Bạn đang xem bài viết Pleiku, Thơ Và Thi Nhân được cập nhật mới nhất trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Pleiku, Thơ và Thi Nhân
Nguyễn Mạnh Trinh
Có lẽ không có một thành phố nào như Pleiku được nhắc nhở nhiều đến như vậy trong văn học Việt nam. Những thi văn sĩ, đã sống và thở ở không gian đó, đã trải qua những ngày tháng tao loạn chiến tranh, nên tác phẩm của họ đã biểu hiện sinh động được tâm cảm của những người lính thú hay những nàng chinh phụ của một thời đại chiến tranh.
Với tôi, phố núi Pleiku gợi lại cho tôi rất nhiều vần thơ. Có thể là của riêng tôi mà cũng là của rất nhiều thi sĩ đã gần gũi với thành phố ấy. Thêm vào nữa, Pleiku còn là cả một kho tàng kỷ niệm của riêng tôi..
Ngay ngày đầu tiên đến Pleiku, tôi đã cảm thấy như mình là một dòng sông đang đến một khúc quành.
Năm tôi lên nơi chốn ấy, tôi vừa đến cái tuổi đôi mươi. Hai mươi tuổi, tâm hồn lúc ấy trắng bong, tràn đầy mơ với mộng. Chưa có kinh nghiệm trường đời nên thường phản ứng trước những điều mà mình thấy không vừa lòng. Tuổi trẻ lại hay thích thoải mái không ưa sự gò bó nên dù ở Nha Trang phong cảnh sơn thủy cũng hữu tình lắm nên khoái chuyện giang hồ lang thang. Ở đâu cũng xa nhà nên tôi tình nguyện đi biệt đội Pleiku mút mùa lệ thủy và khi lập không đoàn thì cũng là một trong những sĩ quan thuộc hàng khai sơn phá thạch của đơn vị kỹ thuật ở đây…
Thời gian ở thành phố biên trấn này chỉ hơn hai năm mà sao tràn đầy kỷ niệm. Có những lúc, cơm xấy đồ hộp ngày này qua tháng khác mà vẫn vui. Lãnh lương xong, chỉ một vài ngày là sạch nhẵn, thế mà tối nào cũng lang thang ở phố đến nửa đêm mới mò về phi trường. Ở đây, biết bao nhiêu đứa bạn, buổi sáng còn đùa giỡn chọc ghẹo nhau mà vài tiếng đống hồ sau thân xác đã thành sương khói cho những phi vụ không về. Ở đây có sáng mù sương, thấy đời mỏi mệt như chiếc xe dodge của biệt đội ì ạch leo lên đầu dốc. Dù rằng lúc ấy tôi chỉ vừa hai mươi tuổi…
Cảm giác đầu tiên của tôi khi đến Pleiku thật là lạ lùng.
Ngày đầu tiên khi tôi từ Nha Trang xuống phi trường Cù Hanh là một ngày mưa u ám. Phi cơ trực thăng khi bay qua Khánh Dương bị bắn và tôi hiểu chiến tranh đã đón chào tên lính trẻ làm thân lính thú đồn xa như thế. Mưa sủi bọt trên mặt nhựa phi đạo và bầu trời nặng nề u ám mầu mây đen. Gió ào ạt lồng lộng ngoài kia khiến cho tôi thấy mình quá nhỏ nhoi trong cái buồn mênh mang của đất trời. Lúc ấy, tôi thấy những câu thơ vẩn vơ trong óc. của Kim Tuấn, Vũ Hữu Định, Nguyễn Bắc Sơn,… Thơ tự nhiên thành một phần của một ngày, một tháng, một năm,… của riêng tôi. Thơ để quên đi hiện tại. Những giọt mưa quất vào mặt, buốt rát. Những ngọn gió thốc vào ngực.Nặng tê… Tự nhiên tôi thấy mình thật gần gũi thân thiết với những vần thơ biết là bao nhiêu. Có lúc, tôi nghĩ thi ca là một phần đời sống mình…
Thi sĩ làm thơ cho Pleiku thì rất đông đảo. Và thơ hay cũng nhiều lắm, mỗi bài có ý vị riêng, có phong thái riêng. Tôi bắt đầu với nhà thơ Vũ Hữu Đinh…
Nếu nói bài thơ “Còn Một Chút Gì Để Nhớ” của thi sĩ họ Vũ đã làm cho Pleiku trở thành một nơi chốn cực kỳ lãng mạn và thơ mộng của thi ca Việt Nam thì cũng chắng phải là ngoa ngôn, những câu thơ dễ thương của một vài con phố nhỏ heo hút của vùng cao nguyên, với hình tượng của “Em”, của thời tiết lạnh lạnh để má em thắm để môi em hồng. Có ai hỏi là những nhân dáng này có thật không trong đời sống của người làm thơ không thì nhà thơ họ Vũ đã trả lời rằng đó chỉ là hình tượng tổng hợp từ nhiều hình ảnh trong thực tế để tổng hợp thành một hình tượng tuyệt diệu của tưởng tượng, của hư cấu. Và trong cái không gian của một phố núi nhỏ nhoi, con người thi sĩ và cảnh vật cũng như thiên nhiên ở đây hình như thở chung một nhịp đập của trái tim tràn cảm xúc. Con phố hoang sơ lạnh lùng nhưng dường như có một tâm hồn mà người thơ cảm thông được, hiểu được từ nỗi cô đơn mà trời riêng dành cho người là thơ.
Bài thơ ấy gồm chỉ mười hai câu thơ thôi mà chuyên chở rất nhiều tình, ý. Thơ có thiên nhiên hòa hợp với con người. Thơ làm đời sống có nhiều chất thơ hơn để quên đi những ám ảnh của chiến tranh: “Phố núi cao phố núi đầy sương phố núi cây xanh trời thấp thật gần anh khách lạ đi lên đi xuống may mà có em đời còn dễ thương phố núi cao phố núi trời gần phố xá không xa nên phố tình thân đi dăm phút đã về chốn cũ một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng em Pkeiku má đỏ môi hồng ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông nên mắt em ướt và tóc em ướt da em mềm như mây chiều trong xin cảm ơn thành phố có em xin cảm ơn một mái tóc mềm mai xa lắc trên đồn biên giới còn một chút gì để nhớ để quên.”
Hình như về sau này, khi Cộng sản chiếm miền Nam, thì trong các tuyển tập thơ có trích đăng bài này. Bài thơ này hình như vượt qua được giới tuyến của chiến tranh để trở thành một tài sãn văn hóa của dân tộc…
Bài thơ này được trích đăng hoặc in trong nhiều tuyển tập thơ xuất bản ở trong nước, nhưng không phải là nguyên văn bài thơ. Thí dụ như hai câu thơ cuối thì nguyên bản là “mai xa lắc trên đồn biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“ Thì sửa lại là “mai xa lắc trên đồi biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“. Chỉ sửa có một chữ mà ý tưởng đã khác nhau nhiều!
Tôi không rõ Vũ Hữu Định viết bài thơ này trong thời gian nào nhưng theo nhà thơ Luân Hoán một người bạn thân cùng quê với anh đã tả chân dung nhà thơ ấy như sau:
“với chiều cao khoảng một thước sáu nhưng có bề ngang, cộng với dáng đi chữ bát, cộng thêm lối an vận lè phè nhà thơ Vũ Hữu Định trông gần như hơi thấp. Anh không có khuôn mặt đẹp trai nhưng nhìn rất bắt mắt. Nụ cười xuề xòa luôn luôn đi trước giọng nói dí dỏm bộc trực đã thắp sáng khuôn mặt ngả màu nâu sậm của anh thơ miền Trung ra đời vào thập niên 40 này. Năm 1970 năm tôi không may mắn phải giã từ rừng núi và phố chợ Quảng Ngãi để trở về Đà Nẵng tôi đã gặp và quen thân với Vũ Hữu Định. Lúc đó hình như anh đang mặc áo cán bộ xây dựng nông thôn. Địa bàn công tác của anh lòng vòng ven rìa thành phố Đà Nẵng như Thanh Khê, Hà Khê, An Hải, Sôn Trà,.. Anh chợt đi, chợt về. Đặc biệt anh lúc nào cũng có vẻ thong dong giàu có thời giờ phất phơ phố xá. Anh làm thơ nhiều trong giai đoạn này. Thơ của anh hầu hết được đăng trên các tạp chí văn chương tại thủ đô Sài Gòn. Vũ Hữu Định có đời sống vật chất không mấy khả quan, quen biết nhau khá lâu nhưng anh từ chối không thuận cho tôi đến nhà chơi. Cũng không hề đề cập đến gia đình của anh. Biết anh có vô có con nhưng mãi về sau này tôi mới tình cờ được gặp trong một hoàn cảnh thật buồn!
Ông mất năm 1981 ở Đà Nẵng và có nhiều dư luận về cái chết của ông. Như ông đến nhà một người bạn văn chơi ở An Hải và vì nhậu qúa say trong lúc tìm chỗ đi tiểu thì bị té từ căn gác lửng xuống và chết. Một dư luận khác thì nói rằng trong cuộc nhậu ấy, ông bị một vài người cố tình từ trên gác xô xuống và bị ngã chết. Những người bạn ông thì nửa tin nửa ngờ và cũng hiểu rằng ỏ thời thế ấy thì chết vì bị cố tình mưu hại hay vì say mà té ngã cũng đều như thế, chính quyền không quan tâm và chỉ đau xót cho gia đình, bạn bè và những người yêu thơ ông …”
Thi sĩ viết về Pleiku như thế thì rất nhiều nhưng tôi cũng muốn nói về một thi sĩ mà tôi rất mê thơ của ông. Đó là Nguyễn Bắc Sơn …
Nguyễn Bắc Sơn, một chứng nhân của cuộc chiến, làm thơ như một cách thế sống, đã coi công việc viết như một phần của đời người. Sống ở Pleiku và viết những bài thơ để gửi Pleiku. Thơ ông, có chút cảm khái ngậm ngùi của thời tao loạn nhưng cũng có những xúc động bềnh bồng của tâm tư lãng mạn hay đùa cợt với cuộc đời. Thơ, phảng phất vóc dáng một chàng cuồng sĩ…
Đọc bài thơ “Hoa Quì Vàng Lạnh Pleiku”, tự nhiên tôi như người trở về thời gian ấy, không gian ấy. Trở về những ngày tuổi trẻ, của những giây phút bốc đồng coi mọi việc như cuộc đùa chơi. Cái lạnh, chưa hẳn là lạnh lẽo mùa đông, mà còn chứa đựng một chút nồng ấm nào đó của mùa hạ. Lạnh ở bên ngoài nhưng rần rần nóng hồi ở tim óc bên trong. Sương mù ban đêm trên đỉnh cao nhìn về phố buồn, tâm thức cũng ào ạt như sóng theo tầm nhìn vời vợi…
“Đứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ Đã nhìn mình rất ấm một ngày xưa Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó…”
Đọc bài thơ dài của Nguyễn Bắc Sơn tôi chỉ thấy có hai câu nói về mầu hoa quì vàng. Thế mà cái mầu sắc hoa man dã ấy chỉ một nét thoáng qua nhưng lại gợi nhiều dư âm. Mầu vàng, có khi là mầu vàng lạnh, nhưng có khi là mầu nóng chói chang của nắng:
“Phố núi kia ơi, một đời phố lạnh. Lạnh hoa vàng, núi đỏ, thác đèo cao.”
Hoa quì vàng? Một loài hoa có lẽ chỉ có ở Pleiku. Hoa quì vàng, một loài hoa nhỏ, cây từa tựa giống như hoa cúc, tôi đã nhìn thấy miên man mầu vàng khi trên phi cơ nhìn xuống. Mầu vàng, mênh mang trên những ngọn đồi loang lổ mầu xám của đá và mầu đỏ của đất. Hoa quì, lẻ loi một cánh trên tay thú thực cũng chẳng hấp dẫn lắm nhưng nếu bạt ngàn dưới cánh phi cơ, rào rạt trong nắng trong gió sẽ trở thành một ấn tượng khó quên cho cảm xúc. Ơi hoa quì, mầu vàng không phải kiêu sa như mầu hoàng cúc của áo tôn nữ mà có sự gần gũi với tà áo vàng của dân dã, của thiên nhiên. Hèn chi, cũng có nhiều nhà thơ vấn vương với hoa quì vàng, như Nguyễn Xuân Thiệp, như Kim Tuấn,…?
Người thơ kể chuyện của mình, một câu chuyện có lẽ rất quen tai của những người lính thú. Cũng đi xuống, đi lên, cũng loay hoay bồn chồn như những chàng gà trống… “Đời lang bạt của một người lính thú Sáng hôm qua tôi là người thiếp ngủ Đi một mình lên xuống phố mù sương Phố núi kia ơi, phố có con đường Lên xuống dốc tìm không ra bạn hữu Không có bạn tôi làm sao uống rượu Tôi làm sao sống nổi một ngày đây Phố núi kia ơi, kẻ lạ đông đầy Nhìn gã lính không khác gì gã lính…”
Không có bạn tôi làm sao uống rượu. Tôi làm sao sống nổi một ngày đây. Nghe như một câu nói thường ngày, không có chất thơ mà sao nghe tràn đầy thi tứ. Chắc lúc ấy, sự cảm khái của người thơ đã lên cao độ, và, nỗi lạnh lùng thiên cổ như bám vào da vào thịt. Có nỗi nhớ mong, có niềm tiếc nuối. Người em, bây giờ lưu lạc ở đâu?
“… Tôi vận rủi làm một người lãng đãng ngó mông hoài khuất bóng của người em sáng hôm nay đời sống thật bình yên sao phố lại đuổi đi người yểu điệu vườn đá tảng bàn chân em huyền diệu in gót hồng lên lớp bụi đời tôi là từ khi tôi hạnh phúc rong chơi và quên lãng con thú mù phẫn nộ Ôi phố núi đêm nay là cổ mộ Một hàng đèn sáng lạnh cõi bi hoang…” Nguyễn Bắc Sơn làm thơ với tâm trạng u uất của thời đại trong một cuộc chiến kéo dài suốt gần hai chục năm. Ông có người cha là một cán bộ quân sự cao cấp của Cộng sản nên trong thời kỳ ông đi lính VNCH cũng bị ảnh hưởng. Cơ quan An Ninh Quân Đội bắt ông thuyên chuyển đơn vị và theo dõi. Sau đó ông đào ngũ và bị bắt lính lại và phục vụ tại một đơn vị địa phương quân ở Phan Thiết. Sau năm 1975, người cha trở về và là một viên chức cao cấp sau về hưu và bị chết một cách bất thường vì bị tai nạn giao thông. Có dư luận cho là bị mưu sát…
Đời sống của ông đã tạo cho thơ ông niềm đau xót của những người bị kẹt giữa hai giới tuyến. Thơ của ông hào sảng có nét chân thực thô nhám của đời lính trận có những câu như:
“Mai ta đụng trận may còn sống Về ghé Sông Mao phá phách chơi Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm đốt tiền mua vội một ngày vui…”
Có người phê phán những bài thơ có chất phản đối chiến tranh của Nguyễn Bắc Sơn, nhưng họ phải công nhận ý thơ và tứ thơ mạnh mẽ của ông, một kỹ thuật làm thơ với ngôn ngữ tuy bình dị gần gũi đời thường nhưng đầy chất sáng tạo…
Có một nhà thơ nữ cũng nổi tiếng với một bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành nhạc khúc “Tưởng như còn người yêu”. Đó là nhà thơ Lê Thị Ý và bài thơ “Thương ca 1”.
Trả lời một câu phỏng vấn của Đinh Quang Anh Thái, tác gỉa Lê Thị Ý phát biểu :
“Lúc đó là năm 1970, tôi sống tại Pleiku. Thành phố nhỏ bé này vào giai đoạn chiến tranh khốc liệt chỉ thấy lính, vợ lính, xe tăng, xe jeep; hầu như không thấy gì khác nữa. Nhà tôi ở gần nhà xác của quân đội. Tôi chứng kiến cảnh biết bao các bà đi nhận xác chồng. Tôi thấy đàn bà con nít đến lật cái poncho quấn xác để nhìn rõ mặt người thân, cảnh đó khiến tôi đau đớn không chịu nổi. Rõ ràng nỗi đau của những người có chồng chết trận là nỗi đau của chính mình. Thành thật tôi vô cùng xúc động và chính tôi sống bằng hình ảnh những người vợ lính, vợ sĩ quan khóc bên xác chồng. Nỗi buồn đau đó là nỗi đau của mình.”
Khi trả lời câu hỏi khi thơ phổ thành ca khúc thì có người chê là phản chiến, nhà thơ Lê Thị Ý nói :
”Khi tôi làm bài thơ tôi xúc cảm thế nào thì tôi viết ra như thế. Thế thôi. Tôi không nghĩ gì khác cả. Bài thơ được phổ biến cũng là một sự ngẫu nhiên. Một người bạn của anh Vương Đức Lệ tôi đến nhà chơi thấy bài thơ bèn đưa cho cụ Nguyện Đức Quỳnh người trụ trì sinh hoạt Đàm Trường Viễn Kiến ở nhà cụ ỏ Sài Gòn quy tụ rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức, nhà văn, nhà báo – Cụ Quỳnh đọc thấy hay bèn đưa cho ông Phạm Duy phổ nhạc. Cho nên bài thơ của tôi được mọi người thưởng thức hoặc cho là phản chiến thì cũng là việc tình cờ thôi chứ tôi không chú ý trước việc phổ biến bài thơ…”
Bài thơ rất cảm động, nguyên văn là:
“Ngày mai đi nhận xác chồng say đi để thấy mình không là mình say đi cho rõ người tình cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ cao nguyên hoang lạnh ơ hờ như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son tình ta không thể vuông tròn say đi mà tưởng như còn người yêu phi cơ đáp xuống một chiều khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa dài hơi hát khúc thương ca thân côi khép kín trong tà áo đen chao ơi thèm nụ hôn quen đêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau chiếc quan tài phủ cờ màu hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng em không thấy được xác chàng ai thêm lon giữa hai hàng nến chong? Mùi hương cứ tưởng hơi chồng Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai”
Nếu hồi trước bản nhạc về phố núi của Phạm Duy phổ nhạc từ thơ Vũ Hữu Định thì về sau này những người yêu thương Pleiku cũng hay ngâm nga hoặc thích lắng nghe bản nhạc Phố Xưa của thi sĩ, nhạc sĩ Hoàng Khai Nhan. Bản nhạc với ca từ như “Chiều mờ trên phố cao / Đưa em về từ khi có nhau / những con đường từ khi có nhau / kết hoa ngày nào / chiều mờ sương thung lũng sâu / quán trong phi trường đèn đêm thắp sao…” đã thành một bài hát đáng yêu của những người lính trấn ải miền ba biên giới.
Bản nhạc thật hay và lãng mạn như trời đất của vùng biên trấn ấy. Nhạc sĩ Hoàng Khai Nhan còn là một thi sĩ và làm khá nhiều thơ về Pleiku.
Anh viết với cảm xúc của người lính, lên đường làm nhiệm vụ của người tuổi trẻ thời chiến tranh. Có một bài thơ anh làm để bắt đầu cho một cuộc lên đường, để làm người lính thú hôm nay. Thơ như chia sẻ với đồng đội của anh những nhiệt thành vào cuộc, với thân phận giống như bầy ngựa chiến đập móng đợi khởi sự vòng đua nhân sinh trong thời đại khói lửa mịt mù trên quê hương.
Đó là một bài lục bát, gửi tặng những người bạn chờ buổi lên đướng lên phố núi;
“một con ngựa đã lên đồi hai con ngựa đứng bồi hồi ngó theo ba con ngựa sải qua đèo bốn con ngựa hí buồn thiu trong tàu Năm con ngựa nối đuôi nhau Sáu con ngựa đợi hôm sau lên đường.”
Những cuộc lên đường của những người lính trẻ. Bắt đầu một cuộc đua của những con tuấn mã chạy vòng trong cuộc chiến tranh. Hoàng Khai Nhan đã ví von ông và những đồng đội cùng mặc áo lính thú khởi sự hiểu được những bất toàn của cuộc đời nhưng hùng khí lúc nào cũng hừng hực như thuở đợi lúc lên đường.
Bây giờ là mùa thu nhưng nghe bản nhạc Anh Cho Em Mùa xuân của nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ từ thơ Kim Tuấn thì thấy trời đất vẫn dễ thương vô cùng. Thi sĩ Kim Tuấn cũng là người làm thơ về Pleiku độc đáo và trước năm 1975 đã có một thời cư ngụ lâu dài ở Pleiku. Với Pleiku, anh là một người cố cựu và đã sống đã thở với phố núi này với tâm tình của một người chọn lựa một quê hương thứ hai. Với riêng tôi thì thơ của ông có nhiều nét rất gần gũi với cuộc sống mình cũng đã một thời ở đó.
Chúng ta hãy thử đọc bài thơ “Buổi chiều ở Pleiku“:
“Buổi chiều ở Pleiku có cà phê và có bạn hiền Có biển hồ nước trong, có lúc buồn soi mặt Ôi mặt mình sao bỗng gớm ghê Ôi đời mình sao nhìn muốn khóc Ta với ta xa lạ vô cùng Buổi chiếu ở Pleiku có gì lạ đâu hở em Có nỗi cô đơn trong cõi sương mù Có phố buồn hiu có đêm giấu mặt Có giấc sầu dài trong cõi thiên thu Có bức tường vôi ghi dấu đạn thù Có cuộc đời ta chìm trong khói lửa Kiếp người sao đã lãng du Buổi chiều ở Pleiku Buổi chiều nghe mưa bay trên đầu ngọn núi Buổi chiều như mọi buổi chiều Tiếng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng Anh còn tiếng nào để nói yêu em.”
Những buổi chiều ở Pleiku,với “tiềng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng”, đúng là tình cảnh chúng tôi nhưng khác với thi sĩ là chúng tôi vẫn còn nhiều lời yêu em chứ không phải ”anh còn tiếng nào để nói yêu em”.
Kim Tuấn làm thơ về Pleiku với nhiều nỗi niềm trăn trở quá. Nhưng thơ của “Nụ hoa Vàng Cho Em” phổ nhạc thành “Anh cho em mùa xuân“ hay “Kỷ Niệm” phổ thành “Những bước chân âm thầm” lại có nhiều yêu đương tình tự và lãng mạn của những người cảm thông được với thiên nhiên với thời tiết những vẻ đẹp của đất trời.
Thơ của ông cũng có nhiều bài rất lãng mạn thơ mộng chứ không phải chỉ có trăn trở suy tư. Có khi là thơ của tuổi học trò, của tuổi mười bảy mười tám mộng mơ…
Như bài “Ngày Em Còn Thắt Bím” chẳng hạn:
“tóc bím nghĩa là tóc dễ thương tóc bâng khuâng lá rụng bên đường tóc chia đường gió chia thương nhớ chia nỗi buồn cho ai vấn vương Tóc bím nghĩa là tóc mộng mơ Để ai thương nhớ để ai chờ Để ai ngơ ngẩn giờ tan học Em vẫn vô tình vẫn giả lơ Tóc bím nghĩa là tóc ngẩn ngơ Tình ta xanh biếc mộng ơ hờ Chiều xanh áo trắng mùa mây trắng Em ngọt ngào và em ngây thơ.”
Có rất nhiều thi sĩ viết về Pleiku với tâm trạng của những người tham dự một cuộc chiến tranh mà ở đó sự sống chết nhục vinh gần cận nhau đến gần như không biên giới. Những người lính trước khi hành quân còn vui tươi chọc ghẹo nhau nhưng biết đâu chỉ trong giây phút đã thành những người đã rời xa cuộc sống. Hay, thành phố Pleiku này đầy kỷ niệm dễ thương cũng có lúc trở thành địa ngục mà ở đó những người dân và những người lính cuống cuồng trong vòng lửa hun của tàn phá chiến tranh của những ngày tháng ba chẳng thể nào quên của cuộc di tản đẫm máu về phía duyên hải qua con đường số 7 la liệt xác người…
Chiến tranh lại rõ nét hơn với nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Bài “Pleiku, tháng ba 1975”. Ba mươi năm trôi qua, nhưng ngày tháng đó vẫn còn sinh động. Thơ, không ghi chép lại nhật ký ngày tháng mà sao đầy dấu viết của một quãng đời. Ngày ấy, lửa cháy đỏ. Ngày ấy, là ngày thành phố cao nguyên quặn mình rồi gục ngã.
Người thi sĩ kể chuyện một mình. Đâu cần ai hiểu, chỉ để nỗi niềm loang vào sương đêm thành nỗi nhớ mịt mùng.
“cầm bút viết, tháng ba rực cháy hàng dầu cao trong bình minh cơn sốt của trái chín và cánh đồng trận gió hung trưa ngày ấy cầm bút viết, đồi hoa quỳ vàng tháng ba xuống khu rừng. Bóng quạ rung những nhánh cây màu tàn lửa tiếng thét hư không. Chiều rượt qua ngàn…” Tháng 3 năm 1975, có phải là thời điểm mà cao nguyên di tản và là một nỗi kinh hoàng còn ám ảnh mãi đến bây giờ. Nhà thơ hình như đã mang cả tâm tình của một người yêu Peiku vào thơ qua những hình ảnh thật là đặc biệt.
Những hình ảnh đan vào nhau với những liên tưởng tiếp nối. Ảnh nét phác sơ lược nhưng lại làm nổi bật được một không gian đầy biến động. Đồi hoa quỳ vàng, khu rừng, bóng quạ, nhánh cây màu tàn lửa, tất cả như chìm đắm trong nỗi bàng hoàng của thế thời. Cơn bão lửa dậy lên từ hoang vu:
“tháng ba, chân trời chớp tía Những chuyến xe lên đường, cơn mưa chợt đến Rào qua mái nhà, bàng hoàng. Mưa ngưng bặt Đêm. Những căn nhà gỗ sáng đèn. Tháng ba. Trên đồi vông nở Tôi trở về thị trấn tháng ba Những sợi dây trời cắt đau trí nhớ Cườm tay em nhỏ máu hè xưa…” Thơ như của lời chia biệt, như người đánh mất tất cả. Pleiku cũng như cả nước phải khoác khăn tang. Nhà Thơ Nguyễn Xuân Thiệp như đã viết lời trăn trối của một thành phố miền cao đầy lãng mạn dễ thương. Xa rồi những ngày thơ mộng. Gần lắm rồi những nỗi kinh hoàng. Cái linh cảm của một cuộc địa chấn là cái linh cảm chung của những người như những con chuột đang cuống cuồng trong rọ. Thị trấn sẽ thành biển lửa, nay mai. Sẽ đầy những cuộc chia ly đầy nước mát. Thảm họa xụp xuống, như cơn hồng thủy đến.
“ … vò nát chiếc khăn và đừng khóc chiều nay. Chớp bể mưa nguồn chia tay nhau. Sương phụ người đi râu bám bụi đường tháng ba. Em. Những căn nhà gỗ ánh đèn khuya. Vệt máu hè xưa đừng tiếc chiếc khăn tay ngày ấy sẽ bay trong lửa hoàng hôn tháng ba. Cơn giông rền mặt đất.” Đọc xong hai bài thơ, tôi như ngươì hụt hơi. Đời sống, như một hơi khói nhẹ, loãng bay vào hư không. Tự nhiên, thấy lòng mình chùng xuống những kỷ niệm. Những bài thơ. Thuở đã xa. Ngày còn trẻ. Và hoa quì vàng, cái màu vàng loang sắc nắng của buổi nào, bây giờ có còn vương trên núi đồi không? Cái sắc màu hỏa hoàng trong những buổi chiều nhạt nắng ấy sao nhức nhối ký ức…
Lại chiến tranh, và lại chiến tranh. Nhiều tác giả viết về Pleiku khói lửa với tâm cảm của người trong cuộc, của những người đã đổ mồ hôi và đổ máu cho đất tây nguyên. Có một nhà thơ đã viết những câu thơ để đời như:
“Chư Pao ai oán hờn trong gió Mỗi một khăn tang một tấc đường”.
Chư pao là một đỉnh núi khống chế con đường tiếp vận quốc lộ 14 từ Pleiku đi Kontum và chính nơi đây cả ngàn tử sĩ của hai bên đã nằm xuống trong những trận chiến ác liệt thời mùa hè đỏ lửa. Người thi sĩ ấy là Lâm Hảo Dũng, một pháo thủ đã có một thời gian chiến đấu ở tây nguyên. Ông làm thơ về tuổi thanh xuân chiến tranh của mình với những địa danh mà ông không thể nào quên trong trí nhớ…
Trong những tập thơ của Lâm Hảo Dũng có nhiều bài thơ ông đã viết về vùng tây nguyên như ”Ngày về Ban Het”, ”Miền Ba Biên giới”, ”Ba năm làm lính về Dakto”… Có một bài thơ mà tôi thích là bài “Chiều Hàm Rồng”. Hàm Rồng là một ngọn búi mà bất cứ ai đã sống ở Pleiku đều biết vì cái hình dạng độc đáo gợi cảm nhớ đến hình dạng của người thiếu nữ. Nhất là các chàng phi công, khi bay từ phía Ban mê Thuật về Pleiku mà nhìn thấy núi Hàm Rồng thì biết là đã gần đến phi trường Cù Hanh rồi. Cái hình dạng giống cái mu rùa ấy sao gợi hình lạ.
Lại những buổi chiều. Hình như cái thời khắc của cuối ngày ấy thường gợi trong lòng những người lính xa nhà những cảm giác bâng khuâng khó quên. Bài thơ ấy chỉ có 3 đoạn mười hai câu:
”con đường ấy vẫn hoen mầu bụi đỏ Gió lơ thơ nghe nắng mới ngập ngừng Anh sống thở trong tâm hồn trai trẻ Nghe nỗi buồn đâu đó đến bâng khuâng Hoa cúc dại thắm trên đường xa tắp Và quê hương tha thướt lá xanh trà Em có thả những chòm mây nhung nhớ Cho rừng hoang im lắng tiếng chim ca Đời viễn khách mơ hồ không biết được Bước chân vang rộn rã buổi quay về Em mắt biếc hồn nhiên bên cánh cửa Gửi hương nồng quay quắt bóng người đi.”
Thơ Lâm Hảo Dũng đầy cảm khái. Nhưng hình như ở bên trong người lính vẫn còn hình bóng của cậu học trò mắt biếc với môi tươi…
Thơ ông lãng mạn nhưng vẫn lạc quan:
”nên ta cố sống dù câm điếc Dù có xuôi tay mắt có mù Để thấy em ngày vui áo biếc Để ta buồn suốt một đời thu Lắm khi gái thượng mà duyên dáng Đi tắm hò reo đêm sáng trăng Ta muốn buông mình con thú dữ Bắt đầu trong suốt kiếp cô đơn Có không ngày của thanh bình đến Ta nhớ vườn xưa nhớ mẹ già Còn hái mồng tơi ngoài dậu cũ Lệ buồn năm tháng có phôi pha?”
Các nhà thơ Không quân ở Pleiku cũng có nhiều bài thơ độc đáo. Nói về thơ từ Pleiku mà không có những bài thơ này là một điều thiếu sót lớn theo cảm nhận của nhiều người. Nếu gọi tên những thi sĩ KQ thì không thể nhắc đến những tên tuổi như Lê Bá Định, như Hoàng Khai Nhan, như Lê Văn Trước, Võ Ý.
Ông Võ Ý là một phi công, phi đoàn trưởng phi đoàn quan sát 118 Bắc Đẩu. Ông cũng là người đã tình nguyện lên phố núi ”nhận nơi này làm quê hương dẫu cho khó thương” và làm thơ với cả tấm lòng của mình, một người bay ở trên cao để thấy thiên nhiên tươi đẹp biết bao, để thấy cuộc sống vẫn còn nét mơ mộng hào hoa và với ông những nơi chốn những địa danh của phố núi như ngập tràn nỗi nhớ…
Thơ của những người lướt gió đè mây có lúc lãng mạn hào hùng nhưng cũng có lúc thiết tha nhẹ nhàng của những tháng ngày đầy kỷ niệm như bài thơ “Xưa Trên Đó”
“Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm dốc cũng vừa ta bước xuống cô đơn mê cho lắm cho tay dài với mộng mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền mưa thì sình bụi mù thay nắng gió gặp là vui cam khổ cũng cam đành vui cho quên đâu bằng xưa trên đó áo bay bay mờ ảo dấu Phượng Hoàng quên được thì quên nhớ ai thì nhớ quên cho rồi quyên gọi quốc từ đây nhớ đâu đâu lạ lùng trăng đêm đó tượng đá thần linh sao ta tỉnh say. Một dạo bay qua nhìn qua trên đó Đồi như vương cây như vấn chân nàng Phố cũng xưa và tim thì đau nhói Quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…” Có người đọc câu “áo ai bay mờ ảo dấu Phượng Hoàng“ tưởng là chàng phi công nghĩ đến cánh chim thần truyền kỳ nào đó. Nhưng thực tế thì không phải. Phượng Hoàng chỉ là một khiên vũ trường của Pleiku mà các tay chơi mặc quần áo lính “đốt tiền mua vội một ngày vui”…
Với tôi thì một phần đời sống của mình ở đó mà không làm thơ cho được. Ngày lên Pleiku, có một bài thơ tôi đã làm như tiên đoán được cái không gian của biên tái, của những câu thơ như Lương Châu Từ của Vương Hạn thời Thịnh Đường xa xưa. Pleiku có khác nào Lương Châu, cũng là quan ải để trấn giữ biên cương. Ngày xưa thì ngăn giặc Hồ, giặc Mông. Ngày nay, thì canh chừng ba biên giới, với những trận đánh ác liệt mùa khô hàng năm tiếp diễn… Bài thơ ấy, làm vào một đêm trước khi sáng mai lên trực thăng vào phố núi:
“Ừ mai tao lên Pleiku đêm căm hơi đá ngày mù núi xanh uống say quên mộng quẩn quanh về nơi gió cát cũng đành cuộc chơi Ừ mai cánh vỗ ngang trời ngóng thiên thu một cõi đời tịnh yên máu xương mãi chuyện ưu phiền còn đâu tiếng gọi cho em miệt mài Ừ mai súng khoác lên vai Ngẩn ngơ phố núi những ngày đao binh Chắc đâu rượu uống một mình Trong thân phiêu bạc nhục vinh nửa vời Ừ mai thương bóng trăng trôi Chim quên vẫy mỏi cuối trời chiến tranh Uống đi mai hát quân hành Nghe trong hơi bốc long lanh mắt người…”
Tuổi trẻ, ngây thơ và bốc đồng. Tưởng rằng, mình như một hiệp sĩ thời xưa đi vào nơi gió cát. Thơ cũng nghênh ngang kiểu “túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tuổi trẻ, ơi những giấc mơ của ngày chân không chấm đất cật chẳng đến giời. Có phải là giấc mơ chung của những người lính trẻ chúng tôi…
Nguyễn Mạnh Trinh
Hoa Và Mùa Xuân Trong Thi Ca Việt
Hoa và Mùa Xuân trong Thi Ca Việt
Thái Công Tụng
1. Dẫn nhập
Trong thi ca Việt, nhiều thi sĩ nhạc sĩ đã gửi gắm lòng mình qua những sự vật thường gặp , khi thì loài cây, khi thì đóa hoa hoặc các bức tranh tâm lý từ ghen tuông đến người yêu, tình dang dở v.v..
Các nhà thơ, nhà viết nhạc thường nhạy cảm hơn người thường và họ lại có khả năng dùng giai điệu hay hình ảnh, màu sắc để diễn tả tâm tình và ý tưởng của mình theo phong cách nghệ thuật, và nhờ đó dễ gây xúc động nơi người đọc, người nghe. Nhan nhãn trong các bài hát, ta bắt gặp hoa ngọc lan, hoa tigôn, hoa cúc, hoa mai, hoa đào, hoa quỳnh v.v.
Cây cũng vậy có mặt trong ca dao, thơ, nhạc, từ cây cau, cây khế, cây xoài, cây nhãn, cây gạo…Tình yêu trong trắng, tình yêu học trò, tình dang dở, tình đơn côi… đều lấy hoa làm biểu tượng vì thi ca Viet Nam đầy hoa, từ hoa thường gặp ven lề đường như hoa trinh nữ, hoa sim miền đồi núi Trung Việt cho đến các loài cây cảnh quanh vườn như dàn hoa thiên lý, hoa thạch thảo, hoa tigôn hoặc quanh sân trường như hoa phượng.
Áo dài hoa phượng
Nhiều thành ngữ có chữ hoa như nước chảy hoa trôi, bèo dạt hoa trôi.
Nhiều sách có tựa đề có chữ hoa như Bùi Tín với Hoa xuyên tuyết, Nguyễn Chí Thiện với Hoa địa ngục, Hoàng Văn Chí với Trăm hoa đua nở trên đất Bắc nói về Nhân Văn giai phẩm v.v.
Vào những ngày sum họp bà con, gia đình, bạn bè trong những dịp đầu Xuân, luôn luôn có hoa: hoa ở phòng khách, hoa trên bàn thờ vì hoa mang nhiều ý nghĩa..Ngoài các hoa đặc trưng của ngày Tết như hoa mai, hoa đào, còn có nhiều loại hoa tươi khác, đa dạng về hình thù, màu sắc, vv… Hoa thì nhiều loại: có màu hồng, màu đỏ, màu tím (Màu tím hoa sim), hồng đậm, hồng lợt, có hoa màu trắng vv…
Nhiều cây cho hoa mỗi năm một lần (fleurs annuelles), hoặc hai năm mới cho hoa (bisannuel), có cây trồng bằng củ (bulbe) như hoa cây Iris, cây tulip nhưng cũng có cây gieo bằng hạt.
2. Mùa Xuân.
Một năm có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Sau mùa Đông lạnh lẽo thê lương là mùa xuân lại đến tươi trẻ với những nụ hoa, những cành lá bắt đầu mọc lại . Nhưng khi ta đang là mùa xuân ở Canada thì ở Australia thuộc Nam bán cầu lại là mùa Thu . Trong thiên văn học thì mùa xuân bắt đầu từ xuân phân (khoảng ngày 21 tháng 3 ở Bắc bán cầu va ngày 23 tháng 9 ở Nam bán cầu) và kết thúc vào lúc hạ chí (khoảng ngày 21 tháng 6 ở Bắc bán cầu và 21 tháng 12 ở Nam bán cầu).
Vào mùa xuân khí trời ấm áp hơn nên có dịp lễ Thanh Minh:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp Thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sữa bộ hành chơi xuân
Thế nào là ngày xuân phân? Đó là lúc ngày và đêm dài bằng nhau . Thực vậy vào Đông thì ngày chưa đi đã màn đêm u tối, ngày ngắn đêm dài và hết ngày xuân phân thì ngày dài ra có nghĩa mặt trời vẫn còn chiếu sáng có chỗ 9 giờ đêm, 10 giờ đêm trời vẫn sáng . Và vì có tác động của ánh nắng nên hiện tượng quang hợp mạnh hơn nên cây cối đâm chồi nẩy lộc nhanh hơn, mạnh hơn :
Xuân vừa về trên bãi cỏ nonGió Xuân đưa lá vàng xuôi nguồnHoa cười cùng tia nắng vàng sonLũ ong lên đường cánh tung tròn
Nhà nhạc sĩ Tuấn Khanh cũng đồng cảm với tạo vật nên mới thốt ra trong bài Mùa Xuân đầu tiên:
Anh ơi! Xuân đến bên thềm rồi nhắp rượu hồng vơi đi Hết rồi mùa chia ly cho tình Xuân vừa ý Xin yêu thương đến đôi bạn hiền để xóa hết cô đơn Rồi quyến luyến nhau hơn cho người em thôi giận hờn.
Xuân nay ta chúc cho mẹ già vui vườn cà thêm hoa Vui ruộng đồng bao la tóc bạc phơ đẹp quá Xin yêu thương đến vơi hận thù để tiếng hát hôm nay Người chiến sĩ mơ say bên đàn trẻ bé thơ ngây.
Sau mùa Đông tuyết rơi nặng nề, ít khi gặp nhau, ai ở nhà nấy nhưng đến mùa xuân với đàn chim én trở về báo hiệu xuân đến nên nhiều họp mặt của cộng đồng, của bạn bè gần xa, đúng như lời nhạc của Văn Phụng:
Xuân đã về, xuân vẫn mơ màng trong nắng vàng, khắp chốn tiếng reo vạng Xuân đã về, xuân vẫn huy hoàng trong gió ngàn mừng đón xuân sang
Vui mùa xuân năm nay gần nhau, Nhớ khi xưa lúc ngây thơ, cầm tay hỏi nhau ngẩn ngơ, đến bao giờ đón xuân mơ Xuân đã sang nâng phím đàn cùng hát ca, trong gió ngàn mừng đón xuân sang Mừng một ngày gần nhau, cùng mừng xuân mới
Vui mùa xuân năm nay gần nhau, nhớ khi nào lúc ra đi, cầm tay hẹn cau chờ nhau, đến bến cầu, nắng xuân sau Xuân đã sang nâng phím đàn cùng hát ca, trong gió ngàn mừng đón xuân sang Mừng một ngày gần nhau, cùng mừng xuân mới
Vui mùa xuân năm nay gần nhau, nhớ khi nào lúc ra đi, cầm tay nhìn nhau, cùng mơ ước, mơ xuân đến bao lần Xuân đã sang nâng phím đàn cùng hát ca, trong gió ngàn mừng đón xuân sang Mừng một ngày gần nhau, cùng mừng xuân mới
Người tình chúc nhau trong mùa xuân như trong thơ phổ nhạc: Anh cho em mùa xuân, thơ Kim Tuấn, nhạc Nguyễn Hiền
Anh cho em mùa xuân nụ hoa vàng mới nở, chiều đông nào nhung nhớ Đường lao xao lá đầy chân bước mòn vỉa phố mắt buồn vin ngọn cây Anh cho em mùa xuân, mùa xuân này tất cả lộc non vừa trẩy lá Lời thơ thương cõi đời bầy chim lùa vạt nắng trong khói chiều chơi vơi Đất mẹ đầy cỏ lúa đồng xanh xa mấy mùa Ngoài đê diều căng gió thoảng câu hò đôi lứa Trong xóm vang chuông chùa trăng sáng soi liếp dừa Con sông dài mấy nhánh cát trắng bờ quê xưa Anh cho em mùa xuân trẻ nô đùa khắp trời Niềm yêu đời phơi phới
Cách nay hơn nửa thế kỷ, nhạc sĩ La Hối cũng có một ca khúc đầy ngẫu hứng “Xuân và Tuổi trẻ”với những ca từ tươi vui rất sảng khoái ca ngợi mùa Xuân: “Ngày thắm tươi bên đời Xuân mới. Lòng thắm say bao nguồn vui sống. Xuân về với ngàn hoa tươi sáng. Ta muốn hái muôn đóa hồng. Ta muốn luôn cười với hoa…”. Rồi tiếp theo là điệp khúc với nhịp điệu dồn dập, hân hoan của tuổi trẻ chào Xuân:
“…Vui sướng đi cho đời tươi sáng. Vui sướng đi cho lòng thêm tươi. Ta ca lên đón mừng Xuân mới.Ta hát ca cho lòng thêm hăng hái. Hát vang lên lên lời ca thắm tươi …
Mùa xuân hoa bắt đầu nở .Vào ngày Tết, ngoài Bắc có hoa đào; ta nhớ ngay thơ của Vũ Đình Liên:
Mỗi năm hoa đào nởLại thấy ông đồ giàBày mực tàu, giấy đỏ
Áo dài hoa phượng
Ngày tết ở miền Bắc, nhà nhà đều có cành đào (Malus sp. ) khoe sắc trong nhà.
Nếu miền Bắc có hoa đào thì trong Nam cũng có hoa mai (Ochna) .
Một bình hoa tươi dịp Tết sẽ đem lại cho nhà đẹp hơn, may mắn hơn cũng như tạo niềm vui cho cả gia đình trong những ngày đầu năm mới sum vầy. Ta hãy điểm qua vài loài hoa tượng trưng dịp Xuân về:
– Hoa hồng: trong những giống hoa hồng thì hồng lửa là giống hồng được trồng khá phổ biến ở các nhà vườn ở Sa Đéc.
Áo dài hoa hồng
– Hoa mồng gà (Celosia argentea) là một loài thực vật có nguồn gốc vùng nhiệt đới, Châu Á, Châu Phi, và Trung Mỹ, thuộc họ Amaranthaceae. Rất nhiều loài đã được lai giống cho ra những loài với những hình dạng và màu sắc khác nhau, rực rỡ, rất ngoạn mục được trồng làm cây cảnh bỡi những gié hoa, và đôi khi trồng trong vườn cây rau cải, cho những lá ăn như rau dền, hay trồng cho hạt. Một vài loài mọc hoang như là cỏ dại trong những cánh đồng canh tác.
– Hoa bông ổi ( Lantana camara)
còn được biết đến với tên gọi hoa ngũ sắc, với nhiều sắc màu tươi sáng như vàng, cam, tím, đỏ hay trắng tinh khôi
– Hoa hải đường
Truyện Kiều có câu:
Hải đường lả ngọn đông lân
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà
hoặc:
Hải đường mơn mởn cành tơ
Ngày xuân càng gió, càng mưa càng nồng
là nhắc đến loại hoa này, loài hoa mang vẻ đẹp tuyệt vời, mong manh nhưng vô cùng quyến rũ . Chùm hoa sắc đỏ, hồng, vàng tinh khôi. Tên khoa học là Camellia amplexicaulis, một loài thực vật hạt kín thuộcchi Trà (Camellia).
– Hoa mẫu đơn (Pivoine) là loài hoa tượng trưng cho sự giàu sang phú quý, ngày xuân gia đình xum họp, nếu trong nhà đặt chậu hoa mẫu đơn, loài hoa vương giả chắc chắn xuân này gia chủ cũng những vị khách sẽ có những kỷ niệm khó phai bên những bông hoa được coi là ‘quốc sắc thiên hương’ này. Hoa này là
quốc hoa của Trung Quốc .
– Hoa đồng tiền là loại hoa tượng trưng cho tiền tài, những bông hoa đồng tiền mang lại ước vọng về một năm mới tài lộc và thịnh vượng.
– Hoa cúc (chrysantheme) nhẹ nhàng và thanh thản là một trong những loài hoa nở rộ trong dịp tết Nguyên Đán. Sắc hương của nó tuy giản dị nhưng làm say lòng người. Ngoài ra, loại hoa này còn tươi rất lâu.
Đóa cúc vàng như mặt trời tỏa nắng trong những ngày giáp Tết se se lạnh tạo cảm giác ấm cúng và gần gũi.
Hoa cúc có nhiều màu, nhưng nhạc Ngô Thụy Miên nhắc đến cúc màu vàng:
Áo nàng vàng, anh thường yêu hoa cúc
Áo nàng xanh, anh mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Anh pha mực cho vừa màu áo tím
Cây Cúc là một trong 4 cây cảnh: tùng, cúc, trúc, mai..
Một nhà sum-họp trúc mai
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông (Truyện Kiều)
Cúc trồng làm cây cảnh thuộc chi Chrysanthemum. Một số loài cây còn được sử dụng làm vị thuốc trong y học cổ truyền như cúc hoa vàng Chrysanthemumindicum
Sen tàn, cúc lại nở hoaSầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân (Kiều)
– Hoa cúc trắng là loài hoa biểu tượng cho sự duyên dáng và lòng hào hiệp. Những cành cúc trắng muốt mang lại vẻ nhẹ nhàng và thanh thản cho những ngày cuối năm bận rộn.
Áo dài hoa sen
Áo dài hoa cúc
Sen tàn cúc lại nở hoa
Giống hoa cúc đồng tiền mini có nhiều màu sắc bắt mắt
– Hoa trạng nguyên (Poinsettia) Trạng nguyên đỏ cũng là một loài hoa có ý nghĩa trong dịp năm mới. Những cánh hoa đỏ thắm tượng trưng cho niềm vui về sự học hành đỗ đạt, chính vì vậy những gia đình có các “cậu tú, cô cử” thường bày loài hoa này vào dịp Tết.
Trạng nguyên – loài hoa mang ý nghĩa của sự đỗ đạt
– Hoa lan được xem là biểu tượng của người quân tử cũng thường được trang trí trong nhà những ngày đầu năm mới là hoa lan. (Bán nhiều ở COSTCO)
Những cánh hoa mong manh nhưng lại rất bền.
– Hoa đèn lồng còn gọi hoa lồng đèn. Nhờ hình dáng mà loại hoa này được xếp vào hàng cây cảnh có tiếng. Có thể trồng hoa đèn lồng trong vườn làm cây cảnh, hoặc trồng trong chậu
Hoa đèn lồng là loại cây không rụng lá, xanh tốt và cho hoa quanh năm.
– Hoa đỗ quyên (Rhododendron) thuộc họ Ericaceae. Đây là quốc hoa của xứ Nepal.
– Hoa sứ còn gọi là hoa đại (Plumeria acutifolia) thường trồng ở đền chùa, công viên, cao 3-7 mét, có nhựa mủ . Hoa trắng, thơm, mặt trong phía dưói màu vàng . Người Hawaii thường dùng hoa sứ xâu thành chuỗi, làm vòng hoa quàng vòng hoa vào cổ du khách và chào “Aloha”
Hôm qua mẹ bảo tôi, nhờ hoa sứ nhà nàngƯớp trà thơm đãi khách họ hàng cô bác đều khenNhờ nàng hái giùm tôi, màu hoa thắm chưa tànNụ hoa còn giữ nhụy vàng, chắc nàng hiểu tình tôi
– Hoa mai đã đi vào văn hóa của dân tộc Việt Nam vì tính chất thanh nhã của loài hoa này. Nghệ thuật hội họa cũng chọn hoa mai làm bao đề tài cho mùa Xuân hay cho ngày Tết. Ngài Mãn Giác Thiền Sư thời vua Lý Nhân Tôn thế kỷ thứ 11 đã thấy những cảnh vật trong vũ trụ đều là những huyễn tượng không có gì là thường tổn vĩnh cửu. Giống như hoa của mùa Xuân, Xuân hết trăm hoa đều héo rụng, Xuân đến trăm hoa lại đua nở. Đời người cũng như vậy, từ lúc tuổi trẻ, thoan thoát đến tuổi già mà không hay. Tuy nhiên, đừng tưởng Xuân qua rồi tất cả các hoa đều phải rụng hết mà giữa lúc trời Đông giá lạnh, giữa những cây cối trơ trọi đó, vẫn có một cành mai nở rộ. Ngài Mãn Giác đã ngộ được lý Vô Thường, và Ngài đã thăng hoatrong cuộc sinh hóa của vũ trụ:
Thơ văn hay hội họa xoay quanh 4 loài kiểng quí, hay nôm na là “tứ quí”, mà hoa mai đã dẫn đầu: Mai, Lan, Cúc, Trúc. Âm nhạc về hoa mai:
“Con biết bây giờ mẹ chờ tin con
Khi thấy mai vàng nở rộ bên sông…”
(“Xuân Này Con Không Về” – Duy Khánh)
Nghệ thuật thưởng thức hoa mai phát xuất từ Trung Hoa, sau đó lan rộng sang những nước chịu ảnh hưởng của nền văn hóa này. Cụ Nguyễn Du nhìn bộ trà có cây mai làm đề tài nổi tiếng đương thời là bộ chén dĩa trà “mai hạc” có câu thơ nôm trích trong truyện Kiều:
” Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, hạc là người quen”
Tóm lại, hoa mai góp mặt tại quê hương Việt Nam đem lại nếp sinh động trong tâm hồn văn hóa Việt tộc, mai đến rồi đi, rồi trở lại theo chu kỳ của mùa Xuân, của những ngày Tết mới của năm. Mai là biểu tượng đẹp đẽ, hài hoà trong lòng văn hóa Việt. Mai là nguồn vui cho mọi người chúng ta nói chung khi mùa Xuân về.
3. Kết luận
Những loài hoa tượng trưng cho vẻ đẹp nên ta không lạ gì khi cha mẹ đặt tên con gái cũng dùng tên các loài hoa; do đó ta thường gặp trong cộng đồng người Việt nào là cô Mai, bà Huệ, cô Hồng, cháu Trang, cô Cúc v.v. Hoa đem đến niềm vui, niềm hi vọng cho con người; thực vậy, nghịch cảnh giúp ta vững chắc, nỗi buồn giúp ta lòng nhân ái, thất bại làm ta khiêm tốn nhưng chỉ hi vọng mới giúp ta tiến lên.
Những Bài Thơ Hay Về Công An Nhân Dân
Nguyễn Thị Hồng Miên- Tặng các chiến sĩ công an nhân dân NHỮNG CÁNH CHIM KHÔNG MỎI
Một công việc gian truân
Một tấm lòng nghĩa nhân
Nguyện vì nước quên thân
Nguyện vì dân phục vụ
Lời Bác anh luôn nhớ
Anh chiến đấu quên mình
Không quản ngại hi sinh
Dùng máu xương đánh đổi
Cho xã hội yên bình
Nhiệm vụ là quang vinh
Nhân dân là số một
Bữa cơm nhà thưa thớt
Giấc ngủ chẳng vẹn tròn
Với Đảng một lòng son
Anh hết mình dâng hiến
Cho xã hội văn minh
Cho đất nước hòa bình
Chẳng ngại gì gian khó
Những vụ án chất chồng
Nào ma túy, mại dâm
Vẫn còn kia chưa hết
Những tháng ngày quyết liệt
Diệt ác bá, côn đồ
Nạn hối lộ, tham ô
Anh quên mình chiến đấu
Với một lòng nung nấu
Vì tổ quốc hi sinh
Vì nhân dân quên mình
Anh nguyện tròn trung, hiếu
Có ai không thấu hiểu
Người công an nhân dân
Người mang những mùa xuân
Cho yên bình xã hội
Những cánh chim không mỏi!
EM LÀ CẢNH SÁT GIAO THÔNG ĐÔ THÀNH
Nguyễn Thị Hồng Miên
Phục trang màu cúc, mai vàng
Ngôi sao trên mũ hiên ngang rạng ngời
Ôi “bông hồng thép” thắm tươi
Tỏa hương thơm ngát giữa nơi đô thành
Là nữ cảnh sát tinh anh
Chốt giao thông giữa trời xanh bao ngày
Phân luồng điều khiển luôn tay
Đường ngang, lối dọc, hàng ngay nối hàng
Hồi còi lệnh dứt vang vang
Từng đoàn xe cộ nhịp nhàng ngược xuôi
Ngã tư rộn rã dòng người
Bụi đường, xe khói ngợp trời sớm khuya
Chốt giao thông vẫn chẳng lìa
Em người cảnh sát đứng chia phân luồng
Mặc cho giá rét thấu xương
Nắng hè đổ lửa, bụi đường nóng ran
Mặc cho gió bấc, mưa tràn
Mặc cho sớm tối xen đan xoay vòng
Mặc trời xuân, hạ, thu, đông
Chốt giao thông vẫn một lòng kiên trung
Xứng danh con cháu Bà Trưng
Tự tin, trung hậu, anh hùng hiên ngang
Chẳng son phấn với lụa vàng
Mà em vẫn đẹp dịu dàng phố đông
Ngàn năm nét đẹp chuyên- hồng
Em là cảnh sát giao thông đô thành.
SÁU ĐIỀU BÁC DẠY LÀ LỜI VÀNG SON
Nguyễn Thị Hồng Miên
Nhớ lời Bác dạy năm nào
Người con của Đảng tự hào vì dân
Tự mình liêm chính, kiệm cần
Kính trọng, lễ phép với dân hết mình
Với Đảng, Chính phủ trung thành
Công việc tận tụy hy sinh chẳng sờn
Với đồng sự chẳng thiệt hơn
Hài hòa, thân ái vẹn tròn trước sau
Với địch kiên quyết đương đầu
Khéo khôn, mưu lược diệt mau quân thù
Lời Bác sáng tỏa ngàn thu
Chúng con xin nguyện thi đua luyện rèn
Giữ cho xã hội bình yên
Giữ cho hạnh phúc đoàn viên nhà nhà
Giữ cho tiếng hát ngân nga
Thiện, nhân trong sáng kết hoa đời thường
Giữ cho trọn vẹn yêu thương
Giữ cho muôn nẻo con đường bình an
Là người chiến sĩ công an
Một lòng xin nguyện gian nan vì đời
Dân giàu, nước mạnh Bác ơi!
Sáu điều Bác dạy là lời vàng son.
BƯỚC CHÂN LẶNG THẦM
Nguyễn Thị Hồng Miên
Hai mươi năm nơi phố núi quê tôi
Chị vẫn đi lặng thầm con đường nhỏ
Vẫn tận tụy nhiệm vụ nơi xóm phố
Gìn giữ yên bình, hạnh phúc nhân dân
Mặc hiểm nguy, mặc vất vả gian truân
Tệ nạn mại dâm, cờ bạc, ma túy
Những kẻ côn đồ, tim ma, máu quỷ
Đâu đó lẩn mình, tìm cách ra tay
Cuộc chiến thời bình, hiểm ác nguy gay
Làm sao đây để diệt gian, trừ ác
Làm sao đây để những người lầm lạc
Phục thiện quay về với đạo đức lương tri
Vì nhân dân chị lặng lẽ bước đi
Từng ngôi nhà, từng con đường lối phố
Nắm bắt tình hình, sẻ chia, giúp đỡ
Chị dùng tình người đánh thức nhân tâm
Chồng chất âu lo, công việc lặng thầm
Cái hỗn tạp của thời kì mở cửa
Những khó khăn giữa đời thường chất chứa
Hiện hữu trong mỗi ngôi nhà, góc phố hoang sơ
Năm tháng trôi, cứ như thực, như mơ
Những con nghiện xin cai mình tự nguyện
Kẻ côn đồ xin cải mình phục thiện
Tệ nạn bị đẩy lùi, hạnh phúc hân hoan
Trách nhiệm, nghĩa tình, người chiến sĩ công an
Hai mươi năm quê hương bao đổi mới
Chị vẫn đi trên con đường phố núi
Bước chân lặng thầm gom góp những chiến công.
(Kính tặng chị Phương Duyên – Chiến sĩ an ninh P Tân Thanh- TP Điện Biên Phủ)
ANH NGƯỜI CHIẾN SĨ CÔNG AN NHÂN DÂN
Nguyễn Thị Hồng Miên
Một màu xanh bình dị rất khiêm nhường
Màu áo anh thắm chiến công rực rỡ
Đánh đổi bằng mồ hôi, máu xương, gian khổ
Lấy yên bình, hạnh phúc của nhân dân
Dòng thời gian quay guồng những bước chân
Nhiệm vụ lên trên, ngày đêm không kể
Những vụ án, những hiện trường cam go dâu bể
Vì nhân dân quên mình, quên hạnh phúc riêng tư
Một mái nhà bình dị đơn sơ
Đứa con thơ ngóng cha về mỗi tối
Người vợ hiền, những đêm chờ mòn mỏi
Nhiệm vụ chất chồng, anh quên cả thời gian
Nghề giản dị nhưng khó nhọc gian nan
Bữa cơm nhà đếm ngón tay thưa thớt
Giấc ngủ chẳng tròn, nhiệm vụ giao bất chợt
Anh lại lên đường mặc giá rét canh thâu
Đảng trao nhiệm vụ, gian khó đương đầu
Dân gửi niềm tin, quên mình phục vụ
Ma túy, côn đồ, ác gian có đủ
Cuộc chiến thời bình quyết liệt chẳng súng vang
Bao chiến công đánh đổi bằng tính mạng
Nhiều đồng đội không trở về sau mỗi trận xông pha
Để lại con thơ, vợ trẻ, mẹ già
Những hi sinh có bao giờ kể hết
Bao trận chiến vẫn tháng ngày chưa kết
Anh vẫn lặng thầm với nhiệm vụ quang vinh
Mặc khó khăn, mặc vất vả hi sinh
Với Đảng với dân anh một lòng trung hiếu.
NGƯỜI CHIẾN SĨ CÔNG AN NƠI TUYẾN ĐẦU CHỐNG DỊCH COVID
Nguyễn Thị Hồng Miên
Chiến trường nào cũng biết bao gian khó
Trận chiến nào cũng có bao mất mát hi sinh
Trong trận chiến nơi tuyến đầu chống dịch
Những chiến sĩ an ninh với hi sinh thầm lặng
Vì nước quên thân đêm ngày thức trắng
Vì dân phục vụ dãi dầm mưa nắng
Ăn lán, ngủ rừng chiếc bánh, gói mì
Giữ yên bình nơi điểm chốt, khu cách ly
Bao gian lao trên vai người chiến sĩ
Tội phạm hoành hành, giặc dã hiểm nguy
Những kẻ côn đồ tim ma, máu quỷ
Lẩn khuất nơi nơi gieo tội ác đồng bào
Nào ma túy tuồn vào nội địa
Nào tin đốn thất thiệt tung ra, kẻ ích kỷ độc mồn lăng mạ
Kẻ nhẫn tâm mang theo mầm bệnh đến quê nhà
Vì nhân dân anh sẵn sàng lăn xả
Bao ngày tháng anh chưa thể về nhà
Đứa con thơ ngóng cha về mỗi tối
Người vợ hiền đêm ngày mòn mỏi
Cha yếu mẹ già sớm tối âu lo
Trận chiến nguy nan từng phút từng giờ
Cả dân tộc ta đang đồng lòng chống dịch
Đánh giặc vô hình, gian nan nguy kịch
Bệnh tật bủa vây bất cứ khi nào
Người chiến sĩ an ninh trung- hiếu, tự hào
Chữ trung với Đảng trọn đời trao gửi
Chữ hiếu với dân đêm ngày không mỏi
Trước mọi kẻ thù anh dũng xông pha.
DẤU CHÂN NGƯỜI CHIẾN SĨ CÔNG AN CHỐNG COVID
Nguyễn Thị Hồng Miên
Em viết về anh, người chiến sĩ công an
Người mang bình yên cho đất nước, đồng bào
Mọi gian nguy ở bất cứ nơi nao
Anh sẵn sàng xông pha vào tuyến lửa
Giữa đại dịch bao khó khăn chất chứa
Anh xung phong ra mặt trận tuyến đầu
Cắm chốt đêm ngày giữa chốn rừng sâu
Lối mở, đường mòn canh phòng chặt chẽ
Bao nhiêu khó khăn tháng ngày dâu bể
Ngăn chặn covid tràn vào nội địa
Bảo đảm an toàn bao khu vực cách ly
Tuyên truyền nhân dân hiểu về đại dịch
Để mỗi mái nhà hạnh phục yên bình
Bước chân các anh ngay đêm không nghỉ
Nhiệm vụ canh tuần sớm tối anh đi
Vất vả gian lao in vào lối phố
Bao nhiêu khó khăn chất chồng còn đó
Tệ nạn đua xe ngoài kia nhức nhối
Đồng đội mãi ra đi sau trận chiến chống hung thần
Anh nén chặt nỗi đau dấu vào tâm thức
Diệt ác, trừ gian sẵn sàng túc trực
Vì Tổ quốc vì hạnh phúc đồng bào
Mặc nỗi nhớ nhà cồn cào da diết
Anh lại lên đường không kể thời gian
Trận chiến covid khốn khó vô vàn
Giấc ngủ chẳng tròn, bữa cơm vội vã
Lời thề kiên trung, nhân dân là tất cả
Anh trọn một lòng chiến đấu không ngơi.
Nguyễn Hồng Miên @ 10:25 03/05/2020 Số lượt xem: 23287
Download Lời Chúc Thi Tốt
XemLịch thi THPT Quốc Gia 2019
Chi tiết: Lịch thi THPT Quốc Gia 2019
Tới hẹn lại lên, những kỳ thi nối tiếp nhau thành một chuỗi dài nào là thi giữa kỳ, thi hết kỳ, thi hết môn và tới đây sẽ là kỳ thi THPT Quốc Gia 2019 … trong những kỳ thi ấy không thể thiếu những câu chúc, chúng tôi đã sưu tầm và lựa chọn bổ sung những lời chúc hay và ý nghĩa cho các sĩ tử. Bạn đọc quan tâm có thể tải “Lời chúc thi tốt” miễn phí trên website Taimienphi.vn
Tổng hợp những lời chúc thi tốt trong kỳ thi THPT Quốc Gia 2019
Những lời chúc thi tốt ngắn và hay nhất
1: Không có gì phải lo lắng cả. Con đã học tập rất chăm chỉ và ba mẹ chắc chắn con sẽ làm tốt bài thi. Chúc con may mắn!
2: Dũng cảm và bình tĩnh. Chắc chắn cậu sẽ làm tốt. Chúc cậu may mắn trong kỳ thi sắp tới!
3: Nỗi sợ hãi là kẻ thù lớn nhất của chúng ta. Hãy đánh bại nó, rồi cậu sẽ đạt kết quả tốt thôi. Chúc cậu may mắn!
4: Đừng sợ các kỳ thi, con trai. Bởi vì nó chỉ kiểm tra quá trình học tập của con, và con đã học tập nỗ lực cả năm. Chúc con may mắn trong kỳ thi quan trọng này!
5: Vận may là một điều buồn cười bởi vì lúc tốt, lúc xấu. Vì thế, đừng tin vào vận may, hãy làm chủ vận mệnh của mình, học tập thật chăm chỉ và dừng việc tin vào may mắn. Tớ chúc cậu đạt kết quả tốt trong kỳ thi sắp tới!
6: Các kỳ thi là dịp để thể hiện tài năng và quyết tâm của các em. Mong rằng Chúa sẽ ở bên các em trong suốt kỳ thi.
7: Ba tin rằng con đã làm mọi thứ để giành chiến thắng trong trận chiến ngày mai trong phòng thi. Đừng bối rối con trai, bởi vì sự nỗ lực luôn được đền đáp!
8: Nếu em tin vào bản thân mình, em không cần sợ bất cứ khó khăn nào. Chị chúc em thành công trong kỳ thi ngày mai!
9: Có một câu nói thế này: “Đừng căng thẳng, hãy cố hết sức và quên hết những thứ còn lại!” Hãy nhớ điều này khi làm bài thi, chỉ cần bình tĩnh và viết ra những gì cậu biết. Tớ chúc cậu thành công!
10: Thắng bại là hai mặt của một đồng xu, vì thế đừng căng thẳng quá. Tớ biết cậu có thể làm tốt trong kỳ thi sắp tới!
Xem lời chúc thi tốt – Những lời chúc thi tốt cho bạn thân hay nhất
Lời chúc thi tốt được thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau như: văn xuôi, thơ, hình ảnh… ở mỗi dạng đều có những nét đặc sắc riêng. Với văn xuôi tạo nên cảm giác nhẹ nhàng dẫn dắt người đọc ví như lời chúc sau:
1. “Thông báo Chuyến bay mang tên “Đại Học,Cao Đẳng 2016” sẽ cất cánh vào vào đầu tháng 7. Đề nghị tất cả các hành khách kiểm tra lại hành trang Kiến Thức, Tâm Lý và Tự Tin. Chuyến bay sẽ đáp cánh xuông đảo “Thành Công” nằm trên biển “Thất Bại”. Cùng với 1 chút May Mắn và sự chuẩn bị kỹ lưỡng chúng ta sẽ đáp cánh tốt đẹp xuống hoàn đảo xanh tươi này. Chú ý hành khách nào ko chuẩn bị tốt sẽ bị rớt xuống biển “Thất Bại” cho loài cá Lêu Lêu ăn thịt. Bạn đã sẵn sàng chưa???”
2. “Tránh Xa Điểm 1 Dẹp Điểm 2 Bye Điểm 3 Xa Điểm 4 Trốn Điểm 5 Căm Điểm 6 Quý Báu Gì điểm 7 Quyết Nhảy Qua Điểm 8 Bám Chặt Điểm 9 Vịn Chắc Điểm 10″
Xem Ảnh chúc thi tốt
* Chi tiết: Ảnh chúc thi tốt
Ảnh chúc thi tốt hài hước, dễ thương
Ảnh chúc thi tốt hài hướng theo trào lưu Facebook
Những lời chúc thi tốt hay ngắn gọn hay và ý nghĩa trong mùa thi
18 Llời chúc thi tốt troll hay và ý nghĩa cho người yêu, bạn bè
Những lời chúc thi tốt bá đạo dành cho các sĩ tử
Những lời chúc thi THPT Quốc Gia 2019 hay nhất
Một số lời chúc thi tốt hay và ý nghĩa nhất 2019
Những lời chúc thi tốt cho crush, chúc ny thi tốt
Cập nhật thông tin chi tiết về Pleiku, Thơ Và Thi Nhân trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!