Bạn đang xem bài viết Rồng Trong Ngôn Ngữ Và Văn Học Dân Gian Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trong thực tế đời sống, từ săn bắt hái lượm đến định cư nông nghiệp, dân Việt cổ thường gặp phải những tai nạn ở sông biển, mà họ cho là do thủy quái, một loài động vật ở nước gây ra. Chính vì thế mà họ đã vẽ mình, xăm trên thân hình những dạng hình ngoằn ngoèo (truyền thuyết kể là từ đời Hùng Vương) và mãi đến đời Trần mới bãi bỏ.
Chính cái truyền thuyết về Con Rồng Cháu Tiên là một thứ truyền thuyết Việt cổ đã bị khúc xạ bởi yếu tố văn hóa ngoại nhập, văn hóa Hán tộc.
Suốt quá trình bị đô hộ và sau đó là giao lưu văn hóa với Trung Hoa, khái niệm rồng của Trung Hoa mới du nhập Việt Nam. Từ đó, người Việt mới có khái niệm rồng như là một con vật linh thiêng, trong hệ thống tứ linh: long, lân, quy, phụng. Và từ đó, trong ngôn ngữ, từ long hay rồng mới gắn với cương vị đế vương, vua chúa, hay những thực thể cao quý. Như một loạt từ sau đây:
Long thể: thân thể vua Long nhan: mặt vua Long sàng: giường vua Long ngai: ngai vua Long cổn, long bào: áo vua Long châu, long thuyền: thuyền vua…
Và hình ảnh tưởng tượng của rồng cũng đã chi phối cách mô tả ngoại hình các bậc vua chúa của nhà văn: râu rồng, mũi rồng, đi nhẹ như nước, ngồi vững như non v.v…
Đó là trong ngôn ngữ và văn chương bác học. Còn trong ngôn ngữ và văn học dân gian, từ rồng, hình tượng rồng được dùng mở rộng hơn. Và tất nhiên là không mấy hệ thống. Nên đề cập về hình tượng rồng, từ rồng trong ngôn ngữ và văn học dân gian là một câu chuyện tản mạn, có tính chất phiếm luận.
Có thể thấy dân gian quan niệm về rồng tản mạn như sau:
1. Cá gáy hóa rồng:
Quan niệm này cũng tiếp thu từ Trung Hoa. Ca dao ta nói:
Mồng bốn cá đi ăn thề. Mồng tám cá về cá vượt Vũ môn.
Vũ môn, tức cửa Vũ gồm có ba tầng. Ở Trung Quốc và ở Việt Nam ta đều có địa điểm này. Đó là nơi mà người xưa tưởng là cá trải qua cuộc thi khảo sát về trình độ và năng lực. Nếu vượt qua ba cấp Vũ môn thì sẽ hóa rồng(!)
Từ khái niệm cụ thể đó, thành ngữ “cá hóa rồng” thường dùng để chỉ việc thi cử thành đạt của sĩ tử ngày xưa. Dân gian đã từng nuôi ước mơ:
Biết bao giờ cá gáy hóa rồng, Đền công ơn thầy mẹ ẵm bồng ngày xưa
Khái niệm này cũng được mở rộng, dùng để chỉ cho việc người con gái lấy được người chồng xứng đáng:
Phận gái lấy được chồng khôn, Xem bằng cá vượt Vũ môn hóa rồng.
2. Rồng nở từ trứng và ở hang.
Nhưng trong dân gian cũng có một quan niệm khác: rồng cũng sinh sản như rắn:
– Trứng rồng thì nở ra rồng Liu điu thì nở ra dòng liu điu. Hay: Trứng rồng thì nở ra rồng, Hạt thông thì nẩy cây thông rườm rà.
Và rồng cũng ở hang:
– Lấy chồng thì phải theo chồng, Chồng đi hang rắn, hang rồng, cũng đi.
Quan niệm này hẳn có màu sắc bản địa hơn quan niệm trên kia.
3. Trong ngôn ngữ và văn học dân gian, rồng là một yếu tố ví von, so sánh để biểu đạt một số mặt sinh hoạt của con người, như ăn, nói, viết, giao tế, thời vận, tình yêu, nhận định về con người và cuộc sống.
Trước hết về chuyện ăn. Chỉ có một thành ngữ: “ăn như rồng cuốn”. Rồng cuốn tức là rồng hút, chỉ hiện tượng vòi rồng trong tự nhiên, như cách chiêm nghiệm thời tiết:
Rồng đen uống nước thì nắng, Rồng trắng uống nước thì mưa.
Về chữ viết, người văn hay chữ tốt thường được ca ngợi “như rồng bay phượng múa”.
Ngay cả lời nói: “nói như rồng” là nói thao thao bất tuyệt:
Trong lưng chẳng có một đồng, Lời nói như rồng chúng chẳng thèm nghe.
Nhưng coi chừng, bao giờ cũng cần nói đúng thực chất, nói phù hợp với kiến thức mà mình tiêu hóa, nếu không dễ trở thành khập khiễng: “nói những lời như rồng như rắn”. Thêm yếu tố rắn làm chuyển đổi giá trị tức khắc:
Học chẳng biết chữ cua, chữ còng, Nói những lời như rồng, như rắn!
Trên phương diện giao tế, dân gian dùng thành ngữ: “rồng đến nhà tôm” để vừa tỏ sự tự khiêm, nhún nhường của gia chủ, vừa ca ngợi người khách quý. Nhưng có khi, đó cũng là cách mai mỉa:
Mấy đời rồng đến nhà tôm. Tôi đến nhà chị không môn thì bầu.
Âu cũng là một lối giao tế thực dụng. Và quen thuộc nhất là rồng chỉ thời vận. Hanh thông như là “rồng gặp mây”. Thường chỉ người thành đạt khoa cử:
“Như cá gặp nước, như rồng gặp mây”
Nhưng mất yếu tố thời vận thì chỉ là “rồng nằm ở cạn”, không còn vùng vẫy, múa may gì được, mà chỉ còn trơ hình hài:
Rồng nằm bể cạn giơ râu, Mấy lời anh nói giấu đầu hở đuôi. Hay đau khổ hơn là:
Rồng vàng tắm nước ao tù, Người khôn ở với đứa ngu bực mình.
Đó cũng là cái tình thế bất như ý:
Khốn nạn thay, nhạn ở với ruồi, Tiên ở với cú, người cười với ma Con công ăn lẫn với gà, Rồng kia rắn nọ, coi đà sao nên.
Dễ thường mấy khi rồng mây được dùng để chỉ lứa đôi, vì những hình tượng khác quyến rũ hơn, như: mận – đào, loan – phượng, yến -oanh, gió – trăng v.v… nhưng điều đó cũng có:
Mấy khi rồng gặp mây đây, Để rồng than thở với mây vài lời. Nữa mai rồng ngược mây xuôi, Biết bao giờ lại nối lời rồng mây.
Như thế, “lời rồng mây” cũng là lời hẹn thề, lời chung thủy, lời nước non.
Họa hoằn lắm, rồng được dùng như là một biểu tượng của ngăn trở, của cách chia:
Ngồi buồn gởi bức thư sang, Có con rồng bạch chắn ngang giữa trời Vậy nên thơ chẳng tới nơi, Trông thơ, ai biết những lời làm sao.
Ở trên, đã nhắc đến những kết hợp rồng – phượng, rồng – rắn. Ngoài ra, còn có kết hợp rồng – hổ, theo dạng thức đối lập, trong cách ví von nhẹ nhàng mà không kém sâu sắc và mai mỉa, đồng thời lại là chơi chữ:
Xấu hổ nhưng mà tốt long Đến khi no lòng, tốt cả long lẫn hổ.
Trong nghệ thuật dân gian và cung đình Việt Nam cũng như Trung Hoa, rồng là hình tượng trang trí quen thuộc trên lâu đài đình tạ am miếu, như những mô típ: lưỡng long tranh châu, lưỡng long triều nguyệt, long hý châu, long lộng vũ, long ẩn, và đặc biệt là các điệu hóa cả chiếc thuyền vua, long thuyền tức thuyền rồng. Đến nỗi có người con gái nghèo mơ ước:
Vốn tôi chỉ có ba đồng, Nửa để nuôi chồng, nửa để nuôi tôi. Còn thừa mua cái bình vôi, Mua xanh, mua chảo, mua nồi nấu ăn. Còn thừa mua nhiễu vấn khăn, Mua dăm vuông vóc may chăn cho chàng. Còn thừa mua chiếc thuyền rồng, Đem ra cửa bể cho chàng thả chơi…
Cũng là lời nói ngoa cho đỡ day dứt cảnh nghèo, chứ dân giả ai mà chẳng biết:
Tay chèo cất mái hò khoan Thuyền rồng chúa ngự, khoan khoan mái chèo.
Một kiểu nói khác bày tỏ sự ước ao sang cả, biểu hiện một tâm lý hưởng thụ, để trở thành phản bội: Một ngày dựa mạn thuyền rồng, Còn hơn chín tháng nằm trong thuyền chài.
Cách nói ấy tất nhiên bị phủ định bằng một suy nghĩ chín chắn hơn, xác thật hơn:
Chớ tham ngồi mũi thuyền rồng, Tuy rằng tốt đẹp, nhưng chồng người ta.
Và quả thật, dân gian đã xét đoán đúng giá trị con người, nhìn đúng thực chất con người, không lệ thuộc những thứ trang sức phù hoa, những thứ trang hoàng sang trọng:
Dù ngồi cửa sổ chạm rồng Chăn loan gối phượng, không chồng cũng hư
Nhưng sâu sắc và không kém chua chát là lời cảm thán sau đây:
Khen ai khéo dựng bình phong, Bên ngoài long phượng, trong lòng gạch vôi!
Trong một cách nói ngoa ngữ, cường điệu, một chi tiết thiếu bình thường trên gương mặt người con gái cũng có thể bị châm biếm một cách dí dỏm:
Lỗ mũi em mười tám gánh lông, Chồng thương chồng bảo râu rồng trời cho.
Đúng là người lớn lắm chuyện. Hãy trở về với thế giới trẻ em. Trong tâm tưởng hồn nhiên, ngây thơ của trẻ em qua đồng dao, rồng đã là một biểu tượng của hạnh phúc, của ấm no, giàu có như lời chúc tụng của trẻ em ngày xưa đối với gia chủ trong những ngày tết nguyên đán:
Súc sắc súc sẻ, Nhà nào còn đèn còn lửa, Mở cửa cho anh em chúng tôi vào, Bước lên giường cao, thấy đôi rồng ấp. Bước xuống giường thấp, thấy đôi rồng chầu. Ông sống một trăm, thêm năm tuổi lẻ…
Đó cũng là lời chúc tất cả bạn đọc trước thềm năm mới.
T.Đ (SH29/02-88)
Tìm Hiểu Những Yếu Tố Triết Học (Hay Triết Lý Dân Gian) Trong Tục Ngữ Việt Nam
Tục ngữ và triết học là hai lĩnh vực, hai hiện tượng ý thức xã hội khác nhau. Tục ngữ thuộc lĩnh vực nghệ thuật, là một thể loại văn học dân gian (folklore), còn triết học thuộc lĩnh vực khoa học, là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận.
Tri thức của tục ngữ là tri thức dân gian, được rút ra trên cơ sở quan sát và miêu tả cái cụ thể, đó là những tri thức kinh nghiệm, những “lẽ phải thông thường”. Còn triết học – triết học nào cũng đi xa hơn “lẽ phải thông thường là tri thức khoa học, là hệ thống những quan niệm, quan điểm về thế giới, là sự tổng hợp và khái quát ở mức độ chung nhất và cao nhất những quy luật vận động của tự nhiên, của xã hội, của con người, của tư duy. Tục ngữ là văn học dân gian nên tác giả của nó là tập thể, là quần chúng nhân dân, còn triết học là một môn khoa học nên tác già của một hệ thống hoặc một tác phẩm triết học bao giờ cũng là cá nhân – là những người hoạt động trí óc chuyên nghiệp, có khả năng tư duy lý luận và có năng lực khái quát cao. Xét về cội nguồn, về thời điểm ra đời tục ngữ cũng có trước triết học. Tục ngữ đã có từ trong xã hội nguyên thuỷ, nhưng trong xã hội nguyên thủy thì chưa thể có triết học, nhiều lắm là chỉ có những mầm mống của tư tưởng triết học, hay là tư duy tiền triết học phải đến thời đại văn minh, tức là khi xã hội đã phân chia giai cấp thì triết học thực sự mới có điều kiện ra đời, nghĩa là trình độ tư duy trừu tượng và các tri thức khoa học của con người đã phát triển đến mức đòi hỏi và có khả năng khái quát các tư tưởng triết học.
Tục ngữ tuy không phải là triết học nhưng về phương diện nào đó nó rất gần gũi với triết học. Tục ngữ được làm ra với mục đích triết lý, luôn luôn cố gắng phát hiện ra bản chất và tính quy luật của các sự vật và hiện tượng tự nhiên, xã hội và đời sống con người. Do đó nhiều người gọi tục ngữ là “‘triết lý dân gian”, “triết học của nhân dân lao động”. Điều đó được thể hiện ở chỗ trong nội dung tục ngữ có chứa đựng những yếu tố của tư tưởng triết học, nghĩa là những tư tưởng triết học không được thể hiện một cách đầy đủ và chặt chẽ như những quy luật, nguyên lý và mệnh đề triết học mà nó chỉ được thể hiện một phần nào đó và bằng cách nào đó trong nội dung của tục ngữ.
Về mặt thế giới quan, tục ngữ Việt Nam đã phản ánh những nhận thức có tính duy vật tự phát, thừa nhận sự tồn tại và vận động khách quan của thế giới không phụ thuộc vào con người: ” Chạy trời không khỏi nắng“, ” Chạy mưa không khỏi trời“, “trời”, “nắng”, “mưa” ở đây chính là hiện thực khách quan. Sự vật và hiện tượng khách quan tồn tại, vận động và phát triển theo quy luật vốn có của nó: ” Trăng đến rằm thì tràng tròn, sao đến tối thì sao mọc“, ” Còn da lông bọc, còn chồi nẩy cây“. Tư tưởng duy vật của nhân dân lao động còn được thể hiện ở thái độ phản đối những chuyện mê tín dị đoan và những người làm các nghề đó: ” Thầy bói nói dựa“, ” Bói ra ma, quét nhà ra rác “.
Nhân dân lao động còn thể hiện tư tưởng duy vật của mình trong việc nhìn nhận và giải quyết các vấn đề về đời sống xã hội. Đó à một thứ chủ nghĩa duy vật trực quan, chất phác, ngây thơ, xuất phát từ kinh nghiệm. Quan điểm duy vật đó được thế hiện một cáchh đơn giản và sinh động: ” Có thực mới vực được đạo “. “Thực” ở đây có thể là ăn, là lương thực, là kinh tế như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng vận dụng trong những trường hợp cụ thể khác nhau. Nhưng dù sao, “thực” cũng là một cơ sở kinh tế, là đời sống vật chất là tồn tại xã hội, còn “đạo” nghĩa là sự nghiệp, là lý tưởng hoạt động thuộc lĩnh vực kiến trúc thượng tầng, là đời sống tinh thần, là ý thức xã hội. “Thực” vực “đạo”, nghĩa là vật chất quyết định tinh thần, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Con người là chủ thể xã hội, nhưng cũng là một sinh vật. Đối với mọi sinh vật, ăn phải là nu cầu hàng đầu: ” Mẻ không ăn cũng chết“. Những con người thì không chỉ có ăn, mà sau ăn phải là mặc: ” Được bụng no còn lo ấm cật“. Và khi có ăn có mặc rồi thì con người không lo chết đói chết rét nữa: ” Cơm ba bát, áo ba manh, đói không xanh, rét không chết “.
Nhưng muốn có ăn, có mặc thì phải lao động vì như Engen nói: “lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống con người”. Vốn là những người lao động nên nhân dân ta rất coi trọng lao động và thấy rõ giá trị của lao động: ” Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn“, ” Có khó mới có miếng ăn“, ” Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ “…
Nói đến xã hội, nói đến lao động thì phải nói đến chính bản thân con người, vì không có con người thì không có xã hội, không có lao động. Bởi vậy xưa nay triết học Đông Tây đều bàn về con người rất nhiều. Tục ngữ ta có câu; ” Người ta là hoa đất ” – một câu nói chỉ có năm từ thuần Việt mà thể hiện sâu sắc quan niệm cả về vũ trụ và nhân sinh, với một tư tưởng nhân văn cao đẹp.
Nói về con người và giá trị con người, tục ngữ ta thường so sánh người và của bao giờ cũng đặt người trên cao hơn rất nhiều: ” Người làm ra của, của không làm ra người“, ” Một mặt người hơn mười mặt của“, ” Người sống hơn đống vàng“… Đương nhiên, trên thực tế tuy cùng là “người” nhưng không phải ai cũng như ai, cũng như tuy cùng là “của” nhưng không phải cái gì cũng có hai trị như nhau, vì thế tục ngữ ta cũng có phân loại: ” Người ba bẩy đảng, của ba bẩy loài “.
Đi đôi với tư tưởng duy vật tự phát, trong tục ngữ Việt cũng chứa đựng rất nhiều những yếu tố của tư tưởng biện chứng. Đó là cách nhìn nhận các sự vật và hiện tượng không phải ở trạng thai đứng im, bất biến mà ở trong sự vận động, biến đổi và phát triển và luôn luôn liên hệ điều đó với đời sống con người: “Trời còn có khả năng khi mưa, ngày còn khi sớm khi trưa nữa người“, ” Người có lúc vinh, lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong“, ” Ai giàu ba họ, ai khó ba đời“, ” Hết cơn bĩ cực đến kỳ thái lai“, ” Tre già măng mọc“, ” Con chị nó đi, con dì nó lớn “…
Các sự vật và hiện tượng không tồn tại độc lập, tách rời nhau: mà giữa chúng có những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau với mức độ và phạm vi khác nhau tùy theo từng đối tượng cụ thể: ” Mạ nhờ nước, nước nhờ mạ“, ” Hồ cậy rừng, rừng cậy hồ“, ” Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng“, ” Gần lửa rát mặt“, ” Cháy thành vạ lây“, ” Con sâu bỏ rầu nồi canh“, ” Thớt trên mòn, thớt dưới cũng mòn‘, ” Trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết“, ” Cả nhà làm quan cả họ được cậy, một người làm bậy cả họ mất nhờ“, ” Lê tồn Trịnh, tại Lê bại Trịnh vong “…
Mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng được tục ngữ thể hiện khá phong phú và sinh động, tuy không phải dùng đến khái niệm “Chất, lượng, độ, thuộc tính” như triết học. Phân biệt chất khác nhau được tạo nên bởi những thuộc tính khác nhau: ” Chẳng chua cũng thể là chanh, chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây“. Chất khác nhau tạo ra những giá trị khác nhau: ” Trăng mờ còn tỏ hơn sao, dẫu rằng núi nở còn cao hơn đồi“. Không thể lấy lượng thay chất được dù rằng lượng đó gấp bao nhiêu lần: ” Trăm đom đóm không bằng bó đuốc, trăm hòm chỉ chẳng đúc lên chuông“. Chất bao giờ cũng được coi trọng hơn lượng. ” Quý hồ tinh bất quý hồ đa“, ” Văn hay chẳng lọ dài dòng“… và rất nhiều câu diễn tả sự thay đổi về lượng khi “vượt độ” sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất: ” Quá mù ra mưa“, ” Tốt quá hoá lốp“, ” Mèo già hoá cáo“, ” Góp gió thành bão, góp cây nên rừng“… Đặc biệt có câu thể hiện sự chuyển hoá lẫn nhau giữa khái niệmlượng và khái niệm chất: ” Gò với núi cũng kể loài cao, bể với ao cũng kể loài thấp “.
Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng được tục ngữ nói đến ở nhiều góc độ và mức độ khác nhau, rất thực tế và linh hoạt. Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng: ” Người khôn dồn ra mặt“, ” Khôn ngoan hiện ra nét mặt, què quặt hiện ra chân tay“. Có thể căn cứ vào hiện tượng đề kết luận về thực chất sự vật: ” Nứa trôi sông chẳng giập thì gẫy, gái trồng rẫy chẳng chứng nọ cũng tật kia“. Hiện lượng khác nhau nhưng bản chất chi là một: ” Khác lọ cùng một nước“. Cái bề ngoài thì dễ thấy nhưng cái bên trong thì khó mà thấy: ” Họa hổ hoạ bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm“. Phải cảnh giác với những hiện tượng xuyên tạc bản chất: ” Thủ thỉ nhưng mà quỷ ma“, ” Tẩm ngẩm tầm ngầm mà dẫm chết voi“…
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả (gọi tắt là quan hệ nhân quả) cũng được thể hiện trong nhiều câu tục ngữ: ” Không có lửa sao có khói“, ” Gieo gió gặt bão“, ” Trèo cao ngã đau“, ” Nguồn đục dòng cũng đục“, ” Thế gian chẳng ít thì nhiều, không dừng ai dễ đặt điều cho ai “…
Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung trong tục ngữ được thể hiện như là sự gắn bó và phân biệt giữa cá thể và và loài trong thế giới sinh vật: ” Thân chim cũng như thân cò“, ” Lòng vả cũng như lòng sung, một trăm con lợn cũng chung một lòng“, ” Sống mỗi người mỗi nết, chết mỗi người mỗi tật “…
Quan hệ mâu thuẫn trong tự nhiên và xã hội được trình bày như là “sự trái ngược” đơn thuần: ” Được mùa cau, đau màu lúa“, ” Được người mua, thua người bán‘, ” Được lòng ta xót xa lòng người“, ” Kẻ ăn không hết, người lần không ra “…
Bên cạnh những tư tưởng duy vật và tư tưởng biện chứng có tính chất trực quan đó, nhân dân lao động ngày xưa, do thế giới quan không thuần nhất, do trình độ nhận thức còn thấp kém và do bị áp bức nặng nề trong xã hội có giai cấp đối kháng nên không tránh khỏi những tư tưởng duy tâm và mê tín dị đoan. Tuy có nghi ngờ, không tin vào các loại “thầy” cụ thể làm nghề mê tín, nhưng họ lại tin vào thần thánh, vào vận hạn, vào tướng mạo và những dấu vết trên cơ thể con người, vào ngày giờ lành dữ, và nhất lả tin vào số mệnh (những câu tục ngữ nói về “số” cũng nhiều hơn về các thứ mê tín khác): ” Đất có thổ công, sông có hà bá,” ” Trời cho hơn lo làm“, ” Một khoáy sống lâu, hai khoáy trọc đầu, ba khoáy chóng chết“, ” Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba“, ” Từ sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên“, ” Trăm đường tránh chẳng khỏi số“, ” Tốt số hơn bố giầu‘, ” Số giàu tay trắng cũng giàu, số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo“…
Những tư tưởng duy tâm, mê tín nói trên không những chi phối nặng nề đời sống của nhân dân lao động nước ta trong các xã hội trước đây, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến một bộ phận nhân dân trong xã hội ta ngày nay, đặc biệt là đối với lớp người làm nghề buôn bán và tầng lớp thanh niên gặp nhiều khó khăn, trắc trở về tình duyên, về công việc làm ăn… Đó cũng là điều khó tránh khỏi. Chi có sự phát triển của đời sống xã hội và kinh nghiệm thực tế của mỗi người mới có thể dần dần khắc phục và loại trừ những quan niệm sai lầm trong thế giới quan và nhân sinh quan.
Ý nghĩa triết học của kho tàng tục ngữ Việt rất rộng lớn, phong phú, muôn hình, muôn vẻ. Đó là những di sản quý báu “Những viên ngọc quý” của đời sống tinh thần được coi như một trong những điểm tựa về tư tưởng truyền thống của dân tộc mà chúng ta cần và có thể chọn lọc, kế thừa và sử dụng trong cuộc sống mới hiện nay.
Văn Học Dân Gian Quảng Trị
Văn Học Dân Gian Quảng Trị
Văn hoá nói chung, là biểu tượng của mọi lề lối, phương thức sinh hoạt từ tiếng nói, tập tục, cách ứng xử, lễ hội, tín ngưỡng đến cách ăn mặc, lời ru, tiếng hát… gom lại; là cốt cách, sức sống… của một cộng đồng dân cư từ nhỏ đến lớn. Chưa có một kết luận cụ thể nào xác định thời điểm có mặt của người Việt tại vùng đất Quảng Trị, chỉ biết một điều là đã được diễn tiến bởi nhiều đợt di dân qua hàng bao thế kỷ. Cội nguồn của người Việt được hình thành trong vùng châu thổ các sông ở miền Bắc, tạo dựng một nền văn minh, văn hoá nông nghiệp. Những người di dân vào Nam vẫn mang theo truyền thống ấy.
Quảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó.
Quảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó.
Thơ Ca Hò Vè là sản phẩm của nông dân, phản ảnh bao trùm mọi sinh hoạt với một loại ngôn ngữ bình dân mang tính đại chúng, cho thấy rõ nét cái chơn chất mộc mạc nhưng thắm đậm nhân tính của con người Quảng Trị. Tạm thời có thể sắp xếp theo các thể loại sau:
I / Tục ngữ:
A. Về thời tiết và sản xuất
Cò ăn ruộng sâu thì nắng
Cò ăn ruộng cạn thì mưa
Công cấy thì bỏ, công làm cỏ thì ăn
Chớp ngã Cồn Tiên, mưa liền gặp trộ
Đập đất nhỏ, luống đánh to
Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào
Đói thì ăn môn ăn khoai
Đừng thấy ló lỗ giêng hai mà mừng
Trăng rằm đã to lại tròn
Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi
Xứ Cùa đất đỏ ba dan
Ai ơi trồng mía làm giàn thả tiêu
B. Về đời sống xã hội
Liệu cơm mà gắp mắm ra
Liệu cựa liệu nhà mà gả con vô
Khun ba năm không ai biết
Dại một giờ bạn hay
Đi buôn bữa lỗ bữa lời
Ra câu giữa vời bữa có bữa không
Ai ơi chớ lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm
Khoai lang cổ bở cổ trân
Làm rễ họ Trần cực lắm ai ơi
Bỏ công múc nước đường xa
Có trong thì múc, ngà ngà thì thôi
Sui gia là bà con tiên
Ăn ở không hiền là bà con quỷ
II / Câu đố:
Hai người ở hai buồng
Ngó đi nhìn lại như tuồng cấm cung
Đêm về sập cửa thả chông
Ngày thì vòi vọi đứng trông nhau hoài
(Hai con mắt)
Gặp nhau đây bất luận đêm ngày
Lật ra xem thử lỗ này ở đâu
Đâm vô thì rút ra mau
Đừng để trung nớ mà đau lòng nàng
Rút ra máu chảy tràn lan
Khi nớ duyên thiếp, nợ chàng ngái xa
(Đạp gai)
Họ hàng chỉ sống trên non
Tìm cây hút nhụy nuôi con tháng ngày
Không may lửa dậy khói bay
Thảm thương ấu tử sống rày thác mai
(Tổ ong bị đốt)
Cây xanh mà lá cũng xanh
Dầm mưa dãi nắng theo anh võ vàng
Một mai lửa đỏ thành than
Mây bay khói lượn truớc mặt chàng, chàng ơi
(Cây thuốc lá)
III/ Vè:
Một thể loại truyền khẩu rất phổ thông, dễ nhớ, thường là mô tả cảnh sinh hoạt ở nông thôn, một nhân vật đặc biệt, đôi khi nêu thói hư tật xấu với dụng ý giáo dục .
A. Vè Ba Lòng:
Thanh trời rạng thấy núi xây
Rừng xanh suối bạc đáo vầy tứ phương
Trà Trì, Văn Vận hai phường
Đá Nầm, Chinh Thạch giao lương thuận hòa
Tháng năm bắp đã tới mùa
Chè thơm mít chuối bên Cùa gánh sang
Bao nhiêu thao vải, lụa hàng
Vật gì phường chợ cũng băng ngàn trải lên
Đò thì mắm nục, mắm nêm
Đò thì cá khô, muối ruốc cũng mang lên tại phường
Đò thì gạo, nếp, trứng, đường
Đò thì vàng bạc, lược, gương, cau trầu
Đò thì ghè, đục, ang, âu
Tréc, om, trình thống, dĩa dầu, bình vôi
Buôn chi thì nỏ có lời
Lưỡi cày, lưỡi cuốc, núc, nồi, đá, dao
Buôn chi than, vải lụa thao
Nhuộm màu xanh lục, rêu rao thêu thùa
Bao nhiêu cũng nhờ hột bắp mà thôi
Rồi mùa ngó lại, giơ cồi với mao
B. Vè thằng nhác
Lẳng lặng mà nghe
Kể vè thằng nhác
Gia đình khổ cực
Vợ yếu con thơ
Chồng ai được nhờ
Chẳng nên trò trống
Nửa ngày thức dậy
Lục đục soong nồi
Vắt áo đi chơi
La cà hàng xóm
Vợ nhờ cày ruộng
Tao bị đau chân
Vợ nhờ quét sân
Đau lưng vẹo cổ
Vợ nhờ bửa củi
Cái búa nó hư
Vợ bảo đi bừa
Sợ rằng trâu húc
Vợ nhờ đi gặt
Tao gánh đau vai
Thở ngắn than dài
Tội tình chị vợ
Ấy thế mà!
Nồi cơm vừa dở
Chưa kịp ai mời
Cúi cổ cúi tai
Một hồi chén sạch
Là cái thằng nhác
Ăn dữ không làm
Hỡi xóm hỡi làng
Nghe vè thằng nhác
C. Vè con gái
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè con gái
Tay chân mềm mại
Khác thể bông ba
Chờ mẹ đi ra
Cắp tiền thu dấu
Muốn ăn khoai nấu
Muốn ăn khoai nướng
Muốn ăn xôi chè
Ăn rồi ngồi xếp bè he
Cái lưng bơ bừng cái thúng
Ăn chùng ăn vụng
Cho sướng cái thân
Việc nỏ muốn mần
Dôông thì muốn lấy
Áo năm bảy cấy
Mược vào đi chợ
Béng ướt dụy tôm
Hai tay bóoc lá
Lộ mồm hả ra
IV/ Đồng dao
Bập bong bong tay mô khôông tay mô có
Bập bò bọ tay mô có tay mô khôông
Chị lấy dôông em ở quá
Chị ăn cá em mút xương
Chị đường em mật
Chị vật em coi
Chị voi em ngựa
Chị bựa em bèn
Chị kèn em trống
Chị trống em mái
Chị méo em tròn
Hai hòn về chị
Rầm rà rầm rì
Xây lúa Đồng Nai
Cơm gạo phần ngài
Tấm cám phần tui
Lờ đệng cháy nhà
Bà già chạy chựa
Cháy nửa bồ thóc
Lóc cóc chạy về
Ông Đề hỏi răng
Cu Nhăng cắn nhện
Heo chi – Heo lang – Lang chi – Lang cẳng – Cẳng chi – Cẳng giò – Giò chi – Giò móng – Móng chi – Móng heo
V/ Câu đối
Văn vận tuột quần Văn vận vận
Bích La đau bụng Bích La la
Cam Lộ buôn cam, Cam Lộ Lộ
Bích giang không nón, Bích giang giang
Tân Trúc trồng tre, thở hoi hóp
Đông Hà xúc hến hát ngêu ngao
VI/ Ca dao
Ca dao chiếm phần lớn nhất trong văn học dân gian, biểu hiện tâm hồn giàu tình cảm, phóng khoáng của người nông dân, một thứ tình cảm bình dị chơn chất trong sáng như cuộc đời hiền hòa đôn hậu của họ, được thể hiện trong mọi tình huống, hoàn cảnh về gia đình, xã hội, đặc biệt là về tình yêu đôi lứa, một đề tài muôn thuở
Quan hệ gia đình
Biết răng chừ cá gáy hóa rồng
Để đền công ơn Thầy Mẹ ẵm bồng ngày xưa
Chị em như chuối nhiều tàu
Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời
Cây kia ăn quả ai trồng
Sông kia uống nước hỏi giòng từ đâu
Cơ đồ gầy dựng bấy lâu
Công lao tiên tổ lẽ đâu quên hoài
Mộ phần gìn giữ hôm mai
Những ngày lễ tết chẳng sai lệ thường
Có chồng rồi khác chi con ngựa có dây cương
Lôi mô chạy nấy khổ trăm đường ai ơi
Còn cha gót đỏ như son
Một mai cha chết, gót con đen sì
Mẹ già ham việc tiếc công
Cầm duyên con lại thu đông mãn rồi
Mãn rồi cai đội hồi hương
Trai về làm ruộng, gái buôn nuôi chồng
Ra đi bố mẹ ở nhà
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng
Quan hệ xã hội
Ai về Đông Hà, ai qua Cam Lộ
Ai về Gia Độ, ai đến Gio Linh
Ai về Triệu Phong, Quảng Trị quê mình
Cho em nhắn gởi chút tình nhớ thương
Bạn về không có chi đưa
Môn khoai đang dại, mít dừa đang non
Cây cao bóng mát chẳng ngồi
Lại ngồi trửa nắng trách trời không dim
Cây khô xuống nước cũng khô
Phận nghèo đi tới chỗ mô cũng nghèo
Con quan lấy đứa mần than
Nắng mưa phải chịu cơ hàn phải theo
C . Quan hệ lứa đôi
Trăng lên tới đó rồi tề
Nói chi thì nói, em về kẻo khuya
Bướm vàng đậu đọt cau tơ
Kiếm cái nơi mô nương tựa
Chơ răng cứ vất vơ rứa hoài
Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp là cơm nguội những khi đói lòng
Đi mô cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp theo
Cam chua, quýt ngọt… bồng the
Thấy em nho nhỏ, anh ve anh để dành
Xa anh có bấy nhiêu ngày
Tình em như mảnh trăng gầy nửa đêm
Hai ta mót củi một cồn
Bứt tranh một chỗ, tiếng đồn thật xa
Em đương vút nếp hong xôi
Nghe anh lấy vợ, thúng trôi nếp chìm
Ai hay nông nổi mần ri
Ngày xưa ở rứa, vội chi trao lời
Anh đã có vợ thời thôi
Không phải mắm nêm chuối chát mà muốn moi cho nhiều
Anh về đừng có ngó lui
Để em ngó dọi ngùi ngùi thêm thương
Anh đưa em lên đến ngã tư sòng
Em trở Về Cam Lộ, anh trở lại Triệu Phong với ai chừ
Được nên chồng nên vợ thì hay
Rủi thời đói khổ có ăn mày cũng phu thê
VI. Hò:
Hò là thể loại dân ca phong phú, đa dạng, có tính quần chúng và mang nét đặc thù Quảng Trị Đó là một hình thức sinh hoạt sôi nổi, được diễn ra trong công việc đồng áng, lễ hội hay là một cách giải trí trong buổi nông nhạn Có nhiều điệu hò và cách hò tùy theo không gian thời gian, lao động nặng nhọc khác nhaụ Quét vôi thì hò hụi, giã gạo thì hò khoan, hò hô, chèo đò thì hò mái nhì, nếu đò mắc cạn thì hò mái đảy, hò rủ rơm, hò đánh bài thai, bài chòi, hò kéo gỗ, hò ru và hò đối đáp… Ở đây chúng tôi xin giới thiệu mấy điệu hò tiêu biểu:
A. Hò ru:
Tất cả chúng ta đều lớn lên từ 4 tao nôi và lời ru của Mẹ. Làn điệu ngọt ngào êm dịu như đã thấm vào máu thịt xương tủy và cũng lớn lên theo giòng đời . Qua năm tháng nổi trôi, lời ru luôn luôn là sự gợi nhắc tình cảm, nghe mãi nhưng nghe lại vẫn không khỏi bồi hồi:
Khi con thức Mẹ cho con bú
Khi con lú Mẹ lại ru hời
Nuôi con cực lắm con ơi
Chỉ mong cho con lưng dài vai rộng
Để lấp biển vá trời như ai !
Mẹ thương con ngồi Cầu Ái Tử
Vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu
Mai đây bóng xế trăng lu
Con ve kêu mùa hạ
Biết mấy thu đợi chờ
Em nghe anh đau đầu chưa khá
Em đây băng đồng chỉ sá bẻ nạm lá qua xông
Ước làm sao cho nên đạo vợ chồng
Đổ mồ hôi ra em chặm
Lại ngọn gió lồng em che
Ru hời ru hỡi là ru
Bên cạn thời chống bên su thời chèo
Xây thành đắp lũy trên non
Cắm hoa dưỡng nước nuôi con tháng ngày
Một mai lửa dậy khói bay
Con ơi ! Mẹ không biết sống rày thác mai
Ơn cha ba năm báo bổ
Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang
Bên ướt Mẹ nằm bên ráo con lăn
Lấy chi trả nghĩa sinh thành
Lên non tạc đá xây lăng phụng thờ
B. Hò đối đáp:
Là một thể loại văn nghệ tự túc độc đáo dược phổ biến rộng rãi trong mỗi làng quê Quảng Trị trong thập niên 30, 40. Những lúc nông vụ đã tạm ổn, vào những đêm trăng, đâu đâu cũng nghe tiếng hò rộn ràng sôi nổi tạo nên một không khí tưng bừng vui vẻ. Có thể chia làm hai loại: Hò ân tình và Hò đâm bắt.
1) Hò ân tình
Loại này đơn giản dễ hò, có thể lấy từ câu đố, một cốt chuyện đã có sẵn, chỉ cần nhập vai là hò được hoặc đôi bên đối đáp về những chuyện trời trăng mây nước vô thưởng vô phạt Địa điểm hò thường được chọn ở những nhà rộng rãi thoáng mát để có được đông đảo khán giả tham dự. Thường thì các cô gái đã đợi sẵn còn các chàng còn vòng vòng ngoài ngõ hay trước sân:
Ai đứng ngoài đường cho muỗi cắn ho kêu
Vô đây phân giải đôi điều cho vui
Các chàng chỉ đợi có thế mạnh dạn bước vào:
Chào lê chào lựu chào đào
Ai xa chào trước ai gần chào sau
Chào bên nam mất lòng bên nữ
Chào người quân tử sợ dạ thuyền quyên
Cho anh chào chung một tiếng kẻo chào riêng khó chào
Ai có chồng thì khuyên chồng đừng sợ
Ai có vợ thì xin vợ đừng ghen
Ra đây ta hò hát cho quen
Rạng ngày ai về nhà nấy…
Khá thể ngọn đèn hai tim
Đó là màn dạo đầu, cuộc hò sẽ tiếp tục:
Nữ: Đố anh chi sắc hơn dao
Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời
Nam: Con mắt em sắc hơn dao
Lòng sâu hơn biển, trán cao hơn trời
Nữ: Bánh cả mâm răng kêu bánh ít
Trầu cả chợ răng gọi trầu không
Ai mà đối đặng làm chồng nữ nhi
Nam: Chuối không đi tây răng kêu chuối sứ
Cây không đi học răng kêu cây thông
Anh đã đối đặng em theo chồng về mau
Nữ: Nghe anh thuộc sách Kinh Thi
Hỏi anh con cá nằm dưới cỏ gọi là con cá chi rứa anh hè
Nam: Anh đây thuộc sách Kinh Thi
Con cá nằm dưới cỏ anh nghĩ là con cá tràu
Nữ: Em như bông sen trong hồ
Các anh như bèo như bọt nhìn chi được cơ đồ nơi em
Nam: Nước lên cho sóng cuộn theo
Cho sen chìm xuống bèo trèo lên trên
Nữ: Em đây như con rồng vàng
Chín tầng mây phủ nằm ngang giữa trời
Nam: Anh đây có phép thần thông
Vén mây cỡi gió bắt con rồng coi chơi
Nữ: Em đây như chiếc chuông vàng
Treo trong thành nội có hàng ngàn quân canh
Nam: Quân canh dù mấy chục ngàn
Dùi chiêng anh mang sẵn, anh nện chuông vàng đứt đôi
Kiến bò cột sắt sao mòn
Con vò vò xây tổ sao tròn mà xây
Kiến bò cột sắt thành đàn
Con vò vò xây tổ khám vàng cũng xây
Thương thay các cậu chự bò
Cái lưng môốc thếc thếc
Bộ giò đen thùi thui
Em về dở sách ra dò
Cha em lúc trước cũng chự bò như anh
Trai không vợ như chợ không đình
Mưa dông một trộ ghé mình vào đâu
Trai chưa vợ lo phò vua vệ quốc
Chợ không đình tại thợ mộc suy vi
Sao không lo phận thiếp lại đi hỏi chàng
2) Hò đâm bắt:
Thường là đối đáp giữa trai và gái, loại này đòi hỏi một khả năng thiên phú: Thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát. Đối thủ luôn luôn tạo bất ngờ, không có thì giờ suy nghĩ, chọn lựa. Người ra chiêu có lợi thế hơn (thường là nữ) đi những đường quyền móc họng, phạm thượng. Ngôn ngữ ở đây thuộc loại dân gian dung tục, các danh hò thường không né tránh bất cứ một từ ngữ nào miễn đạt được hết ý và đưa đối phương vào thế hiểm hóc (Nhân đây cũng xin mở một dấu ngoặc về loại văn chương này vì gần đây trên văn đàn hải ngoại, nhà lý luận phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc có đưa ra bản thảo về ngôn từ dung tục trong văn học dân gian miền Nạm đại khái như: Vân Tiên ngồi núp bụi môn. có một vài từ đại loại như thế, kính mong các bậc trưởng thượng thông cảm:
Trong đêm hò tại vùng Long Quang Linh Yên, một siêu hò đã đánh đòn phủ đầu các nam nhi:
Anh ra chi mỗi tháng mỗi ra
Cực lòng em lắm mẹ cha hỏi hoài
Mới nghe tưởng là một lời trách móc trữ tình, thực ra chị này đem “việc riêng” của mình ra để so sánh xưng tụng thật là hết ý . Một số ngượng nghịu bỏ về. Có người đáp lại nhưng sống sượng, thiếu hấp dẫn:
Anh ra ba em cũng ra
Anh còn sống, ông cụ thác xuống ngã ba mất rồi
Một hôm khác tại Gia Đẳng:
Tiếng đồn em học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi
Con bò cái đi trước, con bò đực đi sau, nó cười chi rứa eng hè
Anh học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi, con bò cái đi trước, con bò đực đi sau nói cười nó cọ, nó đo-u sao thiếp không biết lại đi hỏi chàng
Vùng Đá Nầm, Đá Nổi ở Ba Lòng cũng một thời nhộn nhịp: những lúc nông nhàn trai tráng miệt đồng lên khai thác lâm sản và những đêm hò lại diễn ra:
Liệu bề đát được thì đan
Chớ đừng đan rồi để đó mà thế gian chê cười
Cô gái có vẻ kênh kiệu, coi thường chàng trai, nhưng chàng ta bình tĩnh tung đòn phản công rất ngoạn mục:
Anh đây đan cũng giỏi, đát cũng tài
Lận thì đè côi đè xuống, còn nức thì xỏ ngoài xỏ vô
Đến hiệp hai thì nam danh hò bối rối:
Ra đường lại gặp anh Ba
Anh ở “trung nớ” anh ra răng chừ ? !!!
Chàng ta xin khất, đi tìm bà cô: là một danh hò đã gác kiếm, sau khi hối lộ một xấp thuốc Tầm Bỏi, bà đã chỉ cho câu đáp, mặc dầu không sâu sắc lắm nhưng cũng đỡ mất mặt:
Anh ở trung nớ mới ra bựa qua
Cùng ra có cậu bên nhà kết nghĩa thầy trò
Anh nhanh chân anh tới trước còn cậu lò dò theo sau !!!
Có những cô gái thật là lì lợm lém lỉnh đôi khi làm các chàng trai yếu bóng vía phải ngọng nghịu chùn chân:
Anh làm thợ mộc khéo đã ra chi khéo
Đóng bức đố xéo đã ra chi tài
Răng không giơ cái lại chàng ra chắn mộng để thòi lòi mộng ra
Tuy thế vẫn có những nam nhi thông minh lanh lợi, đáp lại vô cùng thỏa đáng:
Anh đã đưa cái lại chàng ra chắn mộng
Mà thầy mẹ bên nhà khoát khoát khoan khoan
Để khi đi về móc áo, lỡ chừng treo khăn
Cũng đã có cô gái bạo mồm bạo miệng tung chưởng vào đối phương:
Em mua cho anh cái dù tám cóng
Dưới có mốc đồng
Răng anh không đội
Để đầu không rứa hè
Nhưng đối thủ của nàng không phải tay vừa, đã bình tĩnh phản công:
Cái dù tám cóng dưới có cái móc đồng
Em đem về cho cha em đội cho nội em che
Phận anh là rễ đội nón tre quen rồi
Đôi khi lời đối đáp thật hóm hỉnh, thông minh:
Tiếng đồn em lấy chồng già
Đêm nằm em thấy ớt cà ra răng
Tre già còn dẻo hơn măng
Ớt cà tra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ
Văn nghệ dân gian như đã nói là một chất liệu ngôn ngữ hòa tan trong tâm thức của mọi người, nó như mạch ngầm ẩn dấu đâu đó tưởng chừng quên nhưng chỉ một giây lắng đọng khắc khoải, sẽ bừng dậy những nỗi nhớ niềm thương da diết. Đó là một kho tàng vô tận tiềm ẩn trong mỗi người Quảng Tri, không thể có một công trình tìm kiếm hoàn chỉnh .Trong phần lược ghi với một ít nội dung tượng trưng, hy vọng tạo được một khoảnh khắc thanh thản khi nhớ về quê hương.
Lê Văn Trạch
Bản Sắc Văn Hóa Dân Tộc Việt Nam Trong Thơ
Check Also
Next
Bạn thấy không, chân dung văn hóa người Việt là do các nhà thơ tạo tạc.
Nghĩa láng giềng luôn là điều canh cánh bên lòng người Việt, sau tình gia đình. Vẫn là Nguyễn Bính: “Bờ rào cây bưởi không hoa/ Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo”. Thi nhân chân quê sẽ sống mãi trong tâm hồn Việt, dù xã hội Việt Nam đô thị hóa cỡ nào, dù người Việt rời xa quê cũ tới chân trời góc biển nào. Vì ông đã rải các hàng thơ xuống mọi cung bậc của người-nhà-quê ẩn hiện trong mỗi con dân Việt: “Thầy ơi! Đừng bán vườn chè/ Mẹ ơi! Đừng chặt cây lê con trồng”. Và không thể nào quên câu-thơ-bảng-hiệu made by Nguyễn Bính: “Hoa chanh nở giữa vườn chanh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê”.
Với cả cuộc đời sôi động trong và ngoài nước, Du Tử Lê là thi sĩ “toàn tòng”. Cho nên nỗi hoài hương của ông bao trùm lên tất cả: “Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè/ Nắng Trương Minh Giảng, lá hè Tự Do/ Nhớ nghĩa trang xưa, quê hương bạn bè/ Nhớ pho tượng lính, buồn se bụi đường”.
Vì thế, sự tinh tế trong ứng xử là điều dân Việt coi trọng. Không chỉ tinh tế trong đại sự, mà cả trong tiểu tiết: “Dịu dàng như thể tay tiên/ Giữ hờ mép áo làm duyên qua đường”. Thưa, đó là dáng vẻ đi đứng của con gái nhà lành thời chàng Nguyễn Bính đang nổi như cồn vì sự đam mê thơ truyền thống trong khi say đắm người đẹp tân thời. “Mép áo” chiếc áo cánh, có thể chẳng bị cơn gió bạo nào, nhưng “tay tiên” vẫn thả nhẹ xuống ra vẻ “giữ hờ” khi người đẹp băng qua đường trước bao ánh mắt người lạ. Làm duyên là một nét độc đáo và ấn tượng trong sinh hoạt thường nhật của người phụ nữ Việt Nam. Với người Việt, đẹp xấu chưa biết, trước hết phải duyên.
Việt Nam lại là đất nước thi ca, như thi sĩ Nguyễn Bính từng viết: “Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ”. Đúng vậy, so với các ngôn ngữ khác, tiếng Việt có khá nhiều thanh điệu (6 thanh điệu), như đôi cánh nâng thi ca tung bay đến chân trời của tâm hồn.
kannada girls sex chúng tôi west indies open sex indian bus groping chúng tôi tv 5 monde asie schedule tmailxnxx chúng tôi wwxxvideo com mywapking video chúng tôi chúng tôi beautiful sexy aunty chúng tôi bhabhi saree navel
sixwap com chúng tôi chettu kinda pleader songs download www.gonzo xxx chúng tôi chúng tôi xvideos new tamil lady boy xnxx chúng tôi nesapron houjou no reizoku elf 3 chúng tôi porn hantai kumari kandam chúng tôi unconscious sex video
Cập nhật thông tin chi tiết về Rồng Trong Ngôn Ngữ Và Văn Học Dân Gian Việt Nam trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!