Thế chiến thứ II. Thời trẻ, ông được biết đến nhờ một câu chuyện có thông điệp “không bao giờ cần giải thích”
Khi mới tham gia trận mạc, do còn non kinh nghiệm nên Winston Churchill đã chỉ được cấp trên nhìn nhận và đối xử như một đứa trẻ vẫn còn nguyên “mùi hơi sữa”. Nhưng rồi một ngày, ông nhìn thấy cơ hội để có thể được cấp trên chú ý và được đối xử như một người lính dày dạn kinh nghiệm. Và ông đã quyết định thực hiện.
Đó là khi một lần, một phóng viên viết một bài báo chỉ trích những chiến dịch kém hiệu quả của quân đội Anh. Churchill biết rằng đại tướng và những sĩ quan khác được nói tới trong bài báo hẳn sẽ rất tức giận vì bài viết đó đưa ra những lập luận sai trái và thiếu công bằng với quân đội.
Tham mưu trưởng lập tức đã soạn một văn bản bác bỏ toàn bộ những chi tiết trong bài viết và đã chuẩn bị gửi nó cho tòa soạn. Ngay lúc đó, Churchill lên tiếng rằng không cần thiết phải làm như vậy, bởi lẽ một bài báo tồi tệ như thế chắc chắn sẽ không được duyệt để xuất bản:
“Không đáng một chút nào khi một sĩ quan cao cấp trong quân đội Anh, người lăn xả nơi chiến trường lại phải đi tranh đấu với báo chí và một tay phóng viên bị trục xuất. Việc này nên để lại cho cấp trên và các nhà chính trị. Dù cuộc tranh luận này chúng ta có nắm chắc phần thắng hoặc nó đi đến đâu chăng nữa, việc phơi bày ra chỉ thể hiện sự yếu đuối mà thôi” – Churchill nói.
Đó chính là một trong số nhiều lần mà Winston Churchchill “ghi điểm” trong mắt cấp trên và tỏ rõ mình là người biết nhìn xa trông rộng.
Vậy, vì sao thanh minh trong tình huống này lại thể hiện sự yếu đuối? Thanh minh cho việc mình làm chính là bạn đã trao sức mạnh vào tay kẻ khác.
Khi bất cứ ai chỉ trích hay xúc phạm bạn và bạn cảm thấy khó chịu trước việc đó thì việc bạn phản ứng giống như vị tham mưu trưởng ở trên là hoàn toàn tự nhiên. Nếu như người chỉ trích bạn đó là cấp trên hoặc là một vị khách hàng, bạn sẽ cần phải đưa ra một lời giải thích cho mình.
Tuy nhiên, nếu đó là một kẻ lạ mặt mà bạn không biết rõ (tay phóng viên trong tình huống trên chẳng hạn), thì phân trần là một quyết định “hớ”. Nếu cứ bận tâm đến suy nghĩ của những người không nằm trong danh sách “tôn trọng” của mình, bạn đang cho phép bản thân bị kéo xuống ngang hàng, thậm thí là thấp kém hơn người đó.
Vì thế, hãy cứ việc xem những người đang muốn bạn phải thanh mình với họ, đang thấy hả dạ vì chỉ trích được bạn là những kẻ ‘dở hơi’. Bạn đơn giản là không việc gì phải bận tâm đến họ. Còn với những người đưa ra lời chỉ trích thông thái, hợp tình hợp lý, thì việc lắng nghe và sửa đổi sẽ rất hữu ích.
Và cũng đừng kêu ca, phàn nàn
Winston Churchill cũng có một câu nói nổi tiếng: “Bạn sẽ không bao giờ đạt đến đích, nếu bạn cứ dừng lại và ném đá vào mỗi con chó bên đường, chỉ vì tiếng sủa của chúng”.
Churchill giơ biểu tượng chiến thắng (chữ V – Victory) sau khi thế chiến II kết thúc
Câu nói này giải thích cho thông điệp: Đừng kêu ca, phàn nàn với bất kỳ ai cả. Bạn chỉ cần đặt bản thân vào đúng vai trò của mình và hành động sao cho phù hợp là đủ.
Còn nếu như bạn lâm vào tình huống mà việc phàn nàn sẽ chỉ mang lại kết quả kém xa so với việc bạn tự mình cố gắng tạo nên những thay đổi, thì là đàn ông, bạn hãy lựa chọn hành động thay vì ở đó ngồi than vãn.
Còn nhớ, hồi còn làm Thủ tướng, Churchill chẳng cần phải phàn nàn nhiều về sự khó khăn không tưởng trong quá trình phá vỡ máy mật mã Enigma của quân đội Đức. Rút cục, một nhóm làm việc 4-5 người bao gồm cả thiên tài Alan Turing, với thời gian 2 năm tại khu quân sự Hub 8, đã rút cục làm nên chuyện.
Hãy nhớ rằng, những kẻ mà bạn tìm tới để than phiền có mục tiêu và quan điểm sống khác hẳn so với những nhu cầu và ước muốn của bạn. Vì thế, đừng phán nàn với họ cho tốn thời gian.
Tại trường Đại Học. khi một giáo sư nghiêm khắc cho một đề thi với những bài tập quá khó cho sinh viên, thì thường sẽ có hai luồng phản ứng dưới lớp:
Thứ nhất là nhóm sinh viên lười học, năng lực kém sẽ cho rằng: đây là một giáo sư tồi cho bài quá khó. Ông ta không để ý đến năng lực của đại đa số sinh viên gì cả.
Thứ hai là nhóm sinh viên chăm chỉ, năng lực tốt. Họ cho rằng: đây mới đúng là người thầy đáng mong đợi cho ra những bài tập mang tính thách thức cao, xứng đáng cho họ làm.
Chẳng có nhóm sinh viên nào nói sai ở quan điểm của mình. Một nhóm có thể phàn nàn với giáo sư còn một nhóm có thể vỗ tay tán thưởng giáo sư ngay trước lớp.
Tuy nhiên, vị giáo sư này có những nguyên tắc của riêng mình. Tại sao ông ấy lại phải bận tâm tới một nhóm người không có cùng mối bận tâm kêu ca với ông? Trong khi mục đích chung ở trường Đại học là giáo dục và nâng cao trình độ thì rõ ràng nhóm sinh viên “lười” đang lãng phí thời gian của bản thân vào việc… than vãn.
Hãy nhớ rằng, thế giới này tồn tại không chỉ để đáp ứng nhu cầu, kỳ vọng của riêng cá nhân nào hết.
Vì thế, đối với cá nhân mình, bạn chỉ có 2 việc mà thôi: Tiếp tục dùng thời gian quý báu của bản thân để lải nhải kêu ca; hoặc là tự thay đổi, làm những việc khiến bản thân cảm thấy vừa lòng hơn. Bạn chọn cách nào ?
Theo Trí Thức Trẻ
Cập nhật thông tin chi tiết về Hòa Hợp Dân Tộc Theo Tinh Thần Cố Thủ Tướng Chính Phủ Võ Văn Kiệt trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!