Xu Hướng 6/2023 # Người “Thà Làm Ma Nước Nam, Còn Hơn Làm Vương Đất Bắc” – Hoàng Thành Thăng Long # Top 8 View | Dtdecopark.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Người “Thà Làm Ma Nước Nam, Còn Hơn Làm Vương Đất Bắc” – Hoàng Thành Thăng Long # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết Người “Thà Làm Ma Nước Nam, Còn Hơn Làm Vương Đất Bắc” – Hoàng Thành Thăng Long được cập nhật mới nhất trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trong lịch sử nước Việt ta còn ghi lại rất nhiều câu nói bất hủ của các bậc anh hùng dân tộc, làm rạng danh nước nhà. Một trong những câu nói bất hủ phải kể đến là lời mắng: “Ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc” của danh tướng Trần Bình Trọng thời nhà Trần.

Trần Bình Trọng sinh năm Kỷ Mùi (1259), là người xã Bảo Thái (nay thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Ông vốn là hậu duệ của vua Lê Đại Hành. Do cha Trần Bình Trọng làm quan dưới triều Trần Thánh Tông lập được nhiều công trạng lớn, nên được nhà vua ân sủng ban cho quốc thích (cho mang theo họ vua). Bởi vậy, Trần Bình Trọng mới có họ Trần, thay vì mang họ Lê. Về chuyện này, sách Toàn thư, quyển V, kỷ Nhân Tông hoàng đế có đoạn viết: “Bình Trọng dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thụy Bảo, do ông cha làm quan đời Trần Thái Tông, nên được cho quốc tính nhà họ Trần”.

Trần Bình Trọng hiên ngang giữa trại giặc

Câu chuyện Trần Bình Trọng hy sinh oanh liệt sau lời mắng nhiếc lũ giặc ngoại xâm xảy ra dưới thời vua Trần Nhân Tông, trong cuộc chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2.

Bấy giờ, vua Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con, rút lui về “hậu trường” làm Thái thượng hoàng. Lấy cớ Trần Nhân Tông tự lên ngôi báu mà chưa được sự “cho phép” của hoàng đế Nguyên Mông, nhà Nguyên sai sứ là Sài Thung sang đòi Trần Nhân Tông phải đích thân sang thần phục. Tuy nhiên, vua Trần Nhân Tông quyết giữ quốc thể, lấy cớ thoái thác không sang, cử chú là Trần Di Ái sang thay. Vua Nguyên là Hốt Tất Liệt bèn phong Di Ái làm An Nam quốc vương, cử 1000 quân đưa Di Ái về làm vua An Nam. Tuy nhiên, âm mưu này bị Trần Nhân Tông dẹp tan. Hốt Tất Liệt tức giận bèn dụng mưu đánh chiếm nước ta. Cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông lần thứ 2 bắt đầu như vậy.

Quân Nguyên Mông ầm ầm kéo sang Đại Việt với 50 vạn quân do Thoát Hoan, con trai Hốt Tất Liệt, đích thân cầm đầu. Thế giặc mạnh nên quân đội nhà Trần liên tục bị đẩy lui. Tới khi giặc đánh tới gần thành Thăng Long, liệu thế không giữ được thành, nhà Trần dùng kế vườn không nhà trống, rút lui khỏi thành Thăng Long. Quân Nguyên Mông tràn được vào thành Thăng Long, nhưng chúng không thu được chiến lợi phẩm gì, đành kéo quân ráo riết truy đuổi Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông. Trần Bình Trọng được triều đình tin cẩn giao trọng trách chặn hướng truy đuổi của giặc tại vùng Đà Mạc – Thiên Mạc (nay thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) để đoàn quân nhà Trần rút lui an toàn và bí mật.

Do sự chênh lệch quá lớn về quân số, mũi quân đánh chặn của Trần Bình Trọng thất bại, Trần Bình Trọng bị bắt sống. Tuy nhiên, Trần Bình Trọng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cầm chân địch khi chúng hoàn toàn mất dấu vết nhà Trần sau trận đánh này.

Để moi móc thông tin, tướng giặc đã dùng mọi cách với Trần Bình Trọng, từ dọa dẫm tới mềm mỏng. Nhưng Trần Bình Trọng quyết không nói nửa lời. Cuối cùng, tướng giặc dụ dỗ sẽ xin phong vương nếu Trần Bình Trọng quy hàng, nhưng ông đã khảng khái thét mắng vào mặt chúng: “Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Lời thét mắng ấy thể hiện rõ quan điểm khẳng định Đại Việt là một nước độc lập và có ý coi thường triều đình phương Bắc khi ông chỉ gọi nhà Nguyên Mông là “đất Bắc”. Lời thét mắng ấy của Trần Bình Trọng khiến quân giặc giận tím mặt. Chúng giết ông ngay tức khắc. Sử sách còn ghi lại thời điểm ấy là tháng Chạp năm Ất Dậu (1285). Năm ấy, Trần Bình Trọng mới có 26 tuổi.

Nhờ sự chiến đấu anh dũng và sự hy sinh oanh liệt, thà chết chứ không chịu làm lộ thông tin quân sự của triều đình, của Trần Bình Trọng, triều đình nhà Trần mới có thời gian và điều kiện để chuẩn bị lực lượng phản công. Sau đó chỉ vài tháng, quan quân nhà Trần đã dốc toàn lực phản công, đập tan quân Nguyên Mông. Nhiều tướng giặc bị chém đầu tại trận, trong đó có Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán. Riêng Thoát Hoan hoảng sợ phải chui vào ống đồng để tránh tên bắn, bắt quân lính khiêng chạy chối chết về nước.

Cuộc chiến chống giặc Nguyên Mông lần thứ 2 thắng lợi ròn rã nhờ công đóng góp không nhỏ của Trần Bình Trọng. Bởi thế, khi xét công trạng, vua Nhân Tông đã truy phong ông là Bảo nghĩa vương.

Tưởng nhớ công ơn và cảm khí tiết của Bảo nghĩa vương Trần Bình Trọng, ngày nay, tên của ông được đặt cho nhiều đường, phố ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Riêng ở Hà Nội, tên của Trần Bình Trọng được đặt cho tuyến phố nối từ phố Trần Hưng Đạo tới phố Trần Nhân Tông – hai nhân vật anh hùng cùng thời với Trần Bình Trọng gắn liền với chiến thắng vang dội trong 2 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, lần thứ 2 và lần thứ 3.

Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long Hà Nội

35 Câu Nói Của Đức Đạt Lai Lạt Ma Có Thể Làm Cuộc Sống Ý Nghĩa Hơn

Vị Đạt Lai Lạt Ma hiện nay đã tại vị từ năm 1940 và là Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14. Với những đóng góp cho nhân loại, ngài đã nhận được giải Nobel Hòa bình năm 1989.

35 câu nói nổi tiếng của Đạt Lai Lạt Ma, thể hiện tri thức uyên thâm và tấm lòng bao dung cao cả của ngài.

1. ‘Nếu bạn nghĩ mình quá nhỏ bé để tạo nên một sự khác biệt, hãy thử ngủ với muỗi’.

2. ‘Hạnh phúc không tự nhiên mà có. Nó đến từ chính hành động của bạn’.

3. ‘Trong tình yêu không có sự phán xét’.

4. ‘Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là tình yêu thương’.

5. ‘Ở Tây Tạng có câu nói như thế này: ‘Bi kịch cần được tận dụng như là nguồn sức mạnh’. Dù bạn gặp phải khó khăn gì, dù nỗi đau ấy có lớn đến đâu, nếu chúng ta mất hy vọng thì đó mới là bi kịch thực sự’.

6. ‘Hãy nhớ mối quan hệ tốt đẹp nhất là khi tình yêu vượt qua nhu cầu’.

7. ‘Mỗi ngày, khi bạn thức dậy, hãy nghĩ rằng mình thật may mắn vì vẫn còn sống một cuộc sống quý giá của con người và mình sẽ không phí hoài nó.

Mình sẽ dùng toàn bộ năng lượng để phát triển bản thân, yêu thương mọi người và đạt được những thành tựu vì lợi ích của nhân loại.

Mình sẽ luôn nghĩ tốt về người khác và không nổi giận với họ. Mình sẽ cố gắng mang lại lợi ích cho người khác nhiều nhất có thể.’

8. ‘Sự im lặng đôi khi là câu trả lời tuyệt vời nhất.’

9. ‘Nắm rõ luật thì mới có thể phạm luật tốt được’.

10. ‘Hãy chọn cách lạc quan, như vậy bạn sẽ sống vui vẻ hơn’.

11. ‘Tình yêu và lòng trắc ẩn là những thứ tất yếu chứ không phải xa xỉ. Không có những điều này, nhân loại không thể tồn tại’.

12. ‘Mục đích chính của chúng ta trong đời là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không giúp được họ thì đừng hại họ.’

13. ‘Nếu một vấn đề có cách giải quyết, bạn không cần phải lo về nó. Nếu nó không có cách giải quyết, bạn lo cũng không làm được gì. Lo lắng chẳng có tác dụng gì cả’.

14. ‘Đây là thứ tôn giáo đơn giản của tôi. Không cần chùa chiền. Không cần triết lý phức tạp. Chùa chiền nằm trong tâm hồn và trái tim của bạn. Triết lý chỉ đơn giản là lòng tốt của bạn’

15. ‘Hãy đánh giá thành công bằng những gì bạn đã bỏ ra để đạt được nó’.

16. ‘Hãy nhớ, đôi khi không có thứ mình muốn cũng là một may mắn tuyệt vời’.

17. ‘Khi gặp bi kịch trong đời, chúng ta có thể đối mặt bằng hai cách – mất đi hy vọng và sa ngã vào những thói quen tự hại thân hoặc là dùng chính khó khăn này để tìm thấy sức mạnh ẩn sâu bên trong’.

18. ‘Người ta đi những con đường khác nhau để tìm kiếm thành công và hạnh phúc. Chỉ vì họ không đi con đường của bạn không có nghĩa là họ lạc lối’.

19. ‘Mục đích của tôn giáo là lan tỏa tình yêu, lòng trắc ẩn, tính kiên nhẫn, lòng bao dung, sự khiêm tốn và sự vị tha’.

20. ‘Nếu bạn có thái độ đúng đắn, kẻ thù của bạn chính là những người thầy tuyệt vời về tinh thần vì sự hiện diện của họ cho bạn cơ hội để học cách khoan dung, kiên nhẫn và cảm thông’.

21. ‘Tôi tin rằng sự thấu cảm là một trong số ít những điều giúp chúng ta có được hạnh phúc tức thì và lâu dài trong cuộc đời.

Tôi không nói đến những thứ mang lại niềm vui ngắn ngủi như tình dục, ma túy hoặc cờ bạc mà là những điều mang lại hạnh phúc đích thực và bên lâu.’

22. ‘Nếu bạn muốn người khác và bản thân mình được hạnh phúc, hãy học cách thấu hiểu’.

23. ‘Chỉ khi bạn biết thông cảm và yêu thương người khác thì bạn mới có được sự bình yên và hạnh phúc mà bạn đang tìm kiếm’.

24. ‘Hãy nhớ rằng tình yêu vĩ đại và thành công lớn lao đều gắn liền với rủi ro lớn không kém’.

25. ‘Hãy nhìn trẻ em mà xem. Bọn chúng có thể cãi cọ nhau nhưng không để bụng như người lớn.

Hầu hết người lớn đều có học vấn cao hơn trẻ em, nhưng học vấn cũng đâu ích gì khi người lớn cười thật tươi để che giấu những cảm xúc tiêu cực bên trong?

Trẻ con không cư xư như vậy. Nếu chúng tức giận với ai đó, chúng sẽ thể hiện ra và thế là xong. Chúng vẫn có thể tiếp tục chơi đùa với người kia ngay ngày hôm sau’.

26. ‘Chỉ có một điều quan trọng duy nhất bạn cần ghi nhớ và để nó dẫn lối bạn. Dù người ta có gọi bạn là gì, bạn vẫn là chính mình. Hãy coi đó là sự thật duy nhất.

Bạn phải hỏi bản thân mình muốn sống như thế nào. Ai rồi cũng sẽ chết đi, đây là sự thật mà chúng ta phải đối mặt một mình.

Không ai có thể giúp được ta, kể cả Đức Phật. Vì thế hãy suy nghĩ thật kỹ, điều gì ngăn trở bạn được sống như cách mình mong muốn?’

27. ‘Mọi nỗi khổ đau đều là do thiếu hiểu biết mà ra. Người ta gây ra đau khổ cho nhau để đạt được hạnh phúc và sự thỏa mãn cho chính mình’.

28. ‘Nếu động lực cho hành động của bạn là tình yêu, bạn sẽ thấy mình tự do và không sợ hãi’.

29. ‘Chúng ta có thể sống thiếu tôn giáo và thiền tập nhưng không thể thiếu tình yêu thương giữa con người’.

‘Trong việc rèn luyện lòng bao dung, kẻ thù là người thầy tốt nhất’.

30. ‘Bạn cũ ra đi, bạn mới xuất hiện. Cũng giống như ngày tháng vậy. Ngày cũ trôi qua, ngày mới lại đến. Điều quan trọng là làm sao để có một người bạn ý nghĩa hoặc một ngày ý nghĩa’.

31. ‘Khi bạn nhận ra mình đã mắc lỗi, hãy ngay lập tức sửa sai’.

32. ‘Hãy luôn sống tử tế.’

33. ‘Một người bạn tốt chỉ ra sai lầm cũng như khuyết điểm của bạn và điều này đáng quý trọng như việc họ tiết lộ bí mật kho báu cho bạn’.

34. ‘Cách để thay đổi suy nghĩ của người khác là bằng tình yêu thương chứ không phải sự tức giận’.

35. ‘Tôi đánh bại kẻ thù bằng cách biến họ thành bạn bè’.

(Nguồn: Gia đình mới)

Bắc Ninh Đất Miền Cổ Tích

 

Đất Miền Cổ Tích

Chúng tôi qua cầu sông Cái, đi thẳng đến Phú Thượng rồi rẽ sang phía tay phải chừng 200 mét là đến Dương Xá (nay thuộc Hà Nôị). Nơi đây có đền thờ Nhiếp Chính ỷ Lan. Giữa những mảnh ruộng xanh với đủ gấm mầu khác nhau. Ngôi đền thờ một người phụ nữ phi thường, nổi bật lên, nghiêm trang những rêu phong cái kiểu: “Miếu cổ vàng son nhạt”. Đó là nói về mầu sắc, chứ những gì mà bà để lại cho đất nước vẫn cứ đằm thắm với non sông và lòng người. Bà là hóa thân của Mẫu Thượng Ngàn của bà Man Nương, bà Trưng… Đến Sủi, đi vào quê hương của nhà thơ Cao Bá Quát. Đi tiếp chừng 7 km nữa, chúng tôi đến cầu Dâu. Một cái cầu rất cổ.

 Nơi đây, chúng tôi ngắm mãi chỗ sông Đuống cắt ngang sông Dâu để hình thành một bên là Thiên Đức, một bên là Nguyệt Đức. Nơi đây… một cái cây, một dãy gò, một mô đất, đống gạch vụn, ngôi đền v.v… đều có những chuyện kể về mình. Trước mắt chúng tôi là cả một khu vực thành Dâu (Bắc Ninh) với hình vuông mênh mông. Tên chính thức của nó là Luy Lâu hoặc Liên Lâu. Vì khi xưa, thành chính có những vọng gác mà ở tầng trên tỏa ra như những cánh hoa sen, nên thường gọi là Liên Lâu. Hoa sen tượng trưng cho sự phồn. Phồn thóc gạo, phồn giống nòi. Sông Dâu chảy quanh tạo thành con hào thiên nhiên, bảo vệ thành. Xưa kia, khi đê La Thành và Thăng Long chưa hình thành mà mới chỉ là những vùng nước, lau lách, hoang vu thì nơi đây đã là một thành trấn phồn hoa, nhộn nhịp. Đây chính là thủ phủ của đất Giao Châu, là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa. Đại bản do anh của Thái thú Tô Định đặt ở đây. Hai Bà Trưng đã đánh vào nơi này. Trong suốt thời kỳ dài, quân Hán đóng quân ở Liên Lâu, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa liên tục đốt phá, đánh thành. Nghĩa là binh lửa liên miên. Chính điều này đã giải thích được một hiện tượng đáng chú ý. Đó là những vùng đất chung quanh đều đỏ như son. Duy chỉ có khu vực Thành Liên Lâu, đất có màu đen, xám, xỉn. Đất đỏ vì phía dưới có quặng sắt. Còn đất đen là do binh lửa triền miên, đốt phá dữ dội, đã làm than hóa tất cả những sỏi, đá, đất, gỗ, tre, v.v.. Hiện tượng than hóa này đã làm cho đất Thành Liên Lâu không đỏ như đáng lẽ nó phải đỏ. Thật là: “Dấu binh lửa, nước non như cũ”. Khiến cho người thấy cảnh chạnh lòng về vùng Dâu.

Đứng bên Thành, tôi bỗng nhớ đến một buổi đi xem hát cải lương cùng với nhà văn Nguyên Hồng. Tối hôm đó, chị Lệ Thanh đóng vai Trưng Trắc trong vở “Trưng Vương”. Chị vận võ phục có cách điệu. Trông vô cùng uy nghi và lộng lẫy. Mắt phượng, mày ngài, chị diễn có thần và hát rất hay. Nhà văn Nguyên Hồng khóc lên rưng rức và xuýt xoa: “Hay quá, đẹp quá!…”. Trong cuốn: “Viết về lịch sử đất An Nam”, nhà nghiên cứu Patris viết: “Tinh thần độc lập của người Lạc Việt rất cao. Suốt trong thời kỳ bị đô hộ dài dặc, họ không hề sao nhãng việc đứng dậy. Đó là một thứ ánh sáng chói lọi của ý chí quật cường không nguôi”. Trong khu vực Thành Dâu, có chợ Dâu, tháp Dâu. Tháp này 4 tầng, có chóp kiểu Stupa, cao chừng 20 mét, và chùa Dâu. Chùa Dâu phản ánh những nét của đạo Phật từ ấn Độ sang và được bản địa hóa. Nơi đây là trung tâm Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam rồi mới tỏa đi khắp nơi. Cũng là nơi in những bản kinh sớm nhất. Tục truyền, một cây đa thần thoại trôi dưới sông, được bàn tay thần thoại của á Nam Tiên nữ (Man Nương) vớt lên. Khi cây đa được đặt lên mặt đất thì tiên nữ đã biến mất, đã “hạc nội mây ngàn”. Cây đa được xẻ ra, tạc thành 4 pho tượng để thờ. Đó là 4 vị Phật Mẫu gồm 4 chị em: Phật Vân, Phật Vũ, Phật Lôi, Phật Điện (cũng gọi là tứ Pháp). Chị cả được thờ tại Chùa Dâu, chị hai ở Chùa Đậu, chị Ba thì ở Chùa Tướng và cô em út được thờ ở Chùa Dàn. Mấy ngôi chùa này ở gần nhau. Có điều, chùa Dâu là chùa chính, nguy nga nhất. Tượng bà Dâu đặt ở chính giữa chùa chính, cao 2m85 (cả tượng lẫn bệ). Lại có nền cao và vỉa đá. Tễợng bà to hơn so với tất cả những pho tễợng khác trong chùa. Bà vừa là Phật, vừa là nữ chúa bản địa. Nơi đây, hàng năm có mở hội. Gọi là chùa Dâu, khắp nơi nô nức về dự hội. Có tế lễ, rước xách, vui chơi, rất tễng bừng, náo nhiệt. Người ta kể vè:  

Dù ai buôn bán trăm nghề Tháng tư, mồng tám thì về chùa Dâu. Dù ai buôn đâu, bán đâu Nhớ ngày mồng tám, hội Dâu thì về…

Cách khu vực thành Liên Lâu chừng 3 km là lăng mộ Lạc Long Quân, là cả một tòa Việt điện. Đi chừng một đoạn đường nữa, rẽ sang bên trái là lăng Sĩ Nhiếp hình tròn trên một cái gò rợp bóng những cổ thụ. Những gò, đống nhấp nhô kéo lên. Dưới những gò đống đó là cơ quan những ngôi mộ Hán. Nơi đây thuộc về làng á Lữ. ở ngã ba Đông Côi cũng có nhiều ngôi mộ Hán có xây những vòng cuốn. Đứng nơi đây, ta có thể nhìn thấy núi Thiên Thai “nằm nghiêng nghiêng với mái tóc xanh rêu”. Chúng tôi đi chừng hơn 2km nữa về phía Đông Bắc, đến làng Đại Trạch có ngôi chùa Đại Trạch nổi tiếng, là nơi trước đây vợ thứ ba Cai Vàng đến tu và trụ trì sau khi làm cuộc khởi ngh ĩa thất bại. Bà thông thuộc 18 môn võ nghệ, đã dạy võ cho các trai làng và làm nhiều điều thiện, trừ kẻ gian ác. Cuộc đời của bà đủ để viết nên môt pho sách bi hùng. Dân làng nơi đây coi bà như tiên, như Phật. Từ Đại Trạch đi xuống phía nam là đến bến Hồ, gối đầu lên sông Cầu. ở đây có làng tranh Đông Hồ mà những bức tranh đậm đà tâm hồn dân tộc của nó đã có mặt ở nhiều gia đình trong nước và chúng cũng được trưng bày trong Bảo tàng Mỹ thuật của nhiều nước trên thế giới. Làng Đông Hồ được gọi là làng tranh, làng đẹp như tranh và cũng được gọi là làng các nghệ nhân. Họ vẽ tranh, khắc tranh, in tranh. Lại còn làm nghề vàng, mã và những mặt hàng trang trí mỹ thuật mang lại thao thức cho nghiều người. Ngược lên phía trên, ta chạm phải đất Lim và 49 làng Quan họ. Nơi mà một làn gió cũng mang điệu dân ca. Với nhữ ng “liền anh, liền chị” ăn mặc xông xênh, trèo lên quán Giốc, đi trẩy hội. Từ Đại Trạch đi ngược lên là đến Trí Quả, rồi đến làng Đình Tổ có chùa Bút Tháp, và đền Đô Vàng son lấp lánh, nơi thờ 8 vị vua Lý. Lý Chiêu Hoàng được thờ riêng ở ngôi đền bênh cạnh. Bà mang một nỗi buồn nguyên khối, không tan. Chính cái dải đất này đã nuôi dưỡng nhà thơ Hoàng Cầm để có được: “Bên kia sông Đuống” “Mưa Thuận Thành”, “Cây bài tam cúc” nổi tiếng.

Chúng tôi nhớ lại một thời vào những năm chống Pháp, khu vực gần Bút Tháp, Rừng Thông, Bãi Tháp v.v.. là khu những du kích nổi tiếng với những chiến công oanh liệt. ở những làng quê nơi đây còn thấp thoáng những tập tục đáng chú ý. Có tục “Ngủ bạn”. Nó là chuyện trong ngày cưới, cô dâu và chú rể chưa động phòng vội. Ngày thứ nhất và ngày thứ hai, cô dâu còn gọi mấy người bạn thân đến ngủ cùng với mình. Nơi đây, họ coi nhẹ trường hợp có cô gái chửa bụa. Sau khi cô gái chửa bụa rồi sinh con được một hoặc hai năm, sẽ có một chàng trai nào đó đến xin cưới làm vợ. Mẹ chú rể mang lễ vật đến nhà gái và nói xanh rờn: “Ngày lành tháng tốt, chúng tôi rất sung sướng được có con dâu và có luôn cả thằng cu nữa”. Khi có trường hợp một đứa trẻ nào đó ở vào hoàn cảnh thập tử nhất sinh mà có được một người nào cứu sống thì đứa trẻ đó nhận người cứu mạng làm cha nuôi. Những ngày giỗ, tết phải đến thăm cha mẹ nuôi, phải đóng góp và có nhiệm vụ nhễ con đẻ. Đó là hình ảnh và dễ vị của thời mẫu hệ xa xôi. Những chuyện như vậy còn rất nhiều.

Chúng tôi cũng theo dõi trong tâm tưởng khi đi trên con đường cổ từ bến hồ, đi Bắc Ninh, tới Phả Lại, Lục Đầu giang rồi ra biển hoặc đi ngược lên phía bắc, sang Trung Quốc… Đó là con đường mà các nhà sư ấn Độ đi từ chùa Dâu sang Trung Quốc truyền đạo. Là con đường mà con trâu vàng từ Trâu Sơn, giếng Việc ở Phả Lại đã chạy một mạch về Tống Bình (tên xưa của Thăng Long) rồi đẫm mình nơi vũng nước ở phía Tây Bắc, làm nên hồ Trâu Đằm và sau được gọi là hồ Dâm Đàm hoặc hồ Tây. Đó là con đường để cha ông cha ta đánh giặc Nguyên, Mông…

Khách hành hương tới mảnh đất này thấy mình được lớn lên. Chỗ nào cũng có những di tích, tín hiệu, huyền thoại v.v… minh chứng cho sự tồn tại hào hùng của dân tộc. Chúng ta chắt lại những mảnh vụn lịch sử để phần nào phục hồi lại chút ít nguyên mẫu mà suy ngẫm về những bí ẩn của quá khứ, phục vụ cho hiện tại và mai sau. Mùa xuân đã đến và mùa xuân đã qua. Nhưng dẫu vậy thành Dâu vẫn đượm mầu cổ tích.

Lý khắc Cung (Trích từ bacninh.gov.vn)

LỊCH SỬ

 

Vài nét về lịch sử tỉnh Bắc Ninh  

 Trích từ: bacninh.gov.vn

Dưới các triều đại phong kiến trước đây, tỉnh Bắc Ninh được gọi là Kinh Bắc mà lịch sử đã để lại những di sản văn hoá truyền thống phong phú về mặt vật thể và phi vật thể với hệ thống thành quách ở thị xã Bắc Ninh, phòng tuyến sông Cầu (sông Như Nguyệt) nổi tiếng thời Lý chống lại các thế lực ngoại bang phương Bắc, hệ thống các đền chùa, miếu mạo ở các vùng Từ Sơn, Bắc Ninh – Thị Cầu, Dâu Keo … và đặc biệt là hát dân ca quan họ nổi tiếng cùng các lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc như hội Lim, Đình Bảng …

 

– Từ năm 1822 xứ Kinh Bắc được nhà Nguyễn đổi tên gọi thành tỉnh Bắc Ninh, sau 2 năm trấn thành Bắc Ninh, thuộc thị xã Bắc Ninh ngày nay, được xây dựng lại bằng đá ong và hiện diện vị thế của mình bằng cột cờ cao 17m. 

– Dưới thời Pháp thuộc vào năm 1931 thị trấn Bắc Ninh được đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Thị xã Bắc Ninh được tổ chức thành một cứ điểm trọng yếu về quân sự của Bắc Kỳ và là một trung tâm chính trị, kinh tế vùng.

– Năm 1938 thị xã Bắc Ninh được xếp vào thành phố thứ 5 của xứ Bắc Kỳ sau các đô thị: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Nam Định và thị xã Hải Dương.

 

– Sau hoà bình lập lại năm 1954, tỉnh Bắc Ninh nói chung và thị xã Bắc Ninh nói riêng tiếp tục duy trì sự phát triển kinh tế suốt quá trình xây dựng chính quyền nhân dân và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc

– Vào năm 1963 tỉnh Bắc Ninh được sát nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Mặc dù không còn vị trí tỉnh lỵ như trước đây (lúc đó Bắc Giang trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới sát nhập), nhưng thị xã Bắc Ninh vẫn là một trung tâm kinh tế – xã hội quan trọng của Hà Bắc, nhất là trong mối quan hệ giao lưu với thủ đô Hà Nội.

– Đến năm 1996 tỉnh Hà Bắc lại được chia lại thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 (ngày 15 – 11 – 1996). Từ đó thị xã Bắc Ninh lại trở thành thị xã của tỉnh Bắc Ninh mới.

Từ đó đến nay Bắc Ninh đã phát triển không ngừng bộ mặt đô thị hoá của tỉnh mà tiêu biểu là việc xây dựng mới:

Khu vực hành chính và các khu dân cư mới ở thị xã Bắc Ninh.

Cải tạo và phát triển mạnh bộ mặt trung tâm của các thị trấn huyện lỵ, nhất là thị trấn Từ Sơn.

Đang hình thành và phát triển một số khu công nghiệp tập trung quan trọng như khu công nghiệp Từ Sơn, Quế Võ.

Hệ thống kỹ thuật hạ tầng được cải tạo và nâng cấp đáng kể nhất là QL 1A, QL 1B, QL 18, QL 38, và 11 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dải trên 350 km. Các hệ thống hạ tầng kỹ thuật cấp nước, cấp điện cũng được đầu tư đáng kể.

Hệ thống di tích lịch sử văn hoá lâu đời của xứ Kinh Bắc xưa nhất loạt đã được khôi phục, bảo tồn và phát triển có hiệu quả thu hút khách du lịch thập phương.

Ngoài ra với hàng trăm ngành nghề khác nhau của tỉnh Bắc Ninh cũng được khuyến khích phát triển tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển nhiều thi tứ trên sông Dân, ở Đông Hồ, Đình Bảng, Đa Hội, Tương Giang, Phù Khê, Nội Duệ…

 

 

 

Nơi sinh thành dân tộc và nên tảng văn hiến Việt Nam 

 

         Bắc Ninh ? Kinh Bắc xưa là vùng đất phía bắc của kinh thành Thăng Long ? Đông Đô ? Hà Nội ngày nay, là vùng đất trung tâm của châu thố sông Hồng. Bắc Ninh còn là nơi gặp gỡ, giao hội của các mạch giao thông thuỷ, bộ tạo cho xứ Bắc sớm trở thành trung tâm kinh tế – văn hoá với một vị trí đặc biệt trong lịch sử dân tộc và văn hoá Việt Nam.

         Qua các kết quả nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu khảo cổ học ở Bắc Ninh cho thấy, đây là địa bàn cư trú của người Việt cổ, đồng thời là bộ phận cốt lõi của quốc gia Văn Lang ? Âu Lạc.

           Từ mấy nghìn năm trước người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở ven sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Vương,… sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp kết hợp làm nghệ thủ công. Hàng loạt di vật như trống đồng, dao găm, rìu, giáo, tấm che ngực, mảnh giáp,… bằng đồng với những hoa văn độc đáo được tìm thấy ở các di tích Lăng Ngâm, Đại Trạch, Quả Cảm, Đại Lai,… mảnh khuôn đúc trống đồng trong thành cổ Luy Lâu đã chứng tỏ người xứ Bắc rất tinh xảo trong nghề đúc đồng, chế tác các đồ trang sức, làm gốm,…

            Cũng trên mảnh đất này, những giá trị tinh thần, tư tưởng được phản ánh qua các huyền thoại ?ông Đùng, bà Đùng?, ?ông khổng lồ cắn nát núi, hút sạch rừng, băng ngang lũ?, về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, An Dương Vương, Mỵ Châu – Trọng Thuỷ và thành cổ Loa,… Cùng với huyền thoại truyền thuyết là đậm đặc các di tích tiêu biểu như lăng mộ Kinh Dương Vương, các đền thờ Lạc Long Quân ? Âu Cơ, đền thờ Phù Đổng Thiên Vương ở Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên Du,…đều được lưu giữ trong lòng đất lòng người vùng quê xứ Bắc – Bắc Ninh. Đây chính là sự minh chứng hùng hồn cho sự phong phú đa dạng và tiêu biểu hơn bất cứ đị a phương nào trên mảnh đất Việt ngàn năm văn hiến.

 

Trung tâm chống xâm lược và chống đồng hoá, bảo tồn phát triển văn hoá dân

tộc

.

  

Khu di tích Luy Lâu rộng hàng trăm hécta với hệ thống các công trình thành luỹ, đền chùa, phố xá, chợ, bến, kho tàng, dinh thự, các khu sản xuất gạch ngói, các làng nông nghiệp, làng thợ, làng buôn, khu môn địa,… còn là khu di tích thời Bắc thuộc lớn nhất Việt Nam hiện nay.

           Thủ phủ Luy Lâu (tức Long Biên) là nơi ghi dấu những chiến tích hào hùng chống quân xâm lược phương Bắc. Cho đến ngày nay, hệ thống các đền thờ tướng lĩnh ở đây và những lễ hội mừng chiến thắng mùa xuân vẫn được duy trì và tổ chức hàng năm ở trung tâm Luy Lâu càng khẳng định Bắc Ninh xưa là trung tâm của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.

            Không những thế, qua các tài liệu thư tịch và di khảo cổ còn cho thấy Luy Lâu đã từng là đô thị lớn, là trung tâm thương mại mang tính quốc tế: ?Trên đất Giao Chỉ, trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ IX-X, Luy Lâu không nhường vai trò đô thị lớn nhất cho bất cứ nơi nào?. Xung quanh Luy Lâu là các làng nông nghiệp, làng thủ công, làng buôn bán phát triển mạnh mẽ. Luy Lâu là một đô thị mang tính buôn bán quốc tế, các hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá ở Luy Lâu thời Bắc thuộc rất nhộn nhịp và sầm uất.

            Cùng với quá trình giao lưu, hội nhập và trao đổi kinh tế là quá trình tiếp xúc, hội nhập văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo giữa Việt Nam và các nước trong khu vực mà trung tâm cũng vẫn là Luy Lâu. Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán Đường đã được truyền bá liên tục vào nước ta. Bắc Ninh với trung tân Luy Lâu là nơi đầu tiên có trường dạy chữ và văn hoá Hán ở Việt Nam.

            Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của người Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm đặc ở đây với trung tâm là chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu như tượng pháp , bia ký, bản khắc ?Cổ Châu Pháp Vân vật bán hanh? và lễ hội chùa Dâu – lễ hội Phật giáo lớn nhất trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ Tân Phật, rước Tứ Pháp, rước nước đã chứng tỏ Luy Lâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam.

            Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng đã nhận xét: ?Xứ Bắc với đô thị cổ Long Biên ? Luy Lâu là không gian điển hình đan xen, hỗn dung tiếp xúc, biến đổi hội tụ và kết tinh văn hoá Việt Nam cổ với văn hoá Phật – Ấn, Nam Á và Trung Á, văn hoá Nho Lão (Trung Hoa ? Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc văn hoá Kinh Việt.

 

Vùng đất tiêu biểu của nền văn hiến và nhân cách Việt Nam.

 

            Bước vào kỷ nguyên Đại Việt, Bắc Ninh trở thành phên dậu phía Bắc của kinh thành Đông  Đô ? Thăng Long ? Hà Nội. Nơi đây tiếp tục giữ vai trò quan trọng đặc biệt trong công cuộc bảo vệ đất nước và phát triển văn hoá Việt Nam. 

Miền quê ?địa linh? này là đất phatsb tích nhà Lý – triều đại khai mở ra nền văn minh Đại Việt gắn liền với tên tuổi của những nhân vật lịc sử – văn hoá kiệt xuất như: Lý Công Uẩn, Lý Nhân Tông, Nguyên Phi Ỷ Lan, Lê Văn Thịnh. Đây là nơi vang vọng bài thơ ?Nam quốc sơn hà? – bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.  

                       Ngoài ra nơi đây cũng là vùng quê trù phú, kinh tế phát triển, là vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ. Ít nơi nào có nhiều làng nghề nổi tiếng như tỉnh Bắc Ninh: gốm sứ (Phù Lãng, Thổ Hà), gò đúc đồng (Đại Bái), rèn sắt (Đa Hội), chạm khắc (Phù Khê, Kim Thiều), sơn mài (Đình Bảng), ?mộc Choã, ngoã Viềng?, cày bừa (Đông Xuất), giấy dó (Đống Cao), tranh điệp (Đông Hồ), dệt lụa (Tam Sơn, Cẩm Giàng),…

            Người Bắc Ninh không chỉ giỏi làm ruộng mà còn khéo tay, tinh xảo, hoạt bát trong giao thương, buôn bán và nhất là lại thông minh hiếu học. Ngoa truyền dân gian về đất này quả là có cơ sở: ?Một giỏ sinh đồ, một bồ tiến sỹ, một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn?. Đây là quê hương của vị Trạng nguyên Lê Văn Thịnh – vị trạng nguyên khai khoa mở đầu cho lịch sử khoa cử Việt Nam. Có vùng như huyện Đông Ngàn thông minh hơn người (dốt Đông Ngàn hơn người ngoan thiên hạ), có làng như Tam Sơn – địa phương duy nhất cả nước có đủ tam khôi với 22 vị đại khoa (tiến sỹ) trong đó có hai trạng nguyên.

            Nơi đây còn nổi tiếng với trung tâm phật giáo và những ngôi chùa có quy mô to lớn, cổ kính, kiến trusc tạo tác rất công phu, tài nghệ như chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm, chùa Bút Tháp, chùa Tiêu Sơn, Cổ Pháp,… Đây là những danh lam cổ tự nổi tiếng, ngày nay đã trở thành những di sản kiến trúc tiêu biểu của dân tộc ta.

            Nơi đây còn được mệnh danh là vương quốc của lễ hội, chủ yếu là hội chùa, hội đền. Trong đó có những lễ hội lớn, nổi tiếng cả vùng và cả nước như hội Gióng (9-4), hội Dâu (8-4), hội đền Đô, hội Lim, hội Chùa Phật Tích…

            Về ăn mặc dân Kinh Bắc ưa sang trọng nhưng nền nã: nam khăn xếp, áo the, ô lục soạn; nữ áo mớ ba, mớ bảy, nón quai thao. Xứ bắc có nhiều làng nghề nghệ thuật như làng tranh Đông Hồ, làng hát ca trù Thanh Tương, làng rối nước Đồng Kỵ, Bùi Xá, Đa Hội, Tam Lư, Tấn Bảo,…và đặc biệt hơn cả là hệ thống 49 làng chơi quan họ, một lối chơi, một sin hoạt văn hoá tinh tường, độc đáo, đạt tới đỉnh cao của thi ca và âm nhạc mà chỉ người Bắc Ninh mới có.

Làm Gì Sau Khi Chia Tay Mà Cả Hai Vẫn Còn Yêu Nhiều?

Đã từng vốn dĩ chỉ đơn giản là hai từ riêng biệt được gắn ghép cho thành một nghĩa thật đúng, nhưng học được cách chấp nhận và đi qua nó là một khoảng chênh vênh. Cứ thế lại bào mòn đến kiệt khô để trơ ra đó một nỗi buồn héo hắt. Thế nên, với không ít người sau khi đã tiễn một người ra khỏi những thói quen yêu thương thì luôn tồn tại trong lòng mình câu hỏi làm gì sau khi chia tay mà cả hai vẫn còn yêu nhiều hay chia tay mà vẫn còn yêu thì phải làm sao… với những gì mà bài viết sau đây đề câp mong rằng bạn, những cá thể đang mất dần cảm xúc yêu thương sẽ tìm được cho mình một màu xanh tươi tắn mới của cuộc sống.

Có thể bạn đang quan tâm: tâm lý đàn ông khi yêu thật lòng – làm gì khi chàng không trả lời tin nhắn – những câu nói hay về tình yêu khi chia tay – những câu nói khiến chàng yêu mình hơn

Làm gì sau khi chia tay mà cả hai vẫn còn yêu nhiều?

#1. Bộc lộ cảm xúc chân thật

Không nên giả vờ rằng bạn đang rất ổn với mọi người xung quanh và đặc biệt là với chính bản thân mình, việc bộc lộ cảm xúc chân thành của mình sau khi chia tay chính là liều thuốc có tác dụng tích cực giúp bạn giải tỏa được những nổi buồn, đau khổ khi mất đi một người mà mình tưởng chừng là cả thế giới. Hãy khóc thật to và làm những điều mình muốn để có thể dẹp bỏ những u sầu của những ngày thất tình.

#2. Xem xét các dòng tâm trạng của mình

Hãy viết ra giấy những cảm xúc của mình hậu chia tay và cố gắng giải đáp những thắc mắc của bản thân thay vì việc dằn vặt tại sao vẫn còn yêu mà lại xa nhau. Việc chia tay khi còn yêu không phải là vấn đề quá to tát, nó chỉ thực sự nghiêm trọng khi bạn không thể vựt dậy tinh thần sau khi thay thế việc có một ai đó kề bên bằng việc cô đơn sáng tối.

Chắc chắn rằng sau khi chia tay bạn sẽ rơi vào trạng thái cô lập mặc dù trước hay sau đó bạn chỉ có bao nhiêu mối quan hệ. Hãy tìm kiếm cho mình sự giúp đỡ từ bạn bè và người thân dù đó chỉ là những lời động viên đơn giản, những buổi gặp gỡ như thường lệ… cũng có tác dụng làm bạn nhanh chóng lấy lại cho mình thăng bằng hơn sau một vết thương lòng từ việc chia tay khi vẫn còn yêu thương người ấy.

#4. Tin tưởng vào một tương lai tươi sáng

Người ta sẽ dễ dàng tìm thấy mối tình đầu của đời mình trong một phút giây nào đó, của ánh mắt bối rối trộm nhìn nhau, cái nắm tay hững hờ, e thẹn và có khi đó lại là một nụ hôn đầu khó phai. Những kỷ niệm của mối tình mới đây bao giờ cũng đẹp nó để lại cho bạn tất cả những mông lung về một khung trời ký ức màu hồng, liệu rằng đường đời chỉ pha bởi một gam màu tươi sáng. Khi bước đến những mối tình tiếp theo trong bạn sẽ thật sự trưởng thành và chín chắn hơn so với sự vụng dại, ngây thơ của một mối tình đầu, ở nay ấy vào một ngày nào đó không xa bạn sẽ vô tình bắt gặp “tình cuối”.

Chia tay là một kết thúc buồn của một chuyện tình và nỗi đau ấy sẽ bị nâng cao gấp bội khi cuộc tình vẫn đang nồng ấm, người lại ngoảnh mặt, quay lưng và bỏ đi với vô vàn kỷ niệm ngổn ngang. Thế nhưng, thay vì nhanh chóng tìm kiếm một bóng hình mới hay trở về với người cũ thì bạn nên trang bị cho mình những bí quyết hữu ích nhất như được chia sẻ trong bài viết làm gì sau khi chia tay mà vẫn còn yêu như trên, mong rằng những ai đang đắm mình trong nước mắt và buồn đau của những ngày mới chia tay hoặc nhiều năm liền chưa thể quên được người cũ sẽ có được cho mình những bài học quý giá nhất.

Cập nhật thông tin chi tiết về Người “Thà Làm Ma Nước Nam, Còn Hơn Làm Vương Đất Bắc” – Hoàng Thành Thăng Long trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!