Xu Hướng 6/2023 # Nhà Thơ Nguyễn Đình Chiểu Và Những Bài Thơ Đặc Sắc Nhất Phần Cuối # Top 10 View | Dtdecopark.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Nhà Thơ Nguyễn Đình Chiểu Và Những Bài Thơ Đặc Sắc Nhất Phần Cuối # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Nhà Thơ Nguyễn Đình Chiểu Và Những Bài Thơ Đặc Sắc Nhất Phần Cuối được cập nhật mới nhất trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nội Dung

Trời mưa từng trận gió từng hồi, Thế giới bao nhiêu nước khỏa rồi. Lũ kiến bất tài đòi chỗ bợ, Đấu bèo vô dụng kết bè trôi. Lao xao rừng cụm nghe chim chíp, Lổm xổm giường cao thấy chó ngồi. Nỡ để dân đen trên gác yếu, Này ông Hạ Vũ ở đâu ôi!

Ba vua năm đế dấu vừa qua, Nối đạo trời rao đức thánh ta. Hai chữ can thường dằn các nước, Một câu trung hiếu dựng muôn nhà. Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. Căm lấy lòng nhơ mong thói bạc, Trời gần chẳng gánh gánh trời xa

Tượng mảng: Lẽ trời sinh vật; Vật ấy nhiều loài.

Lấy câu thuận tính làm lành; Thấy chữ nghịch thường mà ngán.

Nhỏ là loài ong kiến, còn biết nghĩa quân thần; Lớn là loài hổ lang, cũng niệm tình phụ tử.

Kìa như thước báo tai, cưu báo hỷ, đời cũng nhờ lành dữ đem tin; Nọ như khuyển thủ dạ, kê tư thần, người còn cậy sớm khuya an giấc.

Lò tạo hoá nhúm nhen khắp vật, vật nào hay khuấy rối sự nhà; Thợ hoá công đúc nắng nhiều loài, loài nào dám xoi hao mạch nước?

Nay có loài chuột: Lông mọc xồm xàm; Tục kêu xù, lắt.

Tính hay ăn vặt; Lòng chẳng kiêng dè.

Chỗ ở ăn hang lỗ nhiều bề; Đường qua lại đào ra hai ngách.

Nghe hơi động vội vàng chạy mất, nhát quá mẹ cheo; Chờ đêm khuya sẽ lén lút nhau, liếng hơn cha khỉ.

Gọi danh hiệu: chuột xạ, chuột lắt, chuột xù, chuột cống, anh em dòng họ nhiều tên; Tra quán chỉ: ở nhà, ở ruộng, ở rạch, ở ngòi, bậu bạn non sông lắm lối.

Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thầm tối biết bao nhiêu; Vắn dài râu mọc hai chỉa, vắng mặt chủ lung lăng đà lắm lúc.

Vả sáu mươi giáp hoa đứng trước, lẽ thì thiện tính linh tâm; Thì mười hai chí tuế ở đầu, cũng đáng cư nhân do nghĩa.

Cớ sao lại đem lòng quỷ quái? Cớ sao còn làm thói gian tham?

Túi đông pha thường bữa tha gừng; Ruộng nam quách ghe phen cắn lúa.

Nếp gạo của trời nuôi mạng, ăn phá rồi còn kéo xuống hang; Nệm mền của chúng che thân, cắn nát lại tha vào lỗ.

Hoặc nằm ngửa cắn đuôi tha trứng vịt, gây nên thằng tớ chịu đòn oan; Hoặc leo dây ngóng cổ gặm giò heo, để án con đòi mang tiếng khổ.

Vậy cũng gọi mình hay ngũ kỵ; Vậy cũng khoe ngồi trước tam tài.

Chẳng xét mình vò nuốt dưới cầu; Lại quen lần mò ben vách.

Sách Lỗ sử biên câu thực giác, vì miệng ai nên vua lỗi đạo thờ trời; Thơ Quốc phong để chữ thực miêu, vì miệng ai cho nên dan xa lăng bỏ đất.

Ghe phen trách quần hư áo lủng, vì miệng ai cho nên chồng vợ giận nhau; Nhiều chỗ than vách ngã tường xiêu, vì miệng ai cho nên cha con đứt bẩn.

Nền xã tắc là nơi báo bổ, can chi mi đào lỗ, đào hang; Chốn miếu đường là chỗ thanh tán, cớ chi ngươi cắn màn, cắn sáo.

Kẻ trinh nữ ghét thằng cuồng bạo, cũng còn mang tiếng thử dâm; Án Long đồ tra đứa gian tà, hãy còn mắc cái câu thử thủ.

Gối ngoã chú Nghiêu phu đà đến bể, khen cho quỷ quái chẳng chừa; Gây phi long Linh kiết đã tưng bừng, sao hãy yêu tinh không gớm.

Nham độn mười hai ngôi tướng, cho hay thần hậu thật tướng gian; Diễn cầm bốn bảy vì sao, phải biết hư nhật là sao dữ.

Sâu hiểm bấy tấm lòng nghiệt thử cục cứt ra cũng nhọn hai đầu; Báu xót chi manh áo thử cầu, tấm da lột không đầy ba tấc.

Tuy là tướng hữu bì hữu chất; Thật là loài vô lễ vô nghi.

Luận tội kia đã đáng phân thi; Thứ tay nọ cũng vì kiêng vật.

Giận là giận trộm đồ bàn Phật, trốn án mà xưng vương; Căm là căm cắn sách kẻ nho, đành lòng mà phá đạo.

Ngao ngán bấy cái thân chuột thúi, biết ngày nào ô thước phanh phui; Nực cười thay cái bụng chuột tham, uống bao thuở Hoàng Hà ráo cạn.

Ví có ngàn giòng nước khảm, khôn bề rửa sạch tội đa dâm; Dẫu cho muôn nén vàng đoài, cũng khó mua riêng hình bất xá.

Tội dường ấy đã nên ác quá; Ta tới đây há dễ nhiêu dung.

An tiên phuông nấy gã rắn rồng; Phù tập hậu sai chim bả cắc.

Sắm sửa binh sương giáp sắt; Trau giồi ngựa gió xe trăng.

Giống trống sấm xuất binh; Phất cờ lau tập trận.

Đuốc Điền Đan sắm sẵn, để phòng khi un đốt ngạch u vi; Đèn Lý Bạch đái tuỳ đặng chờ thuở xét soi hang uất khúc.

Hàng hàng bố liệt thương đao; Nhập sào huyệt phá hồ lỗ chuột.

Phải nghe ta dặn, sắm sửa đủ đồ: Cuốc xuổng đào hang, phảng mai chận ngách.

Trả, trách, nồi niêu rửa sạch, thượng kỳ: phù địch khái chi tâm; Tiêu, hành, sả, ớt muối đâm, thứ dĩ: tạ chúng nhân chi khẩu.

Chớ để con nào sơ lậu, phải ra tay lấp lỗ tam bành; Đừng cho chúng nó sẩy ra, phải hết sức trừ đồ lục tặc.

Bốn phương đều ngợi chữ thăng bình; Thiên hạ cũng vui câu án đổ.

Ngũ hổ năm anh tướng rất mầu, Đâu dè đến nỗi thất Kinh Châu. Thời Lưu chưa đạt hay sao đặng, Vận Hớn còn suy giỏi mặc dầu. Tiếc bấy công trình Gia Cát Lượng, Uổng thay mỏi mệt Hán Đình hầu. Nghĩ thương cái phận Lưu Huyền Đức, Nhiều nỗi Đàn Khê dễ sá âu.

Thương tình bào đệ, Gửi bức tâm thư.

Nghe em lăm toan việc tóc tơ, Nên anh mới nhả lời vàng ngọc.

Hễ làm người có học, Cho biết lễ trong nhà.

Chẳng trau mình sao đặng chữ tề gia, Còn nhỏ tuổi gấp chi đàng cầu tự.

Ví dù muốn nơi nào thiếp nữ, Thì hãy giao quyền tại chính thê.

Thuận chị em trên dưới gia tề, Nghịch chồng vợ cửa nhà hư hại.

Trong phép xử gia môn đặng phải; Ngoài tiếng đồn phong hoá mới xinh.

Lẽ cũng cho một gáo múc đôi chình; Khuyên chớ để đôi rìu cuôi một cội.

Vả đang lúc sự đời bối rối, Nào xiết lo nghiệp cả bâng khuâng.

Phận thiếp thê mà có như Tề nhân, Niềm tử tức, thà không như Bá Đạo.

Em ôi! May mà có mai cơm chiều cháo, Hơn là người ăn tuyết nằm sương.

Ở nước loàn há sợ chữ thiên ương, Theo đạo học phải dằn lòng nhân dục.

Ham sung sướng chẳng qua nuôi khẩu phúc, E nghiêng nghèo còn nhọc đến thân danh.

Bậc quan quyền, chiếu bông gối dựa mới là vinh. Hàng dân thứ, quần nhiễu, áo sô sao chẳng nhục.

Trau giồi lắm cho đẹp con mắt tục, Ghen ghét nhiều lại chác cái tai phi.

Vậy thà cam hai chữ bố y, Chi nhọc đến một điều mao ốc.

Bì sao kẻ thế gia vọng tộc, Coi lấy người tiện sĩ bần nhu.

Thời thế nầy thà chịu làm ngu, Học hành vậy cũng kêu là trí.

Em sao chẳng nghĩ! Anh rất đỗi lo!

Bề ở ăn như cá núp trong nò; Thân đùm đậu như én nằm trên gác.

Cám nỗi phụ huynh thêm bát ngát; Phận làm tử đệ há nguôi ngoai?

Sung sướng chi mà chồng một vợ hai; Giàu sang mấy mà quần đôi áo cặp?

Thân rảnh sao chẳng cấp; Tính xấu cũng nên chừa.

Trời, không lường trưa sớm nắng mưa; Người, đâu biết hôm mai hoạ phước.

Chi bằng: Giữ câu kiệm ước, Lánh bợm phong lưu.

Việc … oán hận chẳng nên cưu; Thói ve vãn ăn chơi đừng bắt chước.

Hàng đi đứng tua dè nước bước; Lời nói năng phải giữ miệng môi.

Phận áo cơm đã đủ thì thôi; Ơn đất nước ngày an cũng tốt.

Bề ăn ở chi bằng đái chốt; Dạ thảo ngay chí dốc keo sơn.

Có nghĩa tình anh Tấn em Tần, Đừng nghe chuyện cha Hồ mẹ Hán.

Đọc sách y phương, cho biết án; Làm thầy nho sĩ, phải theo tài.

Dược trị đau chớ khá học sơ sài; Phép dạy trẻ chớ nên oai bẫm trợn.

Nghe nhiều kẻ tiếng đời nhơ bợn; Muốn cho em mùi đạo thơm tho.

Khá nhớ lời gia giáo dặn dò, Khuyên chớ để xử thân lầm lỗi.

Nay gửi vài lời huấn hối, Xưa còn trăm chữ minh châm.

Nhớ để lời hôm sớm vịnh ngâm. Hãy chữ dạ khỏi điều quá thất.

Phi liêm xe ngựa đóng phương nao? Oai gió đưa ra nước bến trào. Thổi thốc miếu chùa hơi vụt vụt, Xô nhào cây đá tiếng ào ào. Ai rằng đầm Lộc mê Ngu Thuấn? Ta nhớ sông Tuy giải Hán Cao! Một trận bão rồi bờ cõi sạch, Trời thu như cũ mãi không xao.

Đã đành trôi nổi tấm thân bèo, Mình nghĩ lòng mình dám nói leo. Đánh xé sau khi cò mổ vọp, Sụt trồi đâu dám ốc mang rêu. Cửa rồng muôn dặm may còn nhóm, Bến Nghé năm canh quạ hãy kêu. Chén rược xóm riềng cho cũng uổng, No sau xin để mặt ăn heo.

Vì câu danh nghĩa phải đi ra, Day mũi thuyền nan dạ xót xa. Người dễ muốn chi nương đất khách, Trời đà khiến vậy mến vua ta. Một phương thà tránh đường gai gốc, Trăm tuổi cho tròn phận tóc dạ. Chén rượu ấm lòng xin cạn chén, Nhớ nhau ngày khác biết sao mà.

Hoá công máy móc ở đâu nà, Trăm thợ nhân gian nghẻ ngóc ra. Sáu tỉnh đua làm nghề khéo léo, Năm châu sắm đủ của xây xoa. Mẫu tuồng đơn kép theo hình thế, Mỗi việc lâu mau tại ý ta Máy tạo trong tay nào có vụng, Chi lăm lương đống nước cùng nhà.

Trải qua nắng hạ lúc mưa thu, Cày cấy ghe phen sức dãi dầu. Ấm lạnh trọn bề vài đám ruộng, Làm ăn giữ bổn mấy con trâu. Chuyên nghề Hậu Tắc nhà hằng đủ, Giỏi việc Mân phong nước chẳng sầu. Nhờ gặp mùa màng trời đất thuận, Cứ trăm giống thóc một tay thâu.

Lòng hềm kinh sử mấy mươi pho, Vàng ngọc nào qua báu học trò. Hoa trái rừng nhu ra sức hái, Nghê kình biển thánh ráng công mò. Cẩm văn thêu dệt đời đời chuộng, Mùi đạo trau giồi bữa bữa no. Gặp thuở mày xanh siêng đọc sách, Mỗi câu đều hưởng phúc trời cho.

Một câu thế lợi mở muôn nguồn, Giàu có đua nhau việc bán buôn. Các chợ sinh tài trăm họ nhóm, Chiếc thuyền trực hoá bốn phương luồn. Trái cân Yến tử không rơi dấu Cuốn sách Đào công chẳng hết tuồng. Chờ giá rủi may may gặp vận, Ra vào biết mấy của nghìn muôn.

Mối tơ ai gỡ lúc này xong, Một dải trời Nam biết mấy trùng. Kẻ ứa gan trung trương mắt ngó, Người liều dạ sắt múa tay không. Đến hay trung nghĩa theo tro bụi, Hoài của giang sơn trút biển Đông. Ơn nước, nợ nhà đành có thuở, Biết bao chờ đợi, biết bao trông!

Chiều chiều lại nhớ đến chiều chiều, Cám cảnh giang sơn biết bấy nhiêu! Dấu cũ gò bằng nền Hạ Vũ, Phép xưa khuôn trái luật Đường Nghiêu. Hứa Do ngơ mắt làm thằng mục, Sào Phủ nghiêng tai giả chú tiều. Thế vạy răn mình đừng có vạy, Cờ mao chống chỏi chớ cho xiêu.

Hỡi ôi! Tủi phận biên manh; Căm loài dương tặc.

Ngoài sáu tỉnh hãy ngợi câu án đổ, dân nhờ vua đặng lẽ sống vui; Trong một phương sao mắc chữ lục trầm, người vì nước rủ nhau chết ngặt!

Nhớ các linh xưa: Tiếng đồn trung nghĩa đến xa; Thói giữ cương thường làm chắc.

Từ thủa Tây qua cướp đất, xưng tân trào gây nợ oan cừu; Chẳng qua dân mắc nạn trời, hoài cựu chúa mang lời phản trắc.

Các bậc sĩ nông công cổ, liền mang tai với núi song tâm; Mấy nơi tổng lý xã thôn, đều mắc hại cùng cờ tam sắc.

Bọn tam giáo quen theo đường cũ, riêng than bất hạnh mang nghèo; Bầy cửu lưu cứ nối nghề xưa, thầm tủi vô cô chịu cực.

Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quay treo; tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật.

Trải mười mấy năm trầy khốn khó, bị khảo, bị tù, bị đày, bị giết, trẻ già nghe nào xiết đến tên; Đem ba tấc hơi mọn bỏ liều, hoặc sông hoặc biển hoặc núi hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt.

Khá thương thay! Dân sa nước lửa chầy ngày; Giặc ép mỡ giàu hết sức.

Đành những kẻ cha thù anh oán, nhảy vòng báo ứng đã cam; Cực cho người vợ goá con côi, gây đoạn thảm sầu khôn dứt.

Man mác trăm chiều tâm sự, sống những lo trả nợ cho đời; Phôi pha một mảnh hình hài, thác rồi bỏ làm phân cho đất.

Nghĩ nỗi anh hùng nạn nước, bãi khô lâu nào mấy kẻ khóc than; Tưởng câu danh lợi tuồng đời, trường khối lỗi mặc dầu ai náo nức.

Trời hỡi trời! Lòng nghĩa dân phải với ngô quân; Tiếng nghịch đảng lỗi cùng địch vức.

Gần Côn Lôn xa đại hải, máu thây trôi nổi ai nhìn; Hàng cai đội bậc quản cơ, xương thịt rã rời ai cất?

Sống thời chịu nắng sương trời một góc, khó đem sừng ngựa hẹn quy kỳ; Thác rồi theo mưa ngút biển muôn trùng, khôn mượn thư nhàn đưa tin tức.

Thấp thoáng hồn hoa phách quế, lòng cố hương gửi lại bóng trăng thu; Bơ vơ nước quỷ non ma, hơi âm sát về theo luồng gió bấc.

Như vậy thì: Số dẩu theo sáu nẻo luân hồi; Khi sau để trăm năm uất ức.

Trời Gia Định ngày chiều ráng bắn, âm hồn theo cơn bóng ác dật dờ; Đất Biên Hoà đêm vắng trăng lờ, oan quỷ nhóm ngọn đèn trời hiu hắt.

An Hà quận đang khi bạch trú, gió cây vụt thổi cát xoáy bay con trốt dậy bên thành; Long Tường Giang mỗi lúc hoàng hôn, khói nước sông mù, lửa huỳnh nháng binh ma chèo dưới vực.

Nhìn mất chặng cờ lau trống sấm, mỉa mai trận nghĩa gửi binh tình; Thảm đòi ngàn ngựa gió xe mây, mường tượng vong linh về chiến lật.

Thôi! Người lạc phách theo miền giang hải, cung ngao lẩn thẩn, dành một câu thân thế phù trầm; Kẻ du hồn ở cõi sơn lâm, luỹ kiến đồn ong, còn bốn chữ “âm dung phảng phất”.

Ôi! Sống muốn cho an; Thác sao rằng bức?

Dẫu sớm thấy ngọn cờ điếu phạt, phận thần dân đâu chẳng toan còn; Chưa kịp nghe tiếng trống an hương, nghĩa quân phụ nào dè chết mất.

Hoặc là sợ như đất triêu Tần mộ Sở, cuộc can qua sông cũng ở ghê mình; Hoặc là e như trời nam Tống bắc Kim, đường binh cách thác đi cho khuất mặt.

Tiếc non nước ấy nhân dân dường ấy, gây sự này nào thấy phép tẩy oan; Biết cha mẹ đâu tộc loại ở đâu, chạnh tình đó mới ra ơn điếu tuất.

Tuy uổng mệnh hãy chờ khi sách mệnh, sẵn vòng quả báo vấn vương; Song oan hồn chưa có kẻ chiêu hồn, khiến tấm linh đài bực tức.

Nhớ phận áo cơm đất nước, trọn mấy năm ngóng cổ trông quan; So bề mồ mả ông cha, còn hơn đứa đành lòng theo giặc.

Đến nay: Cám cảnh Nam Trung; Trách lòng tạo vật.

Ví như sĩ sinh đời Đông Tấn, nay đánh Hồ mai dẹp Yết, thời phơi gan trong đám tinh chiên; Nào phải dân ở cõi U Yên, sớm đầu Hạ, tối về Liêu, mà trây máu bên đường kinh cức.

Phải trời cho mượn cán quyền phá lỗ, Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh; Ít người đặng xem tấm bảng phong thần, Phan học sĩ hết lòng mưu quốc.

Muôn dặm giang sơn triều thánh đố, gian sơn còn hơi chính đều còn; Nghìn năm hồn phách nạn dân này, hồn phách mất tiếng oan nào mất.

Dẫu đặng ơn nhuần khô cốt, cơn trị bình mới thấy đạo vương; Muốn cho phép vớt linh hồn, buổi ly loạn khôn cầu kinh Phật.

Ôi! Trời xuống nàn quỷ trắng mấy năm; Người uống giận suối vào vàng lắm bực.

Cảnh Nam thổ phơi màu hoa thảo, đọng tình oan nửa úa nửa tươi; Cõi Tây thiên treo bức vân hà, kết hơi oán chặng thưa chặng nhặt.

Ngày gió thổi lao xao tin dã man, thoắt nhóm thoắt tan thoắt lui thoắt tới, như tuồng bán dạng linh tinh; Đêm trăng lời giéo giắt tiếng đề quyên, dường hờn dường mến dường khóc dường than, đòi đoạn tỏ tình oan khuất.

Xưa nghe có bến sông Vị Thuỷ, lấy lễ nhân đầu tế lũ hồn oan; Nay biết đâu bãi cát Trường Sa, mượn của âm phù độ bè quỷ ức.

Đốt lọn nhang trầm trời đất chứng, chút gọi là làm lễ vãn vong; Đọc bài văn tế quỉ thần soi, xin hộ đó theo đường âm chất.

Hỡi ôi! Thương thay! Có linh xin hưởng.

Hỡi ơi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.

Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa: Cui cút làm ăn; Riêng lo nghèo khó.

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa; Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Khá thương thay: Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.

Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi; Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.

Hỡi ơi! Giặc cỏ bò lan; Tướng quân mắc hại.

Ngọn khói Tây bang đóng đó, cõi biên còn trống đánh sơn lâm; Bóng sao Võ Khúc về đâu, đêm thu vắng tiếng canh dinh trại.

Nhớ tướng quân xưa: Gặp thuở bình cư; Làm người chí đại.

Từ thuở ở hàng viên lữ, pháp binh trăm trận đã làu; Đến khi ra quản đồn điền, võ nghệ mấy ban cũng trải.

Lối giặc đánh, tới theo quan tổng, trường thi, mô súng, trọn mấy năm ra sức tranh tiên; Lúc cuộc tan, về huyện Tân Hoà, đắp luỹ đồn binh, giữ một góc bày lòng địch khái.

Chợt thấy cánh buồm lai sứ, việc giảng hoà những tưởng rằng xong; Đã đành tấm giấy tựu phong, phận thần tử há đâu dám cãi.

Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền; Theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại.

Gồm ba tỉnh dựng cờ phấn nghĩa, sĩ phu lắm kẻ xui theo; Tóm muôn dân gầy sổ mộ binh, luật lệnh mấy ai dám trái.

Văn thì nhờ tham biện, thương biện, giúp các cơ bàn bạc nhung công; Võ thì dùng tổng binh, đốc binh, coi các đạo sửa sang khí giái.

Khá thương ôi! Tiền vàng ơn chúa, trót đã rỡ ràng; An bạc mưu binh, nào từng trễ nải.

Chí lăm dốc cờ xuê lộ bố, chói sắc giữa trào; Ai muốn đem gươm báu Can Tương chôn hơi ngoài ải.

Há chẳng thấy: Sức giặc Lang Sa; Nhiều phương quỷ quái.

Giăng dưới nước tàu đồng tàu sắt, súng nổ quá bắp rang; Kéo trên bờ ma ní, ma tà, đạn bắn như mưa vãi.

Dầu những đại đồn thuở trước, cũng khó toan đè trứng nghìn cân; Huống chi cô luỹ ngày nay, đâu dám chắc treo mành một giải.

Nhưng vậy mà: Vì nước tấm thân đã nấy, còn mất cũng cam; Giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại.

Rạch Lá, Gò Công mấy trận, người thấy đã kinh; Cửa Khâu, Trại Cá khắp nơi, ai nghe chẳng hãi.

Nào nhọc sức họ tào biên sổ, lương tiền nhà ruộng, cho một câu háo nghĩa lạc quyên; Nào nhọc quan võ khố bình cân, thuốc đạn ghe buôn, quyền bốn chữ giao thương đạo tải.

Núi đất nửa năm ngăn giặc, nào thành đồng luỹ sắt các nơi; Giáo tre ngàn dặm đánh Tây, là ngựa giáp xe nhung mấy cái.

Ôi! Chí dốc đem về non nước cũ, ghe phen hoạn nạn, cây thương phá lỗ chưa lìa; Nào hay trở lại cảnh quê xưa, nhắm mắt lâm chung, tấm bảng phong thần vội quải.

Chạnh lòng tướng sĩ, thương quan tướng, nhắc quan tướng, chiu chít như gà; Bậc trí, nhân dân, giận thằng tà, mắng thằng tà, om sòm như nhái.

Ôi! Sự thế hỡi bên Hồ bên Hán, bao giờ về một mối xa thư? Phong cương còn nửa Tống nửa Liêu, đâu nỡ hại một tay tướng soái.

Nào phải kẻ tán sư đầu giặc, mà để nhục miếu đường; Nào phải người kiểu chiếu đánh phiên, mà gây thù biên tái.

Hoặc là chuộng một lời hoà nghị, giận nam phiên phải bắt Nhạc Phi về; Hoặc là do trăm họ hoành la, hờn U địa chẳng cho Dương Nghiệp lại.

Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang san ba tỉnh luống thêm buồn; Biết thuở nào cờ phất trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái.

Còn chi nữa! Cõi cô thế riêng than người khóc tượng, nhắm mắt rồi, may rủi một trường không; Thôi đã đành! Bóng tà dương gấm ghé kẻ day đòng, quày gót lại, hơn thua trăm trận bãi.

Ôi! Làm ra cớ ấy, tạo hoá ghét nhau chi? Nhắc tới đoạn nào, anh hùng rơi luỵ mãi.

Cuộc trung nghĩa hai năm làm đại tướng, nhọc nhằn vì nước, nào hờn tiếng thị tiếng phi; Cõi yên hà một chức chịu lãnh binh, lây lất theo thời, chưa chắc đâu thành đâu bại!

Khóc là khóc nước nhà cơn bấn loạn, hôm mai vắng chúa, thua buồn nhiều nỗi khúc nôi; Than là than bờ cõi lúc qua phân, ngày tháng trông vua, ngơ ngẩn một phương tớ dại.

Tướng quân còn đó, các nơi đạo tặc thảy kiêng dè; Tướng quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa binh thêm bái xái.

Nào đã đặng mấy hồi nơi thích lý, màn hùm che mặt rằng xuê; Thà chẳng may một giấc chốn trường sa, da ngựa bọc thây mới phải.

Ôi! Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng anh hùng gặp lúc gian truân; Đất Gò Công cây cỏ ủ ê, cám niềm thần tử hết lòng trung ái.

Xưa còn làm tướng, dốc rạng giồi hai chữ bình Tây; Nay thác theo thần, nên dâng hộ một câu phúc thái.

Chín đời còn thấy vận Cao hoàng, Mặt mũi đâu mà vội dở dang. Dưới suối há ngờ Lưu Cao Đế, Trong thù nào có Lã ma vương. Tranh tranh Hán thất gương còn để, Phủ việt Xuân thu tội ắt mang. Muôn một cũng liều thân với nước, Cớ sao mà chịu ấn nương nương.

Trải xem thường chuộng báo thi quy, Nồng nực mùi hương chúa Phục Hy. Tám quẻ bố ra đường bí yếu, Sáu hào xây để máy u vi. Kiết hung muôn việc vài lời đoán, Thời vận nghìn năm một lẽ suy. Bày vẽ khắp trời đường hoạ phúc, Nào con mắt tục mấy người tri

Nguyễn Đình Chiểu Nhân Cách Của Một Nhà Văn Hóa Lớn

Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận. Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Trên cương vị của một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam.

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU, một con người tiêu biểu cho nhân cách Việt Nam trong thời kỳ đất nước đầy biến cố, đau thương, nhưng vô cùng vĩ đại. Đất nước bị ngoại xâm, nỗi nhà tai biến, nỗi mình bi thương, bao nhiêu nghiệt ngã của cuộc đời trút lên vai một người mù lòa, sự nghiệp công danh nửa đường dang dở.Sự thách thức nghiệt ngã ấy đặt ra cho Nguyễn Đình Chiểu thái độ phải lựa chọn lối sống và cách sống như thế nào cho thích hợp với vai trò người trí thức trước thời cuộc “quốc gia lâm nguy that phu hữu trách”, và ông đã chọn con đường sống, chiến đấu, bằng ngòi bút “chí công” với cái tâm “đã vì nước phải đứng về một phía”.

Nhìn từ góc độ văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu là một con người Việt Nam trọng đạo lý, nặng tình người, đậm đà bản sắc dân tộc, yêu ghét rõ ràng, khen chê dứt khoát. Vì người, cụ sẵn sàng hy sinh xả thân không màng danh lợi. Vì đời,cụ chấp nhận mọi thử thách trước khó nghèo, khổ cực, không hám lợi, không sợ uy vũ, không khuất phục cường quyền.

Với tất cả vai trò xã hội và sứ mạng của con người mà Nguyễn Đình Chiểu phải gánh vác: Nhà thơ, nhà giáo, thầy thuốc, người công dân, chiến sĩ yêu nước… cho đến cuối đời cụ vẫn kiên cường vượt qua số phận, hoàn thành xuất sắc thiên chức của mình, để lại cho đời sau một tấm gương về cách sống trong sáng đến tuyệt vời:

“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt Lòng đạo xin tròn một tấm gương”

Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, nhưng nhân cách của con người không chỉ là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh.Ngày xưa cụ Nguyễn Du từng cho rằng: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”.

Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận.Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu.

Trên cương vị của một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen,biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam, Nhà thơ mù lòa ấy là một trong những người đầu tiên đưa ra thông điệp tố cáo hành động phản văn hóa, mất tính người của bọn thực dân xâm lược. Về tội ác hủy diệt cuộc sống yên lành của nhân dân, ông viết:

“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy Mất ổ bầy chim nháo nhác bay”.

Với tội ác xâm lược phản văn hóa ngang nhiên đoạt tài sản và hủy hoại một cách dã man những di sản văn hóa của nhân dân ta:

“Bến Nghé của tiền tan bọt nướcĐồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.

Của tiền là sự tích góp của một đời người lao động sáng tạo vô cùng vất vả.

Tranh ngói là cả một dinh cơ sự nghiệp, nhà cửa, đền, miếu, đình, chùa phải mấy trăm năm với bàn tay và khối óc của nhiều người mới dựng nên cơ nghiệp lớn lao ấy.

Trong hoàn cảnh đất nước lâm nguy, một bọn người mang danh kẻ sĩ đã hèn nhát đầu hàng kẻ thù, phản bội đất nước. Nguyễn Đình Chiểu là người sớm biểu lộ thái độ khinh miệt bọn đê hèn và phản văn hóa ấy:

“Dù đui mà giữ đạo nhà Còn hơn có mắt ông cha không thờ. Dù đui mà khỏi danh nhơ Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình”.

Với quan điểm xem ngòi bút là vũ khí chiến đấu “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”,Nguyễn Đình Chiểu đã trực tiếp đả kích bọn Việt gian khoác áo văn chương như loại Tôn Thọ Tường thường mượn màu chữ nghĩa làm đảo lộn trắng đen. Cụ viết:

“Thây nay cũng nhóm văn chươngVóc dê da cọp khôn lường thực hư”.

Các tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống bền vững trong tình cảm nhân dân. Lý tưởng thẩm mỹ trong các nhân vật anh hùng đã nêu bật một lối sống có văn hóa và khí phách anh hùng đặc trưng bản sắc Việt Nam. Đó là lối sống trọng đạo lý và công bằng xã hội, trọng con người và căm ghét áp bức bất công. Cái “hào khí Đồng Nai” ấy được thể hiện qua hành động của các nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên, trong các nghĩa sĩ Cần Giuộc và nghĩa sĩ lục tỉnh thời Nam Kỳ kháng Pháp đến nay vẫn còn được tiếp nối và phát huy trong đời sống văn hóa của nhân dân ta ở miền Nam. Trong một thời gian khá dài từ đầu thế kỷ XX đến nay, truyện thơ Lục Vân Tiên đã là nội dung diễn xướng dân gian với các loại hình như nói thơ, hò, vè, ca ra bộ trong sinh hoạt văn hóa quần chúng và chính đề tài Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga sớm thể hiện trên sân khấu ca kịch cải lương khi bộ môn nầy vừa mới ra đời trên kịch trường Nam bộ. Gần nay đề tài nầy đã và đang được dựng lên thành nhạc kịch hiện đại, dựng thành phim truyện v.v… Hơn một thế kỷ qua, hiếm thấy nhà văn nào mà tác phẩm có tính phổ cập sâu rộng và có sức sống lâu bền trong đời sống văn hóa của nhân dân như vậy.

Trên lĩnh vực giáo dục, là một nhà giáo, trọn đời thầy Đồ Chiểu chăm lo dạy dỗ môn sinh, truyền thụ cho thế hệ tương lai những điều cốt lõi của văn hóa Việt Nam về đạo lý truyền thống của dân tộc và nhân cách của một kẻ sĩ. Hào khí Đồng Nai, một nét đẹp văn hóa của con người Nam bộ được nuôi dưỡng và phát huy chính là nhờ sự nghiệp giáo dục của biết bao thế hệ người thầy đầy tâm huyết mà được truyền thụ đến ngày nay, trong đó nhà thơ – nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu là một trong những người có công lớn. Chúng ta đều biết Nguyễn Đình Chiểu là học trò đời thứ hai của nhà giáo Võ Trường Toản ở Gia Định, một ông thầy nổi tiếng về phương pháp giáo dục tri ngôn, dưỡng khí, tập nghĩa, một nhà trí thức sớm nổi tiếng ở đất Đồng Nai – Gia Định, không màng danh lợi, suốt đời chăm lo đào tạo thế hệ moan sinh có chí, có tài, biết lấy “thảo ngay làm nghĩa cả”.

Võ Trường Toản là thầy học của Nghè Chiêu.Nghè Chiêu là thầy dạy Nguyễn Đình Chiểu.

Từ lò đào tạo Hòa Hưng của Võ Trường Toản mà thế hệ các nhà văn thơ trước đó và cùng thời với Nguyễn Đình Chiểu dù vận nước đến thế nào cũng tràn đầy “hơi chính khí”. Kẻ sĩ Gia Định chính là sản phẩm của phong cách rèn luyện của một ông thầy giỏi, giỏi đến mức dạy nên những người học trò nổi tiếng hơn mình.

Thầy Đồ Chiểu dạy học trò theo phong cách ấy.

Nhiều thế hệ môn sinh của Đồ Chiểu tiếp thu sự giáo dục của thầy nuôi dưỡng ý chí, rèn luyện tinh thần để sẵn sàng trở thành “trang dẹp loạn” mà sinh thời cụ Đồ Chiểu hằng mong ước. Từ Nhiêu Đẩu, Nhiêu Gương ở Mỏ Cày cuối thế kỷ XIX đến các trí thức Nho học Lê Văn Đẩu, Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn ở Ba Tri nửa đầu thế kỷ XX đều là những thế hệ môn sinh đầy nhiệt huyết mang đậm dấu ấn giáo dục của thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu.

Nhân cách của nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng rất lớn đối với vùng đất Bến Tre và xa hơn nữa. Đất anh hùng từng sản sinh ra nhiều nhân vật anh hùng trong sự nghiệp chống giặc cứu nước. Ngày nay nói đất Bến Tre là quê hương của cụ Đồ Chiểu chính là nói đến truyền thống văn hóa Việt Nam mà Nguyễn Đình Chiểu là một con người tiêu biểu và là người có công bảo vệ và truyền lại cho các thế hệ sau nầy những gì tốt đẹp nhất của truyền thống văn hóa ấy.

“Xưa rằng quốc thử lời khen phải Giúp sống dân ta trọn lẽ trời”

Giáo sư Lê Trí Viễn viết trong lời tựa quyển “Ngư tiều y thuật vấn đáp” lần xuất bản năm 1982: “Y thuật ấy là kết tinh nghề thuốc trong hằng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỷ. Yêu nước ấy có chiều sâu cá nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy ngàn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lý sống, một con đường phù hợp cho những con người yêu nước bình thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc: giữ vững khí tiết không phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước…”.

Đối với lương y Nguyễn Đình Chiểu, y đạo tức là nhân đạo, mà chủ nghĩa nhân đạo của cụ là chủ nghĩa nhân đạo nhân dân rất gần gũi với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản:

“Thấy người đau giống mình đau Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.Đứa ăn mày cũng trời sanh Bịnh còn cứu đặng thuốc dành cho không”.

Cảm ơn đức của cụ, khi cụ Đồ Chiểu mất, nhiều bịnh nhân được cụ cứu khỏi bịnh ngặt nghèo đến xin để tang cụ như con cháu trong nhà.

Kỳ Nhân Sư một hình tượng lý tưởng trong tác phẩm “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” của Nguyễn Đình Chiểu đã tự xông đui đôi mắt của mình cho tròn y đạo và nhân đạo để không phải đem nghề y ra phục vụ cho kẻ thù của Tổ quốc và nhân dân. Nhân cách cao thượng ấy của Nguyễn Đình Chiểu còn để lại dấu ấn sâu sắc trong các thế hệ lương y sau nầy. Người thầy thuốc chân chính trong nhân dân làm nghề thuốc còn vì mục đích từ thiện chớ không phải chỉ có kinh doanh trên sự đau khổ của đồng bào.

Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc; làm ông Đồ dạy học không biết mệt mỏi vì sự nghiệp nuôi dưỡng “hào khí Đồng Nai” giữ gìn bản sắc Việt Nam trong đời sống văn hóa của nhân dân giữa thời loạn ly; làm thầy thuốc vì đạo cứu người chứ không chỉ vì nghề để vụ lợi. Đó là lối sống có văn hóa, biết tự hào dân tộc, biết tự trọng của một người trí thức chân chính, biết trân trọng phẩm giá của con người, giữ đúng tiết tháo của một kẻ sĩ.

Bằng cuộc đời và sự nghiệp của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần xứng đáng cho đời sống văn hóa dân tộc trải qua thử thách nghiệt ngã được bảo tồn và phát triển. Sống trong tình thương và sự kính trọng của nhân dân, những người làm nên lịch sử và sáng tạo văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi là một nhân cách lớn, một nhà văn hóa chân chính của nhân dân.

Những Bài Thơ Hay Nhất Của Nhà Thơ Xuân Quỳnh

Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự thành thật rất thành thật, thành thật trong quan hệ bạn bè, với xã hội và cả tình yêu. Chị không quanh co không giấu diếm một điều gì. Mỗi dòng thơ, mỗi trang thơ đều phơi bày một tình cảm, một suy nghĩ của chị. Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị. Thành thật, đây là cốt lõi thơ Xuân Quỳnh – Võ Văn Trực

1. Sóng

Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ

Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau

Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh – một phương

Ở ngoài kia đại dương Trăm nghìn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ.

Sóng là một trong những bài thơ hay nhất của Xuân Quỳnh, nói về cảm xúc của người con gái khi yêu, khi mãnh liệt lúc lại trầm ấm. Một tình yêu chân thành vĩnh cửu lại vô cùng cao thượng. Xúc cảm của Sóng mang lại khiến bất cứ ai cũng phải nghẹn ngào như thấy chính bản thân mình trong những vần thơ.

2. Cỏ Dại

“Cỏ dại quen nắng mưa Làm sao mà giết được Tới mùa nước dâng Cỏ thường ngập trước Sau ngày nước rút Cỏ mọc đầu tiên”

Câu thơ nào trong ý nghĩ vụt lên Khi tôi bước giữa một rừng cỏ dại Không nhà cửa. không bóng cây. Tim lối Cứ cường hào rẽ cỏ mà đi.

Người dân quân tì súng lắng nghe Bài hát nói về khu vườn đầy trái Anh bỗng nghĩ đến một vùng cỏ dại Nỗi nhớ đầu anh nhớ quê anh

Mảnh đạn bom và chất lân tinh Đã phá sạch không còn chi nữa Chỉ có sắt chỉ còn có lửa Và cuối cùng còn có đất mà thôi

Thù trong lòng và cây súng trên vai Cùng đồng đội anh trở về làng cũ Anh nhận thấy trước tiên là cỏ Sự sống đầu anh gặp ở quê hương

Có một lần anh tìm đến bà con Khi xúm xít quanh anh thăm hỏi Giữa câu chuyện có điều này đau nhói: – Đất quê mình cỏ đã mọc lên chưa?

Trong cuộc đời bình yên tựa nghìn xưa Gần gũi nhất vẫn là cây lúa Trưa nắng khát ước về vườn quả Lúc xa nhà nhớ một dáng mây Một dòng sông, ngọn núi, rừng cây Một làn khói, một mùi hương trong gió…

Có mấy ai nhớ về ngọn cỏ Mọc vô tình trên lối ta đi Dẫu nhỏ nhoi không đáng nhớ làm chi Không nghĩ đến nhưng mà vẫn có.

Thơ Xuân Quỳnh không chỉ là những dòng thơ tình lãng mạn, ở một khoảng không trong trái tim nhà thơ vẫn có tình yêu dành cho quê hương đất nước, cho mảnh đất dạt dào hương lúa này. “Cỏ dại” là một trong những bài thơ viết về nỗi nhớ quê hương giản dị với những hình ảnh dòng sông, ngọn núi… đã ăn sâu vào tuổi thơ của mỗi người.

3. Thuyền và biển

Em sẽ kể anh nghe Chuyện con thuyền và biển:

“Từ ngày nào chẳng biết Thuyền nghe lời biển khơi Cánh hải âu, sóng biếc Đưa thuyền đi muôn nơi

Lòng thuyền nhiều khát vọng Và tình biển bao la Thuyền đi hoài không mỏi Biển vẫn xa… còn xa

Những đêm trăng hiền từ Biển như cô gái nhỏ Thầm thì gửi tâm tư Quanh mạn thuyền sóng vỗ

Cũng có khi vô cớ Biển ào ạt xô thuyền (Vì tình yêu muôn thuở Có bao giờ đứng yên?)

Chỉ có thuyền mới hiểu Biển mênh mông nhường nào Chỉ có biển mới biết Thuyền đi đâu, về đâu

Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ Những ngày không gặp nhau Lòng thuyền đau – rạn vỡ

Nếu từ giã thuyền rồi Biển chỉ còn sóng gió” Nếu phải cách xa anh Em chỉ còn bão tố

Mượn hình ảnh thuyền và biển để nói về tình yêu đôi lứa không thể tách rời. Thuyền và biển sinh ra để dành cho nhau, như anh và em là một đôi trời định. Cả hai thấu hiểu nhau, gắn bó và tồn tại vì nhau. Niềm vui của người này chính là sự nỗ lực của người còn lại.

4. Tự hát

Chả dại gì em ước nó bằng vàng Trái tim em, anh đã từng biết đấy Anh là người coi thường của cải Nên nếu cần anh bán nó đi ngay

Em cũng không mong nó giống mặt trời Vì sẽ tắt khi bóng chiều đổ xuống Lại mình anh với đêm dài câm lặng Mà lòng anh xa cách với lòng em

Em trở về đúng nghĩa trái tim Biết làm sống những hồng cầu đã chết Biết lấy lại những gì đã mất Biết rút gần khoảng cách của yêu tin

Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em Biết khao khát những điều anh mơ ước Biết xúc động qua nhiều nhận thức Biết yêu anh và biết được anh yêu

Mùa thu nay sao bão giông nhiều Những cửa sổ con tàu chẳng đóng Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh

Em lo âu trước xa tắp đường mình Trái tim đập những điều không thể nói Trái tim đập cồn cào cơn đói Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn

Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em Là máu thịt, đời thường ai chẳng có Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi

Xuân Quỳnh trở về với đúng con người thật của mình, không yêu anh bằng quyền sang phú quý, bằng lá ngọc cành vàng, mà chỉ yêu anh bằng chính trái tim nhỏ bé nhưng đập đầy mãnh liệt, đầy trở trăn. Trái tim anh và anh hòa cùng một nhịp. Sự tồn tại của người này gắn liền với sự sống của người kia. Một tình yêu mãnh liệt và đầy sự chân thành.

5. Thơ tình cuối mùa thu

Cuối trời mây trắng bay Lá vàng thưa thớt quá Phải chăng lá về rừng Mùa thu đi cùng lá Mùa thu ra biển cả Theo dòng nước mênh mang Mùa thu vào hoa cúc Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em Là của mùa thu cũ Chợt làn gió heo may Thổi về xao động cả: Lối đi quen bỗng lạ Cỏ lật theo chiều mây Đêm về sương ướt má Hơi lạnh qua bàn tay

Tình ta như hàng cây Đã qua mùa gió bão Tình ta như dòng sông Đã yên ngày thác lũ

Thời gian như là gió Mùa đi cùng tháng năm Tuổi theo mùa đi mãi Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em Cùng tình yêu ở lại… – Kìa bao người yêu mới Đi qua cùng heo may

Bài thơ khẳng định cho sự tồn tại bất diệt của tình yêu, dẫu trải qua sự bào mòn khủng khiếp của thời gian, dù trải qua những bão tố đầy biến động, tình yêu của anh và em luôn còn đó, như một sự minh chứng cho sự trường tồn của tình yêu.

Thơ của Xuân Quỳnh là địa hạt của tình yêu, khi trong sáng ngây thơ, khi lại dạt vào mãnh liệt. Dẫu có thay đổi song đó vẫn là một hồn thơ ấm áp, luôn khắc khoải trở trăn trước cuộc đời. Bà là một trong những nhà thơ đã đưa văn học Việt Nam lên một tầm cao mới.

Thảo Nguyên

Những Bài Thơ Tình Hay Nhất Của Nhà Thơ Xuân Diệu

1. Biển – Thơ Tình Xuân Diệu

Anh không xứng là biển xanh Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng Bờ cát dài phẳng lặng Soi ánh nắng pha lê …

Bờ đẹp đẽ cát vàng Thoai thoải hàng thông đứng Như lặng lẽ mơ màng Suốt ngàn năm bên sóng …

Anh xin làm sóng biếc Hôn mãi cát vàng em Hôn thật khẽ, thật êm Hôn êm đềm mãi mãi

Đã hôn rồi, hôn lại Cho đến mãi muôn đời Đến tan cả đất trời Anh mới thôi dào dạt …

Cũng có khi ào ạt Như nghiến nát bờ em Là lúc triều yêu mến Ngập bến của ngày đêm

Anh không xứng là biển xanh Nhưng cũng xin làm bể biếc Để hát mãi bên gành Một tình chung không hết,

Để những khi bọt tung trắng xóa Và gió về bay tỏa nơi nơi Như hôn mãi ngàn năm không thỏa, Bởi yêu bờ lắm lắm, em ơi!

Đây là một trong những bài thơ tình nổi tiếng nhất của Xuân Diệu, mượn hình ảnh của biển xanh để nói về tình yêu của mình. Một tình yêu được định nghĩa bằng sự hi sinh, đầy sự cao thượng và đẹp đẽ. nguồn thi hứng của ông được gợi lên từ biển Quy Nhơn cát vàng nước biếc dạt dào, tiếng thầm thì của phi lao như lời tâm sự của những tình nhân. Tình yêu của Xuân Diệu được miêu tả bằng những ngôn từ đẹp đẽ và chân thành nhất.

2. Yêu – Thơ Tình Xuân Diệu

Yêu là chết trong lòng một ít Vì mấy khi yêu mà đã được yêu. Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu; Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết

Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt. Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu, Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu! Yêu, là chết trong lòng một ít.

Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt Những người si theo dõi dấu chân yêu. Và cảnh đời là sa mạc cô liêu. Và tình ái là sợi dây vấn vít Yêu, là chết ở trong lòng một ít.

3. Tương tư chiều – Thơ Tình Xuân Diệu

Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm; Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em. Không gì buồn bằng những buổi chiều êm. Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối. Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối; Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành; Mây theo chim về dãy núi xa xanh Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ.

Thôi hết rồi! Còn chi nữa đâu em! Thôi hết rồi, gió gác với trăng thềm.

Với sương lá rụng trên đầu gần gũi, Thôi đã hết hờn ghen và giận tủi. (Được giận hờn nhau! Sung sướng bao nhiêu!) Anh một mình, nghe tất cả buổi chiều Vào chậm chậm ở trong hồn hiu quạnh.

Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh. Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi! Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi, Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời. Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm! Gió bao lần từng trận gió thương đi, – Mà kỷ niệm, ôi, còn gọi ta chi.

Xuân Diệu chọn nỗi nhớ là cảm hứng chính của bài thơ. Trong tình yêu, nỗi nhớ là cảm xúc chính là cảm xúc thường trực, tồn tại khắc khoải và đầy day dứt. Nỗi nhớ trong thơ Xuân Diệu cực kì khác biệt thể hiện rất rõ trong bài thơ. Day dứt và ám ảnh, mãnh liệt và thậm chí là đầy dục vọng. Bài thơ là sự dâng trào của nỗi nhớ nhung. Không phải thất thời mà là thường trực, qua đó làm nổi bật tình yêu cao thượng và to lớn của nhân vật dành cho người mình yêu.

2. Vội Vàng – Thơ Tình Xuân Diệu

Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi.

Của ong bướm này đây tuần trăng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si. Và này đây ánh sáng chớp hàng mi; Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa: Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất. Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian, Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại. Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời; Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi, Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt… Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa? Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm, Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi; – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

4. Phải nói – Thơ Tình Xuân Diệu

“Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ? “Anh tham lam, anh đòi hỏi quá nhiều. “Anh biết rồi, em đã nói em yêu; “Sao vẫn muốn nhắc một lời đã cũ?”.

Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ. Nếu em yêu mà chỉ để trong lòng; Không tỏ hay, yêu mến cũng là không, Và sắc đẹp chỉ làm bằng cẩm thạch. Anh thèm muốn vô biên và tuyệt đích, Em biết không? Anh tìm kiếm em hoài. Sự thật ngày nay không thật đến ngày mai, Thì ân ái có bao giờ lại cũ ?

Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ, Phải nói yêu, trăm bận đến ngàn lần; Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân, Đem chim bướm thả trong vườn tình ái. Em phải nói, phải nói, và phải nói: Bằng lời riêng nơi cuối mắt, đầu mày, Bằng nét vui, bằng vẻ thẹn, chiều say, Bằng đầu ngả, bằng miệng cười, tay riết, Bằng im lặng, bằng chi anh có biết! Cốt nhất là em chớ lạnh như đông, Chớ thản nhiên bên một kẻ cháy lòng, Chớ yên ổn như mặt hồ nước ngủ.

Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ.

Bài thơ là hành trình đi tìm đích đến cuối cùng của tình yêu, thế nào là yêu thật sự, là yêu tha thiết, những câu hỏi dằn vặt nhà thơ mà tuôn trào trên trang giấy. Yêu là một cung bậc khó có thể diễn tả được bằng lời. Cảm xúc như được dồn nén, chỉ chực bật ra khỏi câu từ. Đó là cái hay của thơ tình Xuân Diệu, thể hiện rất mãnh liệt khát vọng yêu và được yêu. Mà tình yêu đó phải cao thượng và mãnh liệt. Với Xuân Diệu, chưa bao giờ là đủ cho một tình yêu.

5. Thơ tình mùa xuân – Thơ Tình Xuân Diệu

Mùa xuân về trong tiếng ca chim, Trên nước xanh sông, trong liễu rèm. Chưa hái được hoa mang tặng em Nên một cành thơ em tạm đem.

Ánh xuân mỗi sớm hồng tươi mướt, Những ống khói cao bèn nhận trước. Ruộng xanh đã cấy đến chân trời Lóng lánh mạ soi mình xuống nước.

Chưa hái được hoa mang tặng em Nên một cành thơ anh tạm đem. Cây trồng – ta chẳng trồng nêu tết – Những lá đầu tiên vừa nhú biếc.

Người đi chợ búa tiếng chân ran, Quần láng mới thâm còn sột soạt. Chưa hái được hoa mang tặng em Nên một cành thơ anh tạm đem.

Trên cảnh đồng quê thấy xếp hàng Chạy dài như tận cuối không gian Những dàn sắt dựng như ren sắt Dẫn điện chuyền đi xây hạnh phúc…

Chưa hái được hoa mang tặng em Nên một cành thơ anh tạm đem. Anh muốn mời em bước xuống thuyền, Thuyền của đôi ta vào hiện thực

Dựa thế đêm tan, ngày sáng rực, Thuyền ta đi dựng lấy thần tiên… Đây một cành thơ anh tạm đem Như nước xanh sông, như liễu rèm…

Đây là một trong những bài thơ hiếm hoi của Xuân Diệu vẽ nên cảnh thơ mộng nhẹ nhàng của tình yêu, không ám ảnh hay mãnh liệt như những bài thơ khác. Tình yêu đôi lúc cần phải có những khoảng lặng, để mơ mộng và nghĩ suy về tương lai. Đó là địa hạt của hạnh phúc, của bình yên và xúc cảm chân thành.

6. Một tình yêu – Thơ Tình Xuân Diệu

Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất Đem cho em kèm với một lá thư Em không lấy là tình anh đã mất Tình đã cho không lấy lại bao giờ .

Thư thì mỏng như suốt đời mộng ảo Tình thì buồn như tất cả chia ly Xếp khuôn giấy để hoài trong túi áo Mãi trăm lần mới gấp lại đưa đi

Em xé như lòng non cùng giấy mới Mây dần trôi hôm ấy phủ sơn khê Cười trên cành sao được nữa em ơi!

Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất Đem cho em là đã mất đi rồi!

Tình yêu trong thơ của Xuân Diệu bao giờ cũng cao thượng như vậy, một khi đã trao đi, là trao trọn vẹn không luyến tiếc. Bài thơ thể hiện nỗi đau day dứt như bị cắt ra làm đôi của chàng trai, tình yêu đã mất, bể mộng đã tan, nay chỉ còn một tình yêu đã bị khuyết tật. Nhưng cho đến cuối cùng, chàng trai vẫn không hối hận về quyết định của mình. 

Thảo Nguyên

Cập nhật thông tin chi tiết về Nhà Thơ Nguyễn Đình Chiểu Và Những Bài Thơ Đặc Sắc Nhất Phần Cuối trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!