Xu Hướng 11/2023 # Nhà Thơ Trong Quan Niệm Của Chế Lan Viên # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Nhà Thơ Trong Quan Niệm Của Chế Lan Viên được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1.Nhà thơ – Người nghệ sĩ có phẩm chất khác thường

Rimbaud – nhà thơ tượng trưng nổi tiếng của Pháp – cho rằng: ”Thi nhân tự biến mình thành tiên tri thấu thị bằng một sự hỗn loạn của tất cả mọi giác quan, lâu dài, rộng lớn phi thường và hợp lý”(1). Quan niệm này của Rimbaud đã ảnh hưởng sâu sắc đến Chế Lan Viên nói riêng và các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới nói chung. Chính vì thế , trong lời tựa tập thơ Điêu tàn, Chế Lan Viên đã tuyên bố: ”Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm Tương Lai. Người ta không hiểu được nó vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp lý”(2).

Như vậy, trong quan niệm của Chế Lan Viên, nhà thơ không phải là người bình thường mà là người nghệ sĩ có phẩm chất khác thường. Đó là con người của linh giác, của tâm linh, của thấu thị. Thật ra, quan niệm nhà thơ là người nghệ sĩ có phẩm chất khác thường của Chế Lan Viên trong tập thơ Điêu tàn cũng không xa lạ với quan niệm của những nhà thơ khác trong đó có các nhà Thơ Mới. Đã là thi nhân, chưa ai nhận mình là người bình thường cả. Chỉ có điều họ khác nhau ở cách thể hiện quan niệm đó mà thôi. Nếu Tản Đà tự cho mình là một ”Trích tiên” bị ”Đày xuống hạ giới vì tội ngông” thì Xuân Diệu tự nhận mình là: ”con chim đến từ núi lạ / Ngứa cổ hót chơi”. Nếu Thế Lữ xem mình là ”người bộ hành phiêu lãng” thì Huy Cận lại thấy mình là ”một chiếc linh hồn nhỏ:/ Mang mang thiên cổ sầu’’… Chế Lan Viên, do ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực ở những giai đoạn sau này của trào lưu thơ lãng mạn và do thiên về tư duy duy lý muốn đẩy sự khác thường của thi nhân lên đến ‘’tột cùng’’ nên đã cho rằng: ”Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu…” Nghĩa là ở đây Chế Lan Viên đã siêu hình hoá mọi trạng thái, mọi phẩm chất, mọi cảm thức về không gian, thời gian, về ý nghĩa cuộc sống của nhà thơ. Hay nói cách khác: ‘’Với Điêu tàn, Chế Lan Viên đã có định hướng siêu nhiên về bản chất của thi sĩ’’(3). Trong bài tuỳ bút ”Thơ và người”, khi luận về thi sĩ, Xuân Diệu cũng quan niệm rằng: ”Người thi sĩ bao giờ cũng điên’’(4). Tất nhiên cái ‘’điên’’ trong quan niệm của Xuân Diệu hoàn toàn khác xa với cái ‘’điên’’ trong quan niệm của Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử. Nếu với Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, ‘’điên’’ là ‘’hình thức của sáng tạo’’, là ‘’sự hiện hình, sự cất tiếng của đau thương’’, là ‘’một thứ siêu nghiệm’’ (Chu Văn Sơn)( 5) thì với Xuân Diệu, ‘’điên’’ lại là ‘’sự say mê, sự say đắm, sự cảm xúc quá mức thường’’(6). Tuy có điểm khác nhau nhưng quan niệm về nhà thơ của Chế Lan Viên vẫn có điểm tương đồng với Xuân Diệu và các nhà thơ khác vì họ đều cho rằng nhà thơ là người nghệ sĩ có phẩm chất khác thường. Bởi lẽ, nếu không có ”con mắt thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân), không có sự linh cảm, không có ” thiên nhãn” (Rimbaud), không có sự thăng hoa trong sáng tạo thì làm sao trở thành thi sĩ được.

Quan niệm về những phẩm chất khác thường của nhà thơ ở Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Thế Lữ…trong phong trào Thơ Mới lúc bấy giờ đều là quan niệm về một ”kiểu thi nhân mới, tức là một nhãn quan thơ mới về con người và thế giới” (7). Và như thế, theo Trần Đình Sử:” quan niệm này dù trong ngữ cảnh chính trị chưa được đánh giá là tích cực thì về phương diện mỹ học vẫn là một bước tiến không nhỏ của ý thức nghệ thuật để khắc phục chủ nghĩa giáo huấn và chủ nghĩa duy lý trung đại”(8). Rõ ràng, quan niệm về nhà thơ của các nhà Thơ Mới nói chung và của Chế Lan Viên nói riêng đã mở ra cái nhìn ”dân chủ hoá” về vai trò của nhà thơ và quá trình sáng tạo thi ca, phá vỡ tính qui phạm trong quan niệm về nhà thơ của văn học trung đại. Đây chính là một trong những đóng góp quan trọng của Chế Lan Viên và các nhà Thơ Mới.

Nhưng từ khi Cách mạng tháng Tám thành công, sau những ngày nhận đường đầy đau khổ, ông đã cho ra đời tập Anh sáng và phù sa. Đây là tập thơ đánh dấu sự chuyển biến tư tưởng của Chế Lan Viên nói chung và quan niệm của ông về nhà thơ nói riêng. Cùng với Anh sáng và phù sa và các tập thơ sáng tác sau này như Đối thoại mới, Hái theo mùa, Hoa trên đá…Chế Lan Viên đã xây dựng cho mình một quan niệm mới về nhà thơ. Với Chế Lan Viên, nhà thơ lúc này không phải là một kiểu nhà thơ như ông quan niệm trước kia trong Điêu tàn mà là một kiểu nhà thơ mới, kiểu nhà thơ cách mạng. Đó là kiểu nhà thơ gắn cuộc sống của mình trong cuộc sống của quần chúng, của cộng đồng, gắn cái tiểu ngã của mình trong cái đại ngã của nhân dân, gắn cái riêng trong cái chung. Nhà thơ lúc này không còn ”lẻ loi” và ” bí mật”(9), mà sống chan hòa trong cuộc đời thường. Tuy nhận thức như thế nhưng trong tư duy của Chế Lan Viên nhà thơ không phải là người bình thường mà vẫn là người nghệ sĩ có phẩm chất khác thường. Song cái khác thường ở đây không phải là một kiểu lập dị, xa lạ đối với thế giới con người mà đó là cái khác thường cần có và phải có trong phẩm chất mỗi thi nhân.

Với Chế Lan Viên lúc này, nhà thơ phải ”như con chim bói cá, mắt bao gồm đầm hồ bát ngát, phải thấy cả tam thiên mẫu của đời, trước khi lao vào bắt một chiếc cá con”(Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ…), ”như con ong biến trăm hoa thành một mật / Một giọt mật thành, đời vạn chuyến ong bay’’ (Ong và mật), ”là con tằm từ đợt dâu này qua đợt dâu kia cần mẫn / Xe sợi tơ mình là lấy từ sự sống để mà xe’’ (Tằm và nhện), là ”cái con mẹ điên” sống giữa đời thường với những lo toan trước cái nghèo, cái đói của nhân dân và phải là người đem đến cho cuộc đời, cho con người niềm tin trong lúc tưởng chừng bế tắc:

Nhà thơ cái con mẹ điên Khi cả làng sắp vứt cày vứt bừa vì đói lả Nó tung ra nắm thóc Hái ở đâu nó bảo hái trên trời Nhờ thế cả làng tin còn thóc, còn trời, còn sống được Lại gieo vãi cày bừa cấy gặt Cho đến lúc no rồi mới phát hiện con mẹ điên nói dối Và cả làng tha tội nó là điên (Thơ bình phương – Đời lập phương)

Dùng các hình ảnh so sánh trên , Chế Lan Viên nhằm đi đến một sự khẳng định: Nhà thơ không phải là con người bình thường. Nhưng dù khác thường đến mức nào chăng nữa thì nhà thơ cũng là người sống hết mình vì những trang thơ, sống trong tình yêu của con người, trong sự thẩm định của con người chứ không thể đứng ngoài con người, đứng ngoài cuộc sống, tự biến mình thành tháp ngà ‘’lẻ loi’’, ‘’bí mật’’:

Nhà thơ lớn ư ? Là để cho nhân loại yêu mình bằng mọi cách Khi nâng niu. Khi thì hạch sách Khi dày vò mỗi chữ Khi trân trọng ngắm từ xa Nhà thơ vẫn vẹn nguyên qua trăm lần thử lửa Yêu mà! (Thơ bình phương – Đời lập phương)

Và đây cũng là điểm khác nhau cơ bản trong quan niệm về nhà thơ của Chế Lan Viên từ Điêu tàn đến các tập thơ ra đời trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Bởi nếu nhà thơ trong quan niệm của Chế Lan Viên ở Điêu tàn là một con người tâm linh tương thông với cõi tiên, cõi ảo thì quan niệm nhà thơ trong giai đoạn này là con người của đời thực, con người của lịch sử, của xã hội, của cộng đồng với những biến sinh của đời sống mà ở đó nhà thơ là một phần tử không thể thiếu được, bởi: ”Các thi nhân bao giờ cũng tiêu biểu cho một hoàn cảnh, một dân tộc” (Apollinaire)(10), hay nói như Blaise Cendrars: ”Nhà thơ là lương tri của thời đại mình”(11).

Từ Điêu tàn đến các tập thơ viết trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến, ta thấy quan niệm về phẩm chất khác thường của nhà thơ của Chế Lan Viên có một sự vận động. Song có thể nói đến Di cảo thơ thì quan niệm ấy đã được đẩy lên một tầng nghĩa mới bằng những hình ảnh có tính chất ”lạ hoá” là sản phẩm của một tư duy thơ đầy minh triết. Di cảo thơ là những tập thơ đánh dấu một thời kỳ sáng tác đặc biệt của Chế Lan Viên, thời kỳ đất nước chuyển mình từ chiến tranh sang hoà bình với bao nhiêu biến động của đời sống xã hội từ chính trị đến kinh tế, văn hoá mà đặc biệt là sự tác động của nền kinh tế thị trường. Có lẽ vì thế mà tư duy của ông lúc này cũng chuyển biến theo một chiều hướng khác, không còn cách nhìn đời hồn nhiên, trong sáng như thuở viết Anh sáng và phù sa, Hoa ngày thường chim báo bão, Đối thoại mới… nhưng cũng không phải đi vào cõi siêu hình thần bí như thuở Điêu tàn mà đi vào một cõi tâm linh mới, một thứ siêu hình mới mà ta có thể gọi tên là một kiểu biện chứng siêu hình. Chính vì thế quan niệm của Chế Lan Viên về phẩm chất khác thường của nhà thơ lúc này cũng mang nhiều sắc thái mới. Trong quan niệm của ông, thi sĩ phải là người: ”có tâm hồn đôi như cái bóng những đêm nhiều nến’’ (Tâm hồn đôi), là người’’ ăn vào cái giếng nội tâm’’:

Hàng ngày anh khoét sâu vào hang, vào giếng thẳm lòng mình xem cái vết thương nội tâm kia là tài sản (Giếng)

Nhà thơ còn phải là ‘’chiêm tinh’’, là người ‘’biết đánh hơi tài như kẻ đi săn’’ săn’’, là người ‘’ngậm ngải tìm trầm’’, là ‘’Đà đao múa kiếm’’…Và thiêng liêng hơn, nhà thơ còn phải như Prométheé – làm ra lửa cho đời, đốt cháy đời mình thành ngọn lửa: ”Thi sĩ, người làm ra lửa như Prométhée là kiểu ban đầu / Kiểu về cuối là kiểu Morixơn hay Thích Quảng Đức” (Giàn hoả).

Mặt khác, trước những nhiêu khê của cuộc sống đời thường những năm đất nước vừa mở cửa, khi mọi giá trị của đời sống vật chất lẫn tinh thần có nguy cơ bị đảo lộn, bị chi phối bởi nền kinh tế thị trường, thì hình ảnh nhà thơ cũng bị khúc xạ bởi đời sống xã hội. Và trong quan niệm Chế Lan Viên, hình ảnh nhà thơ cũng được nhìn nhận với một hệ qui chiếu khác. Có lúc ông ví nhà thơ như thần linh ‘‘Ngày ngày thèm mùi hương thắp bởi tuổi tên mình’’ (Thần và quỷ), như quỉ dữ: ‘’Có những nhà thơ không hoá thần mà hoá quỷ’’, như ”viên tướng tồi” hay ”vị vua hèn nhát” (Thất trận)…Có thể coi đây là những biếm hoạ về các nhà thơ không giữ được thiên chức của người nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp cho đời. Chế Lan Viên đã phác thảo chân dung của họ như một đối chứng để làm nổi bật phẩm chất cao đẹp cần có của mỗi nhà thơ. Riêng mình, cũng có lúc ông tự nhận ‘’là nhà thơ cưỡi trâu’’ (Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh). Nhưng dường như đó chỉ là một thoáng thở dài của ông trong thời buổi “Chả còn ai yêu vầng trăng và hương lúa ngoài đồng’’ (Thời thượng).

Như vậy, chân dung nhà thơ trong Di cảo thơ đã được Chế Lan Viên nhìn nhận trên nhiều bình diện khác nhau, vừa trần tục lại vừa thiêng liêng, vừa cao cả lại vừa thấp hèn, vừa hiện thực lại vừa hư ảo, vừa nhân bản lại vừa phi nhân bản. Cái nhìn đó đã phản ánh đúng thực tại cuộc sống lúc bấy giờ. Đó là cuộc sống mà mọi giá trị tinh thần đang bị đảo lộn, bị chiết toả bởi nền kinh tế thị trường. Nhưng sự thấp hèn, sự phi nhân bản được Chế Lan Viên đề cập đến chỉ là những ‘’âm bản’’, những chân dung phản diện để càng tôn lên những phẩm chất cao quí cần có ở mỗi nhà thơ, như Lê Thị Thanh Tâm đã nhận định: ”Đóng góp của Chế Lan Viên là đã thể hiện một cách tinh tế và sinh động cuộc sáng tạo của nhà thơ làm người ta có một bức tranh hoàn hảo về nhà thơ”(12). Quả thật, những quan niệm về phẩm chất khác thường của nhà thơ trong Di cảo thơ của Chế Lan Viên đã hình thành nên chân dung một kiểu nhà thơ mới: kiểu nhà thơ hiền triết, chiêm nghiệm nhưng cũng rất trần trụi giữa cuộc đời. Không huyền bí, không xa lạ, cao siêu như kiểu nhà thơ trong Điêu tàn hoặc hồn nhiên, lý tưởng như trong các tập thơ ra đời trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến, khuôn mặt nhà thơ trong Di cảo thơ như là sự trộn lẫn, sự vẽ lại khuôn mặt nhà thơ bằng sự hoà quyện giữa hai chân dung nhà thơ đã có trong hai giai đoạn trước để tạo thành một khuôn mặt mới, một kiểu nhà thơ mới trong một quan niệm mới về cách nhìn nhận cuộc đời, nhìn nhận thơ ca. Đây chính là sự vận động nhưng đồng thời cũng thể hiện sự nhất quán trong quan niệm của Chế Lan Viên về nhà thơ. Đối với ông, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhà thơ luôn là người nghệ sĩ có phẩm chất khác thường, nghĩa là người luôn có tâm hồn nhạy cảm, có tư duy minh triết, có cái nhìn thấu thị, có tâm thức mặc khải…Không có những yếu tố đó thì không thể gọi là nhà thơ.

Tuy nhiên, trong quan niệm của Chế Lan Viên, nhà thơ không chỉ là người có phẩm chất khác thường mà còn phải có cá tính sáng tạo và phong cách.

2. Nhà thơ phải có cá tính sáng tạo và phong cách

Nói đến cá tính sáng tạo và phong cách nhà thơ là nói đến một loại ”thước đo nghệ thuật” (Khrapchenkô)(13), bởi ”người nghệ sĩ đích thực, người nghệ sĩ có tài năng bao giờ cũng mang đến cho đời một cái gì mới, một cái gì riêng biệt chưa từng có. Chính cái mới, cái riêng biệt đó làm cho cuộc sống luôn luôn phong phú, lạ lùng, hấp dẫn” (Nguyễn Văn Hạnh)(14), bởi: ”Nếu cá tính nhà văn mờ nhạt, không tạo ra được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng, thì đó là một sự tự sát trong văn học, một lĩnh vực tối kỵ sự nhai lại ngay cả đối với những chân lý quan trọng” (Phương Lựu)(15). Có thể nói, đứng ở góc độ lý luận văn học, vấn đề cá tính sáng tạo và phong cách nhà văn có vai trò và ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp của một nhà văn. Là nhà thơ, lại là một người có tư duy lý luận sắc sảo, Chế Lan Viên luôn có ý thức rất lớn về vấn đề này. Ông cho rằng nhà thơ phải là người ”không nhai lại”, phải có ”cái tạng riêng”(16), có ”cách sút bóng riêng” trong ”Cái sân cỏ Trang Thơ nghìn thuở giống nhau” (Đá bóng) .

Trong quan niệm của Chế Lan Viên cá tính sáng tạo, phong cách của nhà thơ không chỉ đơn thuần là một yêu cầu của thi pháp thơ mà còn là ám ảnh của vô thức, là một phần thế giới tâm linh của nhà thơ:

Mỗi nhà thơ viết câu thơ theo số phận của mình, chẳng bắt chước ai. Tôi học phong cách đất ngoài vườn, mùa đến lại sinh sôi, Mặc kệ ai đấy là hoả diệm sơn phun lửa, Viết câu thơ ở thế đà đao, ở thế vu hồi. (Phong cách)

Ông đề cao sự sáng tạo của nhà thơ, sự không lặp lại chính mình. Ý thức ấy đã trở thành lòng tự trọng, một phẩm chất của người nghệ sĩ lớn nơi ông, chứ không dừng lại ở những vấn đề lý luận mang tính quan niệm. Chính vì thế trong sáng tạo ông rất khắt khe với bản thân mình: ”Còn hai năm, ba năm, thậm chí vài chục ngày, có kịp cho anh không?/ Có, nếu anh vào cái lõi,/ Hãy nghĩ các vị thầy sẽ về đọc anh / Đó là Nguyễn Du, Nguyễn Trãi…/ Các vị thích gì?/ Thích anh không nhai lại / Các thầy xưa./ Thích anh có văn phong thời anh, / các vị chưa biết đến bao giờ’‘ (Có kịp không). Ông còn quan niệm rằng: ”Nền thơ chung cần có nhiều cá tính riêng”(17). Theo Chế Lan Viên, ”Thơ của chúng ta đáng yêu ở chỗ nó làm giàu thêm cho chúng ta thực tế, tình cảm, tư tưởng, nhưng nó cũng đáng yêu là nó cũng làm giàu thêm cho chúng ta nhiều phong cách riêng để đi đến tiếp thu, yêu mến cái kho tàng chung ấy’‘(18). Và như một hệ quả tất yếu, chính sự đa phong cách của một nền thơ giúp người ta có thêm cách riêng để nhìn sự vật ”như trong một đội hợp xướng nhờ có mỗi nhạc khí riêng, ta càng hiểu được bản nhạc chung hơn. Và nếu thận trọng một tí, hẳn không ai dám chê cái đàn độc huyền một dây là nghèo âm thanh, hay bắt bẻ cây đàn tam thập lục lắm dây là rắc rối, cái ta cần chú ý là những cây đàn ấy đã gảy được điệu nhạc gì ?’’(19).

Cá tính sáng tạo trong quan niệm của Chế Lan Viên là một yếu tố động. Nó vận động và phát triển theo sự vận động và phát triển trong quá trình sáng tạo của nhà thơ. Vì vậy nhà thơ cần phải biết rèn luyện, tu dưỡng và phát huy cá tính sáng tạo của mình: ”Những nhà thơ đã có cá tính rồi, phát triển thêm nhiều mặt của cá tính ấy và làm cho các mặt chín ngang nhau. Những nhà thơ cá tính còn non, làm cho cá tính già dặn. Và những nhà thơ tình cờ làm được một bài có cá tính phải làm sao cho cái cá tính ấy lan ra được nhiều bài, làm cho về sau, cả ”đời thơ” mình là một đời thơ có cá tính”(20).

Rất đề cao cá tính sáng tạo xem nó là yếu tố quan trọng làm nên phong cách nhà thơ và khẳng định sự tồn tại của nhà thơ, chính vì vậy mà Chế Lan Viên đã nghiêm khắc lên án những nhà thơ do những yếu tố chủ quan hoặc khách quan nào đó đã đánh mất cá tính hoặc không dám bộc lộ hết cá tính của mình, đẩy tác phẩm của mình rơi vào tình trạng phi ngã hoá. Mặt khác, sự phê phán của ông còn hướng đến những loại ”nghệ sĩ con rối” không chủ động sáng tạo, không dám thể hiện hết cá tính của mình đến một lúc nào đó không còn là mình nữa:

Người diễn viên ấy đóng trăm vai vai nào cũng giỏi Chỉ một vai không đóng nổi: Vai mình ! (Thơ về thơ)

Sự cảnh báo của Chế Lan Viên về một kiểu nhà thơ, một kiểu nghệ sĩ như thế không phải chỉ đúng với thời đã qua, thời hiện tại mà còn đúng với mọi thời. Đây là một vấn đề có tính qui luật trong sáng tạo nghệ thuật nói chung và trong thơ ca nói riêng, cho nên ngay từ xưa Viên Mai trong Tuỳ viên thi thoại cũng đã cảnh báo: ”Làm người thì không nên có cái tôi, có cái tôi thì hay mắc bệnh kiêu căng cậy tài…Nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi. Không có cái tôi thì sẽ mắc phải cái tội cóp nhặt phô diễn” (21). Thế mới biết sự tinh tế, nhạy cảm và khả năng dự báo của tư duy thơ mang tính triết luận của Chế Lan Viên sâu sắc đến nhường nào.

Quan niệm về cá tính sáng tạo và phong cách của nhà thơ ở Chế Lan Viên không chỉ là vấn đề mang tính quan niệm riêng ông mà còn là vấn đề lý luận mà các nhà thơ đều quan tâm. Với Văn Cao, nhà thơ trong quá trình sáng tạo đều chọn cho mình một lối đi riêng, ”có người nói thẳng tới cái vô cùng tận của trời xanh; có người nói cái vô cùng tận của trời xanh qua cái rộng của biển. Cũng có người thấy trời xanh vô cùng tận trong bát nước và cũng có người chỉ nói tới một giọt ánh sáng để thấy cái vô cùng tận của trời xanh. Có người phải đi tìm con đường lớn mới thấy dấu xe trong một hạt bụi. Đấy là những điểm khác nhau giữa các nhà thơ”(22). Còn với Xuân Diệu, ông cho rằng cá tính sáng tạo không chỉ là một phẩm chất cần có của nhà thơ mà còn là yêu cầu tất yếu của người đọc đối với nhà thơ: ”dù muốn hay không muốn, trong văn học Việt Nam ta hiện giờ người tiêu thụ thơ tự giác hay không tự giác đã yêu cầu những người làm thơ cần phải có cá tính…”(23), ”Thơ phải rất sống, thơ phải cá thể hóa, thơ không có cái sắc nhọn cá thể hoá của sự sống thì người ta chẳng yêu thơ”(24).

Rõ ràng, giữa Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Văn Cao tuy mỗi người có cách biểu hiện khác nhau quan niệm của mình về cá tính sáng tạo, phong cách của nhà thơ nhưng họ đều thống nhất cho rằng đã là nhà thơ cần phải có cá tính sáng tạo, có phong cách và một nền thơ phải là sự kết tinh của nhiều cá tính, nhiều phong cách. Cá tính sáng tạo là yếu tố quan trọng tạo nên phong cách nhà thơ, là phẩm chất không thể thiếu khi đánh giá tài năng của một nhà thơ cũng như chất lượng của một nền thơ, một phong trào, một trào lưu, một giai đoạn thơ, như Chế Lan Viên đã viết: ‘’Một mùa xuân phải có những cây xuân. Một mùa thơ là phải có những cây thơ – những tác giả. Và những tác giả là phải có cá tính riêng biệt của mình. Khi trong nền thơ xuất hiện những nhà thơ có cá tính, điều ấy đâu có phải đánh dấu sự trưởng thành của họ mà chính là nó ghi lại sự tiến tới của phong trào. Phong trào đã tụ lại, kết tinh ở họ’’(25). Điều dị biệt giữa Chế Lan Viên với các nhà thơ khác ở chỗ ông là người nói nhiều, nói với một ý thức mạnh mẽ và luôn đề cao cá tính sáng tạo của nhà thơ. Vả lại, ông không chỉ trình bày quan niệm mà qua sáng tác ông luôn thể hiện mình là một nhà thơ có cá tính và phong cách đậm nét trong từng tác phẩm, từng câu chữ. Mặt khác, ông cũng là người lên án gay gắt sự đánh mất cá tính trong sáng tạo, chống lại quan niệm ‘’đồng phục’’ trong sáng tạo thi ca. Ông đã tự đặt vấn đề: ‘’Thử hỏi nếu dù thực tế trong thơ ta đem lại vĩ đại phong phú đến bao nhiêu đi nữa, tình cảm đắm đuối say mê bao nhiêu đi nữa nhưng tất cả tuyển tập thơ này chỉ là của một người, hay là của một trăm người nhưng lại nhất cử, nhất động giống nhau thế thì còn gì buồn tẻ và làm ta ‘’chán đời’’ hơn nữa’’(26).

Vì thế, trong thời kỳ kháng chiến, do sự tác động của hoàn cảnh lịch sử, người ta thường nhấn mạnh đến cái chung, đến ”tính đồng phục” trong thơ thì Chế Lan Viên lại nhấn mạnh đến cái riêng, đến cá tính sáng tạo. Đây không chỉ thể hiện một một bản lĩnh nghệ sĩ, một trí tuệ sắc sảo, mà còn là một đóng góp của Chế Lan Viên trong việc xây dựng một quan niệm đúng đắn về cá tính sáng tạo và phong cách của nhà thơ, góp phần hoàn chỉnh hệ thống lý luận về thơ trong hệ thống lý luận chung của nền văn học dân tộc. Và khi nhà thơ khẳng định cá tính sáng tạo của mình cũng có nghĩa là nhà thơ đã ý thức được trách nhiệm của mình trước cuộc đời. Và đây cũng là một bình diện khác trong quan niệm về nhà thơ của Chế Lan Viên

3. Nhà thơ phải có ý thức trách nhiệm trước cuộc đời

Nhà thơ Tố Hữu đã từng phát biểu: ”Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học”(27). Còn Chế Lan Viên thì cho rằng: ”Thơ là con đẻ của đời”. Quả vậy, dù cách nói khác nhau nhưng cả Tố Hữu và Chế Lan Viên đều đã khẳng định một nguyên tắc bất biến rằng văn học, thơ ca đều phải được bắt nguồn từ đời sống và phải phục vụ cho đời sống, ”cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học”. Với Chế Lan Viên, người đã thu nhận vào mình tinh hoa của hai nền văn hoá Đông Tây, thì nhận thức đó lại càng trở nên sâu sắc:

Trái đất rộng thêm ra một phần vì bởi các trang thơ Vì diện tích tâm hồn các nhà thi sĩ. (Sổ tay thơ)

Xuất phát từ việc nhận thức sứ mệnh thiêng liêng của thơ ca trong vấn đề phản ánh cuộc sống nên Chế Lan Viên rất đề cao vai trò trách nhiệm của nhà thơ trước cuộc đời. Với ông, đây là một nguyên tắc sáng tạo, một ý thức trách nhiệm của người cầm bút: ”Thơ cần có ích / Hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi”. Ý thức trách nhiệm của nhà thơ với nguyên tắc sáng tạo: ”Thơ cần có ích” không chỉ là một quan niệm thơ mà còn là khát vọng sống, khát vọng sáng tạo của mình. Và điều này được ông nói đến thật cảm động trong thơ:

Anh chỉ mong câu thơ anh sống khỏi một đêm, có ích quá một ngày Đúng cái đêm bà mẹ chết con cần một câu thơ cho đỡ khổ Đúng cái ngày người chiến sĩ trên chiến hào ôm xác bạn ngã vào tay. (Thơ bình phương – Đời lập phương)

Thơ là khoảng cách giữa những sự im lặng, bản chất của thơ là sự lắng đọng của nội tâm. Cái đẹp của thơ là cái đẹp của những khoảng lặng trong thế giới tâm hồn. Vì vậy trong quan niệm của Chế Lan Viên, trách nhiệm nhà thơ không phải lúc nào cũng đăng đàn, cũng ”gào thét” với những vần thơ suông mà cần phải quan tâm đến con người, đến cuộc đời từ những việc nhỏ nhoi nhất, bình thường nhất. Ông tâm niệm: ”Đừng làm những bài thơ ‘’lớn’’, suông mà không ai thèm đọc / Vì không lo cho việc nhỏ của đời./ Những tiếng gió quá dài nên nhân loại bỏ ngoài tai!” (Sổ tay thơ). Và: ”Đừng làm nhà thơ đi tìm kiếm sao Kim / Thứ vàng ấy, loài người chưa thiết đến.” (Sổ tay thơ). Chế Lan Viên là vậy đó: ồn ào mà lặng lẽ, phi thường mà cũng rất đỗi bình thường, lớn lao nhưng nhiều khi cũng lại rất nhỏ nhoi, cao đạo mà cũng rất bình dị. Phẩm chất ấy dường như là một sự biện chứng trong tư duy và tâm hồn Chế Lan Viên, và điều đó cũng thể hiện rất rõ trong quan niệm thơ của ông. Chế Lan Viên là người đã từng hùng hồn tuyên bố:

Thơ không phải chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh Thơ không phải chỉ ”ơi hời” mà còn đập bàn quát tháo lo toan (Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ..).

Nhưng rồi cũng chính ông lại đớn đau nhận ra rằng: ”Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng / Chỉ một đêm, còn sống có 30./ Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó ?/ Tôi ! Tôi – Người viết những câu thơ cổ võ / Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong” . Và ông cảm thấy xấu hổ khi: ”Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời,/ Tôi ú ớ / Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong / Mà tôi xấu hổ./ Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay / Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ / Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười” (Ai ? Tôi!). Dường như ở đây ta thấy nhà thơ đã tự mâu thuẫn với chính mình. Nhưng thực ra thiên chức nhà thơ dù cao cả đến đâu thì cũng không thể lý giải hết được những vấn đề đặt ra từ trong cuộc sống. Nếu ai đó tin rằng nhà thơ sẽ là cứu tinh của đời sống thì thiết nghĩ đó chỉ là ảo tưởng. Bởi, một thiên tài như Nguyễn Du mà trước những ‘’ bể dâu’’ của cuộc đời cũng chỉ biết ngậm ngùi than thở: ‘’Những điều trông thấy mà đau đớn lòng’’ (Truyện Kiều) Có thể thơ không giải đáp hết được những vấn đề của đời sống nhưng đã là nhà thơ phải biết đau trước nỗi đau của số phận con người. Đây chính là ý thức trách nhiệm của nhà thơ trước cuộc đời trong quan niệm của Chế Lan Viên:

Người ta đau gì đây ? Đau cái kiếp người Không phải kiếp đá – kiếp mây – kiếp chó… Người đau – dù nỗi đau vì mình hay đau trong sử Cũng chỉ vì mình là người. Thơ nói cho ra điều đó. (Thuốc)

”Nói cho ra điều đó”, nghĩa là nhà thơ phải quan tâm đến nỗi thống khổ, phải nghĩ đến những được mất của từng số phận con người, phải đồng hành với đồng bào mình, nhân dân mình: ”Là nhà thơ, anh sống nơi này mà phải nghĩ đến nơi kia,/ Nơi trên biên giới bây giờ đang chảy máu,/ Nơi những nhà đang thiếu gạo,/ Khác nơi đây anh đang yên ổn giữa gia đình” (Nơi kia). Như vậy, với Chế Lan Viên, nhà thơ không thể sống riêng lẻ giữa cuộc đời mà phải hòa mình trong cuộc sống cộng đồng. Trách nhiệm của nhà thơ trước cuộc đời trong quan niệm của Chế Lan Viên không chỉ là vấn đề ý thức, là sứ mệnh, mà theo ông còn là ”món nợ”, là sự ràng buộc của nhân duyên, của luân hồi chứ không phải đơn thuần chỉ là bổn phận: ”Nhà thơ, anh dành dụm từng xu nhỏ, đồng kẽm, đồng chì / Mà phải trả các món nợ, bán đời đi để trả / Vét cả tâm hồn, dốc cả hai túi áo ra không đủ. / Không phải anh nợ mà nhân loại nợ, người đọc nợ / Anh trả cho anh là trả giúp họ rồi” (Nơ). Và có lẽ con đường để trả món nợ nhân duyên, nhân quả ấy đối với nhà thơ không có cách nào tốt hơn là phải thanh lọc tâm hồn, phải ”dấn thân” (J.Sartre), phải” biến mình thành tiên tri thấu thị” (Rimbaud) trong nghề thơ, làm cho thơ đạt đến sự nhiệm mầu, sự linh diệu.

Trần Hoài Anh

Chú Thích:

(1), (10), (11) Lê Huy Hòa, Nguyễn Văn Bình biên soạn , Những bậc thầy văn chương, Nxb Văn học, H, 2002, tr.445, tr.599, tr.606 (2) Chế Lan Viên, Điêu tàn tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học, H, 2001, tr.7 (3) Vũ Tuấn Anh (tuyển chọn và giới thiệu), Chế Lan Viên, tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, H, 2001, tr.534. (4) Vũ Quần Phương, Hữu Nhuận (sưu tầm tuyển chọn), Tuyển tập Xuân Diệu tập II, Nxb Văn học, H, tr.103,tr.103 ( 5), (6) Chu Văn Sơn, Ba đỉnh cao Thơ Mới, Nxb Giáo dục, H, 2003, tr.231 (7), (8) Trần Đình Sử, Lý luận phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn, 1996, tr.113, tr.116 (9) Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam, Nxb Văn học, H,2003, tr.220 (12) Lê Thị Thanh Tâm, “Di cảo thơ Chế Lan Viên, sự nối tiếp sáng tạo một dòng thơ trí tuệ”, Những vấn đề văn hóa, văn học và ngôn ngữ học, Nxb Khoa học xã hội, H, 1999, tr.148 (13) M.B.Khrapchenko, Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002, tr.339 (14) Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương, Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, H,1999, tr.24 (15) Phương Lựu (chủ biên), Lý luận văn học tập I, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, 2002, tr.236 (16) Chế Lan Viên, Ngoại vi thơ, Nxb Thuận Hóa, 1987, tr.8 (17), (18), (19), (20), (25), (26) Chế Lan Viên, Phê bình văn học, Nxb Văn học 1962, tr.140, tr.140, tr.141, tr.143, tr.141, tr.141 (21) Khâu Chấn Thanh, Lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Văn học, H, 2001, tr.143 (22) Văn Cao, Tuyển tập thơ, Nxb Văn học, H, 1994, tr.154 (23), (24) Xuân Diệu, Công việc làm thơ, Nxb Văn học, H, 1994, tr.37, tr.38. (27) Tố Hữu, Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật, Nxb Văn học, H,1981, tr.115

Những Bài Thơ Hay Nhất Của Nhà Thơ Chế Lan Viên

Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Là một cây bút nổi bật với phong cách thơ kì dị, ám ảnh bởi những hình tượng tràn đầy sự ma quái. Sau cách mạng tháng 8, cũng như bao nhà thơ khác, Chế Lan Viên trở về với cuộc sống của nhân dân, trở về với đất nước khi tìm thấy cảm hứng thơ mới trước sự kêu gọi của thời đại. Ông đã để lại những tác phẩm vô cùng xuất sắc cho nền văn học Việt Nam. Những bài thơ tiêu biểu nhất của ông có thể kể đến những tác phẩm sau đây:

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hoá những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu

Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng? Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng

Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi? Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia

Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân

Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường Con đã đi nhưng con cần vượt nữa Cho con về gặp lại mẹ yêu thương

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa

Con nhớ anh con, người anh du kích Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con

Con nhớ em con, thằng em liên lạc Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư

Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau, mế thức một mùa dài Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương? Khi ta ở, chi là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương

Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương

Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi? Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga

Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao

Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa Nay trở về, ta lấy lại vàng ta

Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng? Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân

Bài thơ thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ Chế Lan Viên, thể hiện rất rõ những tư tưởng của nhà thơ. Đó là tư tưởng của nhân dân, hòa mình vào đời sống của nhân dân. Bai thơ là hành trình đi từ cái tôi chật hẹp sang cái ta rộng lớn. Nhà thơ khao khát được cống hiến cho công cuộc xây dựng đất nước.

2. Con cò

Con còn bế trên tay Con chưa biết con cò Nhưng trong lời mẹ hát Có cánh cò đang bay: “Con cò bay la Con cò bay lả Con cò Cổng Phủ Con cò Đồng Đăng…” Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ “Con cò ăn đêm Con cò xa tổ Cò gặp cành mềm Cò sợ xáo măng…” Ngủ yên, ngủ yên, cò ơi, chớ sợ Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân Con chưa biết con cò con vạc Con chưa biết những cành mềm mẹ hát Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân

II Ngủ yên, ngủ yên, ngủ yên Cho cò trắng đến làm quen Cò đứng ở quanh nôi Rồi cò vào trong tổ Con ngủ yên thì cò cũng ngủ Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi Mai khôn lớn, con theo cò đi học Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân Lớn lên, lớn lên, lớn lên… Con làm gì? Con làm thi sĩ Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ Trước hiên nhà Và trong hơi mát câu văn

III Dù ở gần con Dù ở xa con Lên rừng xuống bể Cò sẽ tìm con Cò mãi yêu con Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con À ơi! Một con cò thôi Con cò mẹ hát Cũng là cuộc đời Vỗ cánh qua nôi Ngủ đi, ngủ đi! Cho cánh cò, cánh vạc Cho cả sắc trời Đến hát Quanh nôi

Mượn hình tượng con cò để nói về công lao to lớn của người mẹ. Cảm nhận từ tình mẹ thiêng liêng, cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc của hình ảnh cò, tác giả Chế Lan Viên đã mượn chất liệu là những bài ca dao, dân ca Việt Nam để dệt nên bài thơ Con cò ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và nỗi nhọc nhằn nuôi con khôn lớn của người phụ nữ, người mẹ. Bài thơ đã nhanh chóng được mọi người biết đến và trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về tình mẹ.

3. Người đi tìm hình của nước

Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre

Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương

Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp Giấc mơ con đè nát cuộc đời con Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn

Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi Lòng ta thành con rối                          Cho cuộc đời giật dây

Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ Tìm đường đi cho dân tộc theo đi

Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước” Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người Một góc quê hương nửa đời quen thuộc Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi

Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai Thế đi đứng của toàn dân tộc Một cách vin hoa cho hai mươi lăm triệu con người

Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?

Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi Những đất tự do, những trời nô lệ Những con đường cách mạng đang tìm đi

Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa

Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây? Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử? Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?

Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao? Nụ cười sẽ ra sao?                        Ơi, độc lập! Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc Khi tự do về chói ở trên đầu

Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc Sao vàng bay theo liềm búa công nông

Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin

Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc “Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!” Hình của Đảng lồng trong hình của Nước Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười

Bác thấy:            dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt Ruộng theo trâu về lại với người cày Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc Không còn người bỏ xác bên đường ray

Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân Những kẻ quê mùa đã thành trí thức Tăm tối cần lao nay hoá những anh hùng

Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê Thành nước Việt nhân dân trong mát suối Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói Những đời thường cũng có bóng hoa che

Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc… Tuyết Mat-xcơ-va sáng ấy lạnh trăm lần Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân

Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất

Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai

Đây là bài thơ viết về hành trình tìm đường cứu nước của Bác, đó là một hành trình gian khổ và vất vả, song cũng là những bước chân đầy tự hào. Giọng thơ ca ngợi Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân, niềm thi hứng muôn thuở của thi ca Việt Nam.

4. Xuân

Tôi có chờ đâu, có đợi đâu Ðem chi xuân lại gợi thêm sầu? – Với tôi, tất cả như vô nghĩa Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

Ai đâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho tôi những lá vàng? Với của hoa tươi, muôn cánh rã Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!

Ai biết hồn tôi say mộng ảo Ý thu góp lại cản tình xuân?

Có một người nghèo không biết Tết Mang lì chiếc áo độ thu tàn!

Có đứa trẻ thơ không biết khóc Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran!

Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ! Một cánh chim thu lạc cuối ngàn

Bài thơ được viết trong phong trào thơ mới, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên trong giai đoạn này. Một hồn thơ buồn rầu không tìm được định hướng, tất cả đều chênh vênh, vô định. Bài thơ mang đậm âm hưởng của thời đại, viết về xuân nhưng thực chất chỉ là mượn hình ảnh để nói về tâm trạng khổ đau của con người.

Chế Lan Viên là một nhà thơ lớn, đầy sự trở trăn. Những bài thơ của ông đều là đỉnh cao trong việc sử dụng ngôn từ, có giá trị nghệ thuật và nội dung to lớn.

Thảo Nguyên

Thơ Tình Chế Lan Viên

VHSG- Lâu nay, khi nói hay viết về Chế Lan Viên, người ta thường chỉ biết Chế Lan Viên, một nhà thơ chính luận, thiên về triết lý, triết luận. Điều đó đúng, song, chưa đủ.

Chính vì thế, một lần, khi trả lời phỏng vấn của giáo sư văn học Đức, Gunter Giezenfild, Chế Lan Viên nói:

“Khi đã làm thơ thì không phải chỉ làm thơ chính trị (poème revolutionnaire) mà cả thơ tình (poème d’amour). Tiếp đến, ông còn nhấn mạnh: “Thơ tình, thơ về hoa, về cuộc đời bình thường rất cần thiết. Cần núi cao (haute montagne) của chủ nghĩa anh hùng (heroisme) nhưng cần các đồng bằng (plaine) của đời sống hằng ngày (quotidienne)”.

Chế Lan Viên ý thức về mảng thơ đời thường. Trong bài “Thơ bình phương-Đời lập phương”, nhà thơ viết: “Thơ ra đời ở thung lũng tình yêu, ở vịnh biệt ly, ở đỉnh suy tư, khúc eo tưởng nhớ”. Hóa ra, thơ đi ra từ những những vịnh, những eo, những thung lũng, những đỉnh như vậy

Thơ tình Chế Lan Viên không giống thơ tình của Xuân Diệu. Tình yêu ở đây không có hò hẹn, không có “ngó trên tay điếu thuốc cháy lụi dần” của Hồ Dzếnh, không có kiểu “gặp em thơ thẩn bên vườn hạnh / hỏi mãi mà em chẳng trả lời” của Thái Can, lại càng không có kiểu yêu đương như các nhà thơ trẻ hiện đại. Thơ tình Chế Lan Viên có chút gì đó vừa của ca dao, của Nguyễn Trãi, vừa của Trần Tế Xương, của Tản Đà,… Thơ tình Chế Lan Viên làm nên một thế giới nghệ thuật riêng, trong đó thời gian và không gian được cá thể hóa, vĩnh cửu hóa, gắn với chủ thể trữ tình trong từng bài thơ.

Tình ca ban mai, bài thơ nằm trong tập Ánh sáng và phù sa, có 14 câu, viết theo thể thơ 5 chữ, lấy các thời khắc của một ngày để nói nỗi thương nhớ của mình, lấy cái cụ thể (em) để nêu lên cái trừu tượng (thời gian), rồi phả lên đó những cung bậc của tình yêu. Nhà thơ so sánh em với chiều (Em đi, như chiều đi), với mai (Em về, tựa mai về), với trưa (Em ở, trời trưa ở), với khuya (Tình em như sao khuya). Nghĩa là, có em là có tất cả, thiếu em là thiếu tất cả. Bài thơ trong trẻo, có ánh sáng của ban mai, có màu xanh của lộc nỏn, có màu vàng của nắng trưa, có hạt vàng của trăng khuya. Bài thơ kết thúc bằng một hình tượng được nhân cách hóa : Mai, hoa em lại về. Cả bài thơ không nói gì đến hoa, chỉ đến cuối bài mới nói đến. Lại một kiểu tư duy của Đường thi “nhân diện đào hoa tương ánh hồng”. Tình yêu đã mang lại sự huyền diệu, tựa hồ như hạt vàng rải xuống thế gian : Tình em như sao khuya/ Rải hạt vàng chi chít , để rồi Tình ta như lộc biếc/ Gọi ban mai lại về. Bài thơ có tên “Tình ca ban mai” là như vậy.

Trong thơ Chế Lan Viên, có một hình ảnh thường xuyên xuất hiện, đó là “bể”. Cũng có thể nói, “bể” trở thành một không gian nghệ thuật riêng biệt, chỉ thấy ở Chế Lan Viên. Hình tượng này đa nghĩa. Đó là:

Xanh biếc màu xanh, bể như hàng nghìn mùa thu qua còn để tâm hồn nằm đọng lại Sóng như hàng nghìn trưa xanh trời đã tan xanh ra thành bể và thôi không trở lại làm trời Nếu núi là con trai, thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương đã biến thành con gái Bể đổi thay như lòng ta thay mùa, thay cảm xúc Lật từng trang mây nước lạ lòng ta 

(Cành phong lan bể)

Bể nghìn đời mà mãi mãi thanh tân… 

(Bể và Người)

Những người xa quê hương Sao phải nằm cạnh bể.

(Nghe sóng)

Những năm đầu 1960 là thời điểm của sự phục hưng nơi tâm hồn Chế Lan Viên. Nhà thơ viết nhiều bài thơ về tình yêu như Nhớ, Trời đã lạnh rồi, Nhớ em nơi huyện nhỏ, Hoa những ngày thường, Quả vải vào mùa, Cây dẫn về em, trong đó có Chùm nhỏ thơ yêu. Tác giả gọi là chùm nhưng chỉ có 8 câu, viết vào tháng 8-1962:

Anh cách em như đất liền xa cách bể Nửa đêm sâu nằm lắng sóng phương em Em thân thuộc sao thành xa lạ thế Sắp gặp em rồi sóng lại đẩy xa thêm

Anh không ngủ. Phải vì em đang nhớ Một trời sao rực cháy giữa đôi ta Em nhắm mắt cho lòng anh lặng gió Cho sao trời yên rụng một đêm hoa.

“Bể” và “đất liền” hai thực thể xa nhau, hai không gian cách vời, xa thẳm. Giữa hai không gian đó, có “anh”, “em” và nỗi nhớ. Hai phương trời xa lăng lắc, có một người “không ngủ” và một người “đang nhớ”, khiến “cho sao trời yên rụng một đêm hoa”.                          

Nhớ là bài thơ viết theo thể lục bát, xinh gọn. Sự chờ đợi bao giờ cũng dài, cũng đầy khát khao và ước vọng. Chỉ còn đêm nay thôi, sáng ra, là gặp nhau mà sao như một năm dài dằng dặc:

Sáng ra đã gặp em rồi

Còn đêm nay nữa sao dài bằng năm

Ước bay đến chỗ em nằm             

Cùng chung đợi sáng, tay cầm trong tay.

Cách so sánh tựa hồ như Nguyễn Du đã từng nói, “ba thu dọn lại một ngày dài ghê”.

Trong nhiều bài thơ lục bát của Chế Lan Viên, có bài Hoa tháng ba, nằm trong tập Đối thoại mới, nói được thật nhiều cảm xúc của tình yêu:

Tháng ba nở trắng hoa xoan

Sáng ra mặt đất lan tràn mùi hương

Không em, anh chẳng qua vườn

Sợ mùi hương… sợ mùi hương… nhắc mình.

Mùa xuân gắn liền với sự ra hoa của cây xoan. Xoan nở trắng cành, đầy hương. Hai câu đầu là thời – gian – hoa. Thời gian của tháng ba, thời gian của buổi sáng gắn liền với hương và hoa xoan. Hai câu sau gắn với không – gian – nỗi nhớ. Bài thơ có ba chủ thể : Hoa-Em-Anh. Giữa ba chủ thể là nỗi nhớ. Nỗi nhớ lại gắn với mùi hương. Chú ý cách sử dụng dấu ba chấm (…), nhịp lẻ 3/3/2, mới thấy tâm trạng của tác giả. Có chút gì đấy vừa bâng khuâng, thương nhớ, vừa ngọt ngào xa vắng, thoáng những ngùi thương, đánh đắm cảm xúc. Các câu thơ thật bình dị, sâu lắng. Bài thơ dịu dàng và tinh tế, được viết ra từ một trái tim tha thiết và nồng nàn trong tình yêu.

Chế Lan Viên có bài tứ tuyệt vào loại hay nhất trong thơ Việt hiện đại, bài Lòng anh làm bến thu:

Buổi sáng em xa chi Cho chiều, mùa thu đến Để lòng anh hóa bến Nghe thuyền em ra đi!

Nhiều tuyển tập thơ tình đã tuyển bài thơ này. Bài thơ cũng được chọn và đưa vào trong Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam (NXB Văn học, HN, 2000) của Nguyễn Vũ Tiềm. Đây là một trong những bài thơ ngũ ngôn đặc sắc, thường được nhắc đến của Chế Lan Viên. Tứ tuyệt Chế Lan Viên vừa mang hơi thở truyền thống vừa toát lên nét đẹp hiện đại, bát ngát cảm xúc và dồi dào suy tưởng, cái đẹp của đời thường quyện trong chiều sâu của triết học, câu chữ chân thật lại âm vang dằng dặc. Tác giả hóa thân thành một bến thu, nằm nghe chiếc  thuyền – em, chầm chậm, rời bến. Thuyền đã đi. Bến ở lại. Ở lại với một mùa thu trống trải, cách vời nhung nhớ. Thời gian vật lý chỉ từ sáng sang chiều nhưng kéo theo sau nó là thời gian tâm trạng.

Bến và thuyền vốn là những hình ảnh quen thuộc trong ca dao cổ: Thuyền ơi, có nhớ bến chăng / Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền. Ở đây, mô típ thuyền – bến được vận dụng tài tình, sáng tạo bằng chiều sâu cảm nghĩ. Chế Lan Viên đã đổi mới ngôn ngữ, thổi vào đó những cung bậc tình yêu, đằm thắm, tinh tế. Cũng mô típ này, Nguyễn Bính từng có bốn câu thơ xuất sắc, có điều, chỉ khác về chủ thể của tình yêu:

Hôm qua dưới bến xuôi đò

Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau

Anh đi đấy, anh về đâu

Cánh buồm nâu…cánh buồm nâu… cánh buồm.

Xưa nay vẫn thế. Tình yêu không thể tách khỏi thời gian và không gian. Tâm lý, tình cảm của con người tồn tại và đan xen trong hai thực thể đó. Chế Lan Viên cũng vậy. Có điều là, thời gian và không gian trong thơ tình Chế Lan Viên thường lấy cái khoảnh khắc để vĩnh cửu hóa tâm trạng. Từ một cơn gió mùa từ phương bắc thổi về, se lạnh đất trời khiến nhà thơ nghĩ về tình yêu đôi lứa. Từ vựng chỉ về số (hai lần/ lần trước/ lần sau) và sự lặp từ (gió mùa đông bắc/ gió mùa/ gió mùa đông) được sử dụng trong bài thơ đã vượt lên tính cụ thể, trở thành biểu tượng của nhớ thương:

Từ lúc em ra đi, hai lần gió mùa đông bắc thổi qua phòng

Lần trước lạnh vừa, lần sau lạnh gắt

Ở đất nước đánh giặc này, ta chỉ sợ gió mùa, không sợ giặc

Chỉ sợ lòng mình, ai sợ gió mùa đông

(Gió mùa đông bắc)

Một cảm nhận độc đáo, một so sánh tài tình giữa cơn gió mùa với sự chung thủy trong tình yêu: Không sợ gió mùa. Không sợ giặc. Chỉ sợ lòng mình.

Ở một bài thơ khác, bài Trận đánh, nhà thơ đã mô tả tâm hồn mình như chiến trận. Một cuộc chiến tâm tình không ngang sức. Cũng là lối so sánh đầy cá tính. Chỉ bốn câu:

Em ra đi, anh dọn lòng anh lại

Một mình anh, trận đánh chẳng cân bằng

Một mình anh chống với cả mùa mưa lũ

Với cả màu mây trắng, chỉ mình anh.

Nỗi cô đơn trong bài thơ như dài rộng, trăm mối. Một mình chống lại đất trời, lòng người. Một trận – đánh – tâm – hồn, chẳng cân bằng. Đúng như ai đó từng nói, “thiếu một là thiếu tất cả”. Ở một bài thơ khác, bài Mây của em:

Màu trắng là màu mây của em

Em đi muôn dặm thư về chậm

Chỉ lấy màu mây trắng nhắn tin.

Màu trắng của đám mây, trôi ngang qua khung trời nhung nhớ, đan xen những hình ảnh: mây trắng – em – nỗi nhớ, lồng vào nhau, gợi mãi không thôi. Hai phương trời chỉ một phong thư: mây trắng nhắn tin.

Trong tập Hái theo mùa, có một bài thơ tình xinh xắn, bài Tập qua hàng. Bài thơ pha trộn và đi giữa ngôn ngữ và tình yêu. Tình yêu khiến cho nhà thơ như bâng khuâng, ngập ngừng, khó nói trọn lời. Hãy xem diễn đạt của tác giả thì rõ. Một bài thơ bảy chữ, viết theo kiểu qua hàng của lối thơ vắt dòng, đúng âm vận và luật nhưng cũng có thể hiểu theo kiểu thơ tự do, thơ văn xuôi. Nỗi chờ đợi như kéo dài ra, khiến thời gian cũng nhuốm cả tâm tình tác giả. Khách thể hóa tâm trạng bằng những hình ảnh: nắng, cây, ngõ, bướm và choàng lên đó các cung bậc của mong, nhớ, chờ, làm cho toàn bộ bài thơ thành một không gian tâm tưởng của cô đơn, khắc tạc vào một ngày và chỉ một ngày nữa thôi:

Chỉ một ngày nữa thôi. Em sẽ

trở về. Nắng sáng cũng mong. Cây

cũng nhớ. Ngõ cũng chờ. Và bướm

cũng thêm màu trên cánh đang bay.

   *

Thơ tình Chế Lan Viên đa dạng trong việc chọn thể loại và diễn đạt. Câu thơ có lúc thật ngắn, có lúc thật dài. Bài thơ có khi là lục bát, có khi là tứ tuyệt. Đặc biệt và tài hoa là khi sử dụng hình ảnh. Hình ảnh đa nghĩa, giàu suy tưởng. Thơ tình làm nên nét riêng trong thế giới nghệ thuật của Chế Lan Viên.

TS. HUỲNH VĂN HOA

Xem Bài Thơ Những Bài Dịch Thơ Xuất Sắc Của Chế Lan Viên, Đọc Bài Thơ Những Bài Dịch Thơ Xuất Sắc Của Chế Lan Viên Chi Tiết

Chế Lan Viên tên thật Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 14/1/1920 ở Cam Lộ, Quảng Trị. Lên 7 tuổi, cả nhà chuyển vào Bình Ðịnh, bút danh Mai Lĩnh, Thạch Hãn, Thạch Mai. Năm 17 tuổi, nổi tiếng với tác phẩm Ðiêu tàn. Năm 1939, Chế Lan Viên ra Hà Nội học, vào Sài Gòn làm báo, lại về Huế dạy học. Khoảng 1942, ra Vàng sao, viết tập truyện ngắn Gai lửa. Sau Cách mạng tháng 8, làm báo Quyết thắng của Việt Minh Trung Bộ… Năm 1949, Chế Lan Viên vào Ðảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều năm ông tham gia ban lãnh đạo Hội nhà văn Việt Nam, Ðại biểu Quốc hội các khoá 4, 5, 6, 7.

Tác phẩm đã xuất bản:

La fe, jamás.

Cuanto menos aire, más.

Cuanto más sediento, más.

Nhưng lòng tin, quyết không bao giờ thiếu được

Càng ít khí trời, càng thêm có lòng tin

Hẳn thế rồi! Phải thêm nữa lòng tin

Bài Dịch Của Chế Lan Viên Bài Dich Của Chế Lan Viên

La bannière étoilée a retrouvé ses origines

C’est l’Algérie plus libre que jamais

Elle a toujours été libre

Ironiquement souveraine

Armée par l’ennemi

Prisonnier de ses propres pièges

Ce n’est pas la lligne Morice

Qui tue

C’est le mortier bien nourri

Les grottes flamboyantes

Les caravanes de la nuit

C’est le sourire au combat

Et la Joconde ignorée

Partout déferle

Et se révèle

L’armée inespérée

Des paysans sans terre

Et le vieillard sort de ses ruines

Pour offrir son dernier mouton

Trước dân tộc này đang buổi bình minh

Những lò sát sinh đang diễu qua

Những bầy chó điên cuồng

Không muốn khóc

Chẳng phải là phòng tuyến dây gai Mô-rít

Có thể giết

Mà chính là súng moóc-chi-ê nhả đạn liên hồi

Là những hang sâu rực lửa

Là những đoàn quân trong đêm dài

Là, chiến đấu, trên môi vẫn giữ nụ cười

Là nàng Giô-công không ai biết

Ngày mọc lên

Quên đi đói nghèo cơ cực

Những áo quần rách nát

Bàn tay ngửa ra xin

Những đôi giày đau, chật

Và mãi mãi đưa cao quả đấm của nhân dân

Trong tiếng nổ liên thanh lò lửa cháy ngầm

Không phải chết mà là phải sống

Trên vết chân những cặp tình nhân

Cỏ đâm chồi trăm hoa về góp mặt

Ở đâu có con người đặt bước

Trong đông hàn ta cảm thấy mùa xuân

Rét rỉ tan trong một chiếc hôn

Quần chúng là quần chúng đầy hạnh phúc

Những trẻ thơ là tất cả chân trời

Hoà bình làm trẻ lại con người

Chúng ta chẳng còn bao giờ nghĩ đến việc cần giữ ý

Mùa xuân mùa hạ khi mưa khi chói mặt trời

Êm ả mùa thu, mùa đông hy vọng cháy ngời

Trên biên giới của thời gian không gian bát ngát

Chỉ còn có anh em tình người gắn chặt

Chỉ còn chung một bình minh và chung một hoàng hôn

Mùa xuân mùa hạ mùa thu mùa đông

Vang và bóng của cuộc đời vô tận

Những Bài Thơ Hay Nhất Của Chế Lan Viên Đi Cùng Năm Tháng

Những bài thơ hay nhất của Chế Lan Viên đi cùng năm tháng. Chế Lan Viên là một nhà thơ lớn của Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với những bài thơ nổi tiếng như “Tiếng Hát Con Tàu”, “Người Đi Tìm Hình Của Nước”, tập thơ “Điêu Tàn:…và nhiều bài thơ nổi tiếng khác.

Phong cách sáng tác của ông được chia làm hai giai đoạn rạch ròi: trước và sau chách mạng Tháng 8. Hai giai đoạn đối lập nhau về phong cách sáng tác. Nếu như trước cách mạng là những bài thơ chán đời, điêu tàn thì sau cách mạng lại là những bài thơ dạt dào sức sống.

I. Những bài thơ hay nhất của Chế Lan Viên “sống” mãi cùng thời gian

Bài: Nhớ Em Nơi Huyện Nhỏ em đi về Kiến Xương mùa này mưa bão lắm phòng anh mờ hơi sương nhớ em nhu nhớ nắng

Thức dậy vì tiếng bom Bỗng gặp đêm trăng sáng Chói loà trên sông vắng Chói nửa màn em nằm Cả đêm trăng sáng rỡ Chỉ màu trăng là có Còn chiến tranh là không.

I Con còn bế trên tay Con chưa biết con cò Nhưng trong lời mẹ hát Có cánh cò đang bay: “Con cò bay la Con cò bay lả Con cò Cổng Phủ Con cò Đồng Đăng…” Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ “Con cò ăn đêm Con cò xa tổ Cò gặp cành mềm Cò sợ xáo măng…” Ngủ yên, ngủ yên, cò ơi, chớ sợ Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân Con chưa biết con cò con vạc Con chưa biết những cành mềm mẹ hát Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân

II Ngủ yên, ngủ yên, ngủ yên Cho cò trắng đến làm quen Cò đứng ở quanh nôi Rồi cò vào trong tổ Con ngủ yên thì cò cũng ngủ Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi Mai khôn lớn, con theo cò đi học Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân Lớn lên, lớn lên, lớn lên… Con làm gì? Con làm thi sĩ Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ Trước hiên nhà Và trong hơi mát câu văn

III Dù ở gần con Dù ở xa con Lên rừng xuống bể Cò sẽ tìm con Cò mãi yêu con Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con À ơi! Một con cò thôi Con cò mẹ hát Cũng là cuộc đời Vỗ cánh qua nôi Ngủ đi, ngủ đi! Cho cánh cò, cánh vạc Cho cả sắc trời Đến hát Quanh nôi

Em đi, như chiều đi Gọi chim vườn bay hết

Em về tựa mai về Rừng non xanh lộc biếc

Em ở, trời trưa ở Nắng sáng màu xanh tre

Tình em như sao khuya Rải hạt vàng chi chít

Sợ gì chim bay đi Mang bóng chiều đi hết

Tình ta như lộc biếc Gọi ban mai lại về

Dù nắng trưa không ở Ta vẫn còn sao khuya

Hạnh phúc trên đầu ta Mọc sao vàng chi chít

Mai, hoa em lại về…

Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ Quay về xem non nước giống dân Hời

Trưa quanh vườn. Và võng gió an lành Ngang phòng trưa, ru hồn nhẹ cây xanh.

Trưa! Một ít trưa, lạc vào lăng tẩm, Nhập làm hồn những tượng xưa u thảm.

Đọc Lại Một Số Câu Thơ Luận Về Thơ Chế Lan Viên

Người làm thơ như chàng Prométe đi tìm lửa, thật gian khó mới đến lúc gây ra một đám cháy trong hồn – mới tìm ra thơ.

Phải mang con mắt thời đại anh để nhìn trời mưa cũ

Và mỗi bài thơ, khi thoát thai đều mang một giá trị thẩm mỹ, bước ra và đem đến cho đời; mỗi câu thơ đều muốn hóa tin lành, đều sửa soạn một nắng mai lên.

Thơ dựng lại những khoảnh khắc của thời đại, để cho mọi người nghe được năm tháng mình đang sống, hiểu được những tâm tình, trước hết là những tâm tình nhà thơ tự giải tỏa, sau đó sẻ chia với mọi người.

Hoạt động sáng tạo của nhà thơ gắn liền với thời đại, điều đó thể hiện ở chất liệu nghệ thuật lấy từ cuộc sống, ở xu hướng thi pháp chung của từng thời kỳ nhất định, ở quan điểm tư tưởng nhân sinh quan, lý tưởng nghệ thuật… Nhà thơ phải đặt mình trong mối quan hệ thẩm mỹ với cuộc sống thời đại, phản ánh đúng những giá trị thẩm mỹ của thời đại. Vẫn là cơn mưa cũ, cơn mưa của muôn đời, nhưng nhà thơ phải mang con mắt thời đại mình để nhìn trời mưa cũ ấy:Vô vàn thi nhân trước anh đã viết về thơMắt anh chả còn hồn nhiên đâu sau nhiều từ ngữKhéo cơn mưa anh viết bây giờ là cơn mưa của họ.

NGƯỜI ĐI DỌC NGÂN HÀ

Mỗi nhà thơ tự làm một cuộc hành trình cho mình. Họ bước lang thang giữa cuộc đời bên bờ thời gian thăm thẳm. Họ đi qua cuộc đời không như chúng ta đã đi một cách vô tư. Trên những chặng đường của cuộc hành trình vốn ngắn ngủi nhà thơ biết dừng lại bên một lối mòn, một canh khuya, hay một buổi mai nào đó và lắng nghe tiếng thời gian xuôi chảy. Có thể nói nhà thơ là những con người ý thức về thời gian một cách da diết, bởi đối với họ thời gian đi ngược lại với cái khát khao vươn tới, đạt tới sự hoàn thiện trong sáng tạo nghệ thuật.

Nhưng dù có hì hục, cần mẫn đến thế nào nhà thơ vẫn thấy mình tài năng chưa đầy nửa giọt/ Có hộc tốc chạy đến hết chân trời cũng là đồ bất lực. Nhà thơ nhìn trang giấy biết mình hữu hạn, có chạy ngút hơi về trang giấy/ Về đến nơi/ Nó đã hóa chân trời. Chạy tiếp ư? Nhà thơ không ngần ngại, dẫu trang giấy trắng vẫn như con đường hun hút về vô tận. Cái trò đuổi bắt này như nhà thơ suốt đời xâu sợi chỉ vào cây kim ngay trước mặt/ Chỉ sắp lọt rồi/ Kim bỗng lùi xa, nhà thơ bước lên một bước/ Kim lùi thêm một bước. Nhà thơ chạy một đời không ngừng nghỉ, vắt kiệt sức lực, mà vẫn toi công. Nhà thơ có hóa thành chim gõ kiến gõ vào thời gian/ Gõ vào số phận…/ Gõ vào trang giấy/ Vào câu thơ gầy guộc…/ Chả ra được con kiến thơ nào, hay có làm chim bói cá tìm đến hồ, cái mặt hồ phẳng lặng/ Từng soi bóng muôn đời thi sĩ ấy/ Khi anh đến/ Thì hồ biến thành ra bể/ Ầm ầm/ Ĩ ĩ/ Anh chỉ bói ra bèo bọt quanh bờ. Hỡi ôi! Đời người, đời thơ có hạn, mà đỉnh cao của nghệ thuật cứ lửng lơ phía vô cùng, mà thời gian không đợi, mà tài năng không gặp:Tài năng ở đâu? Tài năng ở đâu?Cho tôi với!Trên trời cao hay dưới bể sâu?Chỉ cho tôi để tôi tiến tớiKhốn nỗiNó ở bên kia bể thời gian không ai chờ đợi.

Lê Quốc Sinh(Q. Gò Vấp, TP.HCM)Tuần Báo Văn Nghệ chúng tôi số 376

Cập nhật thông tin chi tiết về Nhà Thơ Trong Quan Niệm Của Chế Lan Viên trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!