Bạn đang xem bài viết Sự Tích Quả Dưa Hấu (Sự Tích Mai An Tiêm) được cập nhật mới nhất trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Dưa hấu là một loài quả rất được mọi người yêu thích khi xuân đi hè đến. Loài quả ấy có vỏ xanh, ruột đỏ, hạt màu đen. Khi ăn đem đến cho người thưởng thức cảm giác thanh mát, ngọt lành. Hôm nay Vườn cổ tích sẽ kể cho các bé nghe về “Sự tích quả dưa hấu” hay còn có tên gọi khác là “Sự tích Mai An Tiêm”.
Theo sự tích trên, quả dưa hấu chính là giống quả mà chàng Mai An Tiêm sau khi bị đày ra đảo hoang đã dùng để cho người cha của mình thấy: của cải, cây trái do mình làm ra là quý giá và đáng trân trọng đến nhường nào.
Ngày xưa, vào thời Vua Hùng Vương thứ 18, có một chàng trai tên là Mai An Tiêm. Mai An Tiêm nhanh nhẹn, tháo vát, lại chăm chỉ nên được nhà vua rất mực yêu mến và còn gả cả con gái nuôi cho chàng nữa. Vua rất yêu quý An Tiêm nên thường ban cho chàng nhiều của ngon vật lạ.
Tất thẩy mọi người ai được nhận lộc vua ban đều nâng niu ca tụng, riêng An Tiêm lại bảo rằng:
– Của mình làm ra mới quý, còn của biếu là của lo, của cho là của nợ!
Chàng vẫn chăm chỉ làm lụng, không hề có ý trông chờ vào bổng lộc vua ban.
Tất cả chỉ chờ có thế, bon quan ninh thần bèn đem câu nói của Mai An Tiêm tâu lên nhà vua. Nhà vua vô cùng tức giận và cho rằng chàng là một kẻ kiêu bạc vô ơn. Nhà vua giận lắm: “Đã thế để xem, nếu chỉ trông vào sức mình thì hắn có sống nổi không?”. Ngài sai quân lính bắt giữ Mai An Tiêm rồi đuổi cả gia đình chàng ra đảo hoang.
Cả gia đình Mai An Tiêm lênh đênh trên biển hết ngày này đến ngày khác. Cuối cùng, họ cũng cập bến lên một hòn đảo lạ. Vợ Mai An Tiêm khóc lóc kêu lên:
– Sao tôi khổ thế này? Biết vậy thì chúng ta không nên làm nhà vua tức giận!
– Trời đã sinh ra ta, sống chết là ở Trời và ở ta. Chỉ cần có đôi bàn tay này thì chúng ta sẽ không sợ chết đói đâu. – Mai An Tiêm an ủi vợ.
Tình cờ một hôm, Mai An Tiêm phát hiện ra có một đàn chim từ phương Tây tới, chúng đậu trên bờ và đang ăn một loại hạt gì đó có màu đen láy. Mai An Tiêm nghĩ thầm: “Hạt này chim ăn được thì chắc người cũng ăn được!”
Nghĩ vậy, Mai An Tiêm liền thu gom hết số hạt lại và đem gieo trồng dưới đất. Ngày ngày, Mai An Tiêm ra sức chăm bón cho ruộng vườn của mình. Chẳng bao lâu sau, ruộng vườn của chàng trở nên xanh tốt, um tùm. Cây nở hoa, kết thành trái to. Đến mùa thu hoạch, Mai An Tiêm cùng với vợ con đem hết số quả đã chín về nhà. Quả nào quả nấy đều có màu xanh thẫm, khi bổ quả ra, thì bên trong ruột lại có màu đỏ tươi, mọng nước và có cả hạt màu đen nữa. Khi ăn quả, thì lại thấy quả có vị ngon, ngọt, thơm mát.
Một ngày kia, có một chiếc tàu gặp bão, bèn cập bến vào đảo để tránh bão. Mõi nười lên bãi cát, thấy có rất nhiều quả lạ, ngon. Họ đua nhau đổi thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Rồi từ đó, tiếng đồn vang xa rằng có một giống quả rất ngon trên hòn đảo ấy. Các tàu buôn tấp nập ghé đến đổi lương thực, thực phẩm cho gia đình An Tiêm để được nếm vị ngon của quả lạ. Nhờ đó mà gia đình bé nhỏ của An Tiêm trở nên đầy đủ, cuộc sống đã sung túc đầy đủ hơn.
Vì chim đã mang hạt quả từ phương Tây tới nên An Tiêm đặt tên cho thứ quả này là Tây Qua. Các thương lái Trung Quốc ăn thấy ngon, khen là “hẩu”, nên sau người ta gọi lái đi là trái Dưa Hấu.
Share this:
Like this:
Like
Loading…
Related
Khám Phá Hòn Đảo Mai An Tiêm Xây Dựng Sự Nghiệp
Sự tích Quả dưa hấu nói về chàng trai tên Mai An Tiêm
Tương truyền câu chuyện bắt nguồn từ đời Hùng Vương thứ XVII, vua Hùng có mua một bé trai người ngoại quốc về làm đầy tớ. Vì lanh lợi nên Vua rất yêu mến, nhận cậu làm con nuôi, đặt tên là Mai An Tiêm. Được vua tin dùng, Mai An Tiêm được sống trong vinh hoa phú quý và được nhiều người quý mến. Vua Hùng đã gã con gái của mình cho Mai An Tiêm.
Quan niệm của Mai An Tiêm cho rằng “Của mình làm ra mới quý, còn của biếu là của lo, của cho là của nợ” Câu nói kia đến tai vua, khiến Hùng Vương nổi giận, đày An Tiêm và cả gia đình ra ngoài hoang đảo. Tưởng chừng không thể sống sót trên đảo cuộc sống rất vất vả. Nhưng lạ thay Mai An Tiêm phát hiện một đàn chim bay từ phương Tây đến, thả các hạt màu đen lên cát. Mai An Tiêm đem những hạt đó trồng ít lâu hạt đơm hoa kết trái, chim đến khoét quả để ăn.
Mai An Tiêm bắt đầu sự nghiệp với những hạt giống
Thấy chim ăn quả mà không sao nên gia đình Mai An Tiêm ăn thử và phát hiện quả đó rất mát và ngọt, thứ quả ấy chính là quả dưa hấu. Mai An Tiêm lấy hạt trồng tiếp nhiều vụ sau đó, đổi với tàu buôn lấy gạo nuôi sống gia đình. Sau này khi những quả dưa hấu đến tay vua, vua Hùng nhận ra An Tiêm đã nói đúng, cho gọi về trả lại tước vị, lại ban thêm nhiều vinh hoa phú quý.
Vua gọi gia đình Mai An Tiêm về khi ăn thử dưa hấu
Tương truyền, hòn đảo nơi Mai An Tiêm bị đày và sinh sống đến sau này dần dần được bồi đắp trở thành đất liền, người dân đến sinh sống ngày đông hơn, dựng thành làng ấp và đặt tên là làng Mai An, còn gọi là Mai Thôn, nay thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Hòn đảo Mai An Tiêm sinh sống hiện thuộc tỉnh Thanh Hóa
Nơi đây được xem là vùng đất gốc nên là nơi trồng dưa ngon nhất nước; người dân ở đây tôn vợ chồng Mai An Tiêm là “Bố Cái dưa hấu” hay “ông bà tổ dưa tây” và thờ cúng. Theo sách Lĩnh Nam chích quái liệt truyện khi đến lễ bái đều lấy quả dưa Tây (dưa hấu) qua làm đồ tế tự. Về xuất xứ, quả dưa hấu ban đầu có tên là Tây qua vì được chim tha từ phía Tây đến. Xét theo khoa học nguồn gốc của loại quả này ở vùng Tây Á có tên Ả-rập là Baticha, tiếng Pháp là Pasteque. Về sau được gọi là dưa hấu, vì sau khi dâng lên Vua ăn thấy ngọt mát thấu dạ nên truyền đặt là dưa thấu, chữ thấu ở đây còn hàm ý Vua đã thấu hiểu được sự cố gắng và tấm lòng của Mai An Tiêm. Sau này được đọc chệch gọi là dưa hấu theo tiếng địa phương.
Thanh Hóa là vùng đất địa linh nhân kiệt là thủy nguồn của những vị nhân, vị vua khai thiên lập địa như: nhà Tiền Lê, nhà Hồ, nhà Hậu Lê, chúa Trịnh hay chúa Nguyễn. Nơi đây còn nổi tiếng với nền ẩm thực phong phú như nem chua, gỏi cá nhệch. Làng nghề thủ công như: làng chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng, vải tơ Nam Định, lụa Hà Đông.
Nếu như cách đây chỉ khoảng 5 năm Nga Sơn còn khó khăn do áp lực cạnh tranh chỉ có vài hộ giữ nghề truyền thống này. Nhưng những năm gần đây được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, ngành dưa hấu nơi đây đã phát triển hơn hẳn.
Kể Chuyện Mai An Tiêm
KỂ CHUYỆN MAI AN TIÊM – SỰ TÍCH DƯA HẤU
I- Mục đích: Qua câu chuyện các em hiểu được Mai An Tiêm đã lao động đem lại thành quả tốt đẹp. II- Chuẩn bị: – Câu chuyện kể Mai An Tiêm. – Hình ảnh Mai An Tiêm và dưa hấu. III- Thực hành: – Huynh Trưởng kể cho các em nghe câu chuyện Sự tích Mai An Tiêm 1.Vào đời Hùng-vương, ở một vùng quê cách xa kinh đô Phong-Châu, có một cậu bé mồ côi, thường theo người lớn đi săn bắn và đánh cá…Năm tám tuổi, cậu bé được lên kinh đô và gặp vua Hùng. Thấy cậu bé thông minh, nhà vua nhận làm con nuôi và đặt tên là Mai An-Tiêm. 2. Lớn lên, Mai An-Tiêm rất khỏe mạnh và chăm chỉ làm việc. Vua Hùng cưới vợ cho An-Tiêm và cho cả hai vợ chồng đi phá rừng, làm rẫy trồng trọt. Chỉ ít lâu sau, An-Tiêm đã dựng được nhà cửa và gặt được nhiều thóc lúa chứa đầy kho. 3.Thấy thế, bọn người ganh tị tâu với vua Hùng: “An-Tiêm coi thường ơn Vua. Hắn cho rằng của-cải làm ra đều là nhờ ơn Trời và tài sức của hai vợ chồng hắn với các con”. Vua Hùng nghe tâu giận lắm, không cần tìm hiểu hư, thực ra sao 4. Nhà Vua truyền lệnh đày gia đình An-Tiêm ra một đảo hoang vắng ở biển Đông. Ngoài lương khô đủ ăn trong vài tháng, không được mang theo gì hết xem còn nhờ Trời vào đâu. Thế là cả gia đình An-Tiêm lênh đênh ở giữa biển khơi. 5.Cuối cùng, thuyền tới một đảo hoang, đầy cát trắng. Ngoài ít lương khô, không có một con dao hoặc một hạt giống gì nữa. Vợ An-Tiêm khóc. Chàng dỗ vợ: “Chúng ta là người có khối óc và hai bàn tay thì gian nan, vất vả mấy cũng vượt qua được!…” 6. Hôm sau, An-Tiêm kiếm được cành cây nhọn, liền đào đất xuống thật sâu và thấy nước ngọt để uống. Rồi chàng cùng các con bẻ cành cây, khuân đá xếp lại, làm nơi trú mưa nắng. Vợ chàng xuống ven biển mò được cua, ốc để ăn thêm. 7. Nhờ kiếm được những viên đá lửa lớn, An-Tiêm đánh hai viên đá vào nhau là có lửa để nấu cua, luộc ốc. Một hôm, An-Tiêm thấy có con chim trắng ở đâu bay tới, làm rơi hạt đen đen xuống bãi cát trắng. An-Tiêm liền đem hạt này trồng thử. 8. Mấy tháng sau, những hạt ấy mọc thành những cây nhỏ bò lan trên mặt cát. Cây có nhiều trái màu xanh thẫm to bằng đầu người lớn. An-Tiêm hái một trái đem về cho cả nhà ăn thấy ruột đỏ mà ngọt, lại có lắm nước. Thế là An-Tiêm liền trồng thêm nhiều nữa. 9. Đến khi dưa có nhiều trái rồi, An-Tiêm dùng que nhọn vạch chữ vào, thả xuống biển cho trôi đi khắp nơi. Thuyền buôn qua lại, vớt được trái này, ăn thấy ngon, liền tìm tới đảo, đổi hàng hoá, vải, gạo lấy những trái đó đem đi các nơi bán. Đó là trái dưa hấu, “tức quả dưa đỏ”. 10.Tiếng đồn về quả dưa đỏ đến tai vua Hùng. Vua biết tài của An-Tiêm nên cho cả gia đình An-Tiêm trở lại đất liền. Lần này vua lại phong thưởng cho An-Tiêm và khuyên chàng dạy cho mọi người cách trồng dưa. Kể từ đó, nước Văn-Lang có thêm loại dưa hấu đỏ vừa để ăn, vừa để bán. IV- Câu hỏi: – Hoàn cảnh của Mai An Tiêm như thế nào? – Mai An Tiêm bị đày đến đâu và làm gì để sống ? – Sự lao động không biết mệt mỏi của Mai An Tiêm đã đem lại kết quả như thế nào?
Qua câu chuyện các em hiểu được Mai An Tiêm đã lao động đem lại thành quả tốt đẹp.- Câu chuyện kể Mai An Tiêm.- Hình ảnh Mai An Tiêm và dưa hấu.- Huynh Trưởng kể cho các em nghe câu chuyện Sự tích Mai An Tiêm1.Vào đời Hùng-vương, ở một vùng quê cách xa kinh đô Phong-Châu, có một cậu bé mồ côi, thường theo người lớn đi săn bắn và đánh cá…Năm tám tuổi, cậu bé được lên kinh đô và gặp vua Hùng. Thấy cậu bé thông minh, nhà vua nhận làm con nuôi và đặt tên là Mai An-Tiêm.2. Lớn lên, Mai An-Tiêm rất khỏe mạnh và chăm chỉ làm việc. Vua Hùng cưới vợ cho An-Tiêm và cho cả hai vợ chồng đi phá rừng, làm rẫy trồng trọt. Chỉ ít lâu sau, An-Tiêm đã dựng được nhà cửa và gặt được nhiều thóc lúa chứa đầy kho.3.Thấy thế, bọn người ganh tị tâu với vua Hùng: “An-Tiêm coi thường ơn Vua. Hắn cho rằng của-cải làm ra đều là nhờ ơn Trời và tài sức của hai vợ chồng hắn với các con”. Vua Hùng nghe tâu giận lắm, không cần tìm hiểu hư, thực ra sao4. Nhà Vua truyền lệnh đày gia đình An-Tiêm ra một đảo hoang vắng ở biển Đông. Ngoài lương khô đủ ăn trong vài tháng, không được mang theo gì hết xem còn nhờ Trời vào đâu. Thế là cả gia đình An-Tiêm lênh đênh ở giữa biển khơi.5.Cuối cùng, thuyền tới một đảo hoang, đầy cát trắng. Ngoài ít lương khô, không có một con dao hoặc một hạt giống gì nữa. Vợ An-Tiêm khóc. Chàng dỗ vợ: “Chúng ta là người có khối óc và hai bàn tay thì gian nan, vất vả mấy cũng vượt qua được!…”6. Hôm sau, An-Tiêm kiếm được cành cây nhọn, liền đào đất xuống thật sâu và thấy nước ngọt để uống. Rồi chàng cùng các con bẻ cành cây, khuân đá xếp lại, làm nơi trú mưa nắng. Vợ chàng xuống ven biển mò được cua, ốc để ăn thêm.7. Nhờ kiếm được những viên đá lửa lớn, An-Tiêm đánh hai viên đá vào nhau là có lửa để nấu cua, luộc ốc. Một hôm, An-Tiêm thấy có con chim trắng ở đâu bay tới, làm rơi hạt đen đen xuống bãi cát trắng. An-Tiêm liền đem hạt này trồng thử.8. Mấy tháng sau, những hạt ấy mọc thành những cây nhỏ bò lan trên mặt cát. Cây có nhiều trái màu xanh thẫm to bằng đầu người lớn. An-Tiêm hái một trái đem về cho cả nhà ăn thấy ruột đỏ mà ngọt, lại có lắm nước. Thế là An-Tiêm liền trồng thêm nhiều nữa.9. Đến khi dưa có nhiều trái rồi, An-Tiêm dùng que nhọn vạch chữ vào, thả xuống biển cho trôi đi khắp nơi. Thuyền buôn qua lại, vớt được trái này, ăn thấy ngon, liền tìm tới đảo, đổi hàng hoá, vải, gạo lấy những trái đó đem đi các nơi bán. Đó là trái dưa hấu, “tức quả dưa đỏ”.10.Tiếng đồn về quả dưa đỏ đến tai vua Hùng. Vua biết tài của An-Tiêm nên cho cả gia đình An-Tiêm trở lại đất liền. Lần này vua lại phong thưởng cho An-Tiêm và khuyên chàng dạy cho mọi người cách trồng dưa. Kể từ đó, nước Văn-Lang có thêm loại dưa hấu đỏ vừa để ăn, vừa để bán.Hoàn cảnh của Mai An Tiêm như thế nào?- Mai An Tiêm bị đày đến đâu và làm gì để sống ?- Sự lao động không biết mệt mỏi của Mai An Tiêm đã đem lại kết quả như thế nào?
Bắc Ninh Đất Miền Cổ Tích
Đất Miền Cổ Tích
Chúng tôi qua cầu sông Cái, đi thẳng đến Phú Thượng rồi rẽ sang phía tay phải chừng 200 mét là đến Dương Xá (nay thuộc Hà Nôị). Nơi đây có đền thờ Nhiếp Chính ỷ Lan. Giữa những mảnh ruộng xanh với đủ gấm mầu khác nhau. Ngôi đền thờ một người phụ nữ phi thường, nổi bật lên, nghiêm trang những rêu phong cái kiểu: “Miếu cổ vàng son nhạt”. Đó là nói về mầu sắc, chứ những gì mà bà để lại cho đất nước vẫn cứ đằm thắm với non sông và lòng người. Bà là hóa thân của Mẫu Thượng Ngàn của bà Man Nương, bà Trưng… Đến Sủi, đi vào quê hương của nhà thơ Cao Bá Quát. Đi tiếp chừng 7 km nữa, chúng tôi đến cầu Dâu. Một cái cầu rất cổ.
Nơi đây, chúng tôi ngắm mãi chỗ sông Đuống cắt ngang sông Dâu để hình thành một bên là Thiên Đức, một bên là Nguyệt Đức. Nơi đây… một cái cây, một dãy gò, một mô đất, đống gạch vụn, ngôi đền v.v… đều có những chuyện kể về mình. Trước mắt chúng tôi là cả một khu vực thành Dâu (Bắc Ninh) với hình vuông mênh mông. Tên chính thức của nó là Luy Lâu hoặc Liên Lâu. Vì khi xưa, thành chính có những vọng gác mà ở tầng trên tỏa ra như những cánh hoa sen, nên thường gọi là Liên Lâu. Hoa sen tượng trưng cho sự phồn. Phồn thóc gạo, phồn giống nòi. Sông Dâu chảy quanh tạo thành con hào thiên nhiên, bảo vệ thành. Xưa kia, khi đê La Thành và Thăng Long chưa hình thành mà mới chỉ là những vùng nước, lau lách, hoang vu thì nơi đây đã là một thành trấn phồn hoa, nhộn nhịp. Đây chính là thủ phủ của đất Giao Châu, là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa. Đại bản do anh của Thái thú Tô Định đặt ở đây. Hai Bà Trưng đã đánh vào nơi này. Trong suốt thời kỳ dài, quân Hán đóng quân ở Liên Lâu, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa liên tục đốt phá, đánh thành. Nghĩa là binh lửa liên miên. Chính điều này đã giải thích được một hiện tượng đáng chú ý. Đó là những vùng đất chung quanh đều đỏ như son. Duy chỉ có khu vực Thành Liên Lâu, đất có màu đen, xám, xỉn. Đất đỏ vì phía dưới có quặng sắt. Còn đất đen là do binh lửa triền miên, đốt phá dữ dội, đã làm than hóa tất cả những sỏi, đá, đất, gỗ, tre, v.v.. Hiện tượng than hóa này đã làm cho đất Thành Liên Lâu không đỏ như đáng lẽ nó phải đỏ. Thật là: “Dấu binh lửa, nước non như cũ”. Khiến cho người thấy cảnh chạnh lòng về vùng Dâu.
Đứng bên Thành, tôi bỗng nhớ đến một buổi đi xem hát cải lương cùng với nhà văn Nguyên Hồng. Tối hôm đó, chị Lệ Thanh đóng vai Trưng Trắc trong vở “Trưng Vương”. Chị vận võ phục có cách điệu. Trông vô cùng uy nghi và lộng lẫy. Mắt phượng, mày ngài, chị diễn có thần và hát rất hay. Nhà văn Nguyên Hồng khóc lên rưng rức và xuýt xoa: “Hay quá, đẹp quá!…”. Trong cuốn: “Viết về lịch sử đất An Nam”, nhà nghiên cứu Patris viết: “Tinh thần độc lập của người Lạc Việt rất cao. Suốt trong thời kỳ bị đô hộ dài dặc, họ không hề sao nhãng việc đứng dậy. Đó là một thứ ánh sáng chói lọi của ý chí quật cường không nguôi”. Trong khu vực Thành Dâu, có chợ Dâu, tháp Dâu. Tháp này 4 tầng, có chóp kiểu Stupa, cao chừng 20 mét, và chùa Dâu. Chùa Dâu phản ánh những nét của đạo Phật từ ấn Độ sang và được bản địa hóa. Nơi đây là trung tâm Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam rồi mới tỏa đi khắp nơi. Cũng là nơi in những bản kinh sớm nhất. Tục truyền, một cây đa thần thoại trôi dưới sông, được bàn tay thần thoại của á Nam Tiên nữ (Man Nương) vớt lên. Khi cây đa được đặt lên mặt đất thì tiên nữ đã biến mất, đã “hạc nội mây ngàn”. Cây đa được xẻ ra, tạc thành 4 pho tượng để thờ. Đó là 4 vị Phật Mẫu gồm 4 chị em: Phật Vân, Phật Vũ, Phật Lôi, Phật Điện (cũng gọi là tứ Pháp). Chị cả được thờ tại Chùa Dâu, chị hai ở Chùa Đậu, chị Ba thì ở Chùa Tướng và cô em út được thờ ở Chùa Dàn. Mấy ngôi chùa này ở gần nhau. Có điều, chùa Dâu là chùa chính, nguy nga nhất. Tượng bà Dâu đặt ở chính giữa chùa chính, cao 2m85 (cả tượng lẫn bệ). Lại có nền cao và vỉa đá. Tễợng bà to hơn so với tất cả những pho tễợng khác trong chùa. Bà vừa là Phật, vừa là nữ chúa bản địa. Nơi đây, hàng năm có mở hội. Gọi là chùa Dâu, khắp nơi nô nức về dự hội. Có tế lễ, rước xách, vui chơi, rất tễng bừng, náo nhiệt. Người ta kể vè:
Dù ai buôn bán trăm nghề Tháng tư, mồng tám thì về chùa Dâu. Dù ai buôn đâu, bán đâu Nhớ ngày mồng tám, hội Dâu thì về…
Cách khu vực thành Liên Lâu chừng 3 km là lăng mộ Lạc Long Quân, là cả một tòa Việt điện. Đi chừng một đoạn đường nữa, rẽ sang bên trái là lăng Sĩ Nhiếp hình tròn trên một cái gò rợp bóng những cổ thụ. Những gò, đống nhấp nhô kéo lên. Dưới những gò đống đó là cơ quan những ngôi mộ Hán. Nơi đây thuộc về làng á Lữ. ở ngã ba Đông Côi cũng có nhiều ngôi mộ Hán có xây những vòng cuốn. Đứng nơi đây, ta có thể nhìn thấy núi Thiên Thai “nằm nghiêng nghiêng với mái tóc xanh rêu”. Chúng tôi đi chừng hơn 2km nữa về phía Đông Bắc, đến làng Đại Trạch có ngôi chùa Đại Trạch nổi tiếng, là nơi trước đây vợ thứ ba Cai Vàng đến tu và trụ trì sau khi làm cuộc khởi ngh ĩa thất bại. Bà thông thuộc 18 môn võ nghệ, đã dạy võ cho các trai làng và làm nhiều điều thiện, trừ kẻ gian ác. Cuộc đời của bà đủ để viết nên môt pho sách bi hùng. Dân làng nơi đây coi bà như tiên, như Phật. Từ Đại Trạch đi xuống phía nam là đến bến Hồ, gối đầu lên sông Cầu. ở đây có làng tranh Đông Hồ mà những bức tranh đậm đà tâm hồn dân tộc của nó đã có mặt ở nhiều gia đình trong nước và chúng cũng được trưng bày trong Bảo tàng Mỹ thuật của nhiều nước trên thế giới. Làng Đông Hồ được gọi là làng tranh, làng đẹp như tranh và cũng được gọi là làng các nghệ nhân. Họ vẽ tranh, khắc tranh, in tranh. Lại còn làm nghề vàng, mã và những mặt hàng trang trí mỹ thuật mang lại thao thức cho nghiều người. Ngược lên phía trên, ta chạm phải đất Lim và 49 làng Quan họ. Nơi mà một làn gió cũng mang điệu dân ca. Với nhữ ng “liền anh, liền chị” ăn mặc xông xênh, trèo lên quán Giốc, đi trẩy hội. Từ Đại Trạch đi ngược lên là đến Trí Quả, rồi đến làng Đình Tổ có chùa Bút Tháp, và đền Đô Vàng son lấp lánh, nơi thờ 8 vị vua Lý. Lý Chiêu Hoàng được thờ riêng ở ngôi đền bênh cạnh. Bà mang một nỗi buồn nguyên khối, không tan. Chính cái dải đất này đã nuôi dưỡng nhà thơ Hoàng Cầm để có được: “Bên kia sông Đuống” “Mưa Thuận Thành”, “Cây bài tam cúc” nổi tiếng.
Chúng tôi nhớ lại một thời vào những năm chống Pháp, khu vực gần Bút Tháp, Rừng Thông, Bãi Tháp v.v.. là khu những du kích nổi tiếng với những chiến công oanh liệt. ở những làng quê nơi đây còn thấp thoáng những tập tục đáng chú ý. Có tục “Ngủ bạn”. Nó là chuyện trong ngày cưới, cô dâu và chú rể chưa động phòng vội. Ngày thứ nhất và ngày thứ hai, cô dâu còn gọi mấy người bạn thân đến ngủ cùng với mình. Nơi đây, họ coi nhẹ trường hợp có cô gái chửa bụa. Sau khi cô gái chửa bụa rồi sinh con được một hoặc hai năm, sẽ có một chàng trai nào đó đến xin cưới làm vợ. Mẹ chú rể mang lễ vật đến nhà gái và nói xanh rờn: “Ngày lành tháng tốt, chúng tôi rất sung sướng được có con dâu và có luôn cả thằng cu nữa”. Khi có trường hợp một đứa trẻ nào đó ở vào hoàn cảnh thập tử nhất sinh mà có được một người nào cứu sống thì đứa trẻ đó nhận người cứu mạng làm cha nuôi. Những ngày giỗ, tết phải đến thăm cha mẹ nuôi, phải đóng góp và có nhiệm vụ nhễ con đẻ. Đó là hình ảnh và dễ vị của thời mẫu hệ xa xôi. Những chuyện như vậy còn rất nhiều.
Chúng tôi cũng theo dõi trong tâm tưởng khi đi trên con đường cổ từ bến hồ, đi Bắc Ninh, tới Phả Lại, Lục Đầu giang rồi ra biển hoặc đi ngược lên phía bắc, sang Trung Quốc… Đó là con đường mà các nhà sư ấn Độ đi từ chùa Dâu sang Trung Quốc truyền đạo. Là con đường mà con trâu vàng từ Trâu Sơn, giếng Việc ở Phả Lại đã chạy một mạch về Tống Bình (tên xưa của Thăng Long) rồi đẫm mình nơi vũng nước ở phía Tây Bắc, làm nên hồ Trâu Đằm và sau được gọi là hồ Dâm Đàm hoặc hồ Tây. Đó là con đường để cha ông cha ta đánh giặc Nguyên, Mông…
Khách hành hương tới mảnh đất này thấy mình được lớn lên. Chỗ nào cũng có những di tích, tín hiệu, huyền thoại v.v… minh chứng cho sự tồn tại hào hùng của dân tộc. Chúng ta chắt lại những mảnh vụn lịch sử để phần nào phục hồi lại chút ít nguyên mẫu mà suy ngẫm về những bí ẩn của quá khứ, phục vụ cho hiện tại và mai sau. Mùa xuân đã đến và mùa xuân đã qua. Nhưng dẫu vậy thành Dâu vẫn đượm mầu cổ tích.
Lý khắc Cung (Trích từ bacninh.gov.vn)
LỊCH SỬ
Vài nét về lịch sử tỉnh Bắc Ninh
Trích từ: bacninh.gov.vn
Dưới các triều đại phong kiến trước đây, tỉnh Bắc Ninh được gọi là Kinh Bắc mà lịch sử đã để lại những di sản văn hoá truyền thống phong phú về mặt vật thể và phi vật thể với hệ thống thành quách ở thị xã Bắc Ninh, phòng tuyến sông Cầu (sông Như Nguyệt) nổi tiếng thời Lý chống lại các thế lực ngoại bang phương Bắc, hệ thống các đền chùa, miếu mạo ở các vùng Từ Sơn, Bắc Ninh – Thị Cầu, Dâu Keo … và đặc biệt là hát dân ca quan họ nổi tiếng cùng các lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc như hội Lim, Đình Bảng …
– Từ năm 1822 xứ Kinh Bắc được nhà Nguyễn đổi tên gọi thành tỉnh Bắc Ninh, sau 2 năm trấn thành Bắc Ninh, thuộc thị xã Bắc Ninh ngày nay, được xây dựng lại bằng đá ong và hiện diện vị thế của mình bằng cột cờ cao 17m.
– Dưới thời Pháp thuộc vào năm 1931 thị trấn Bắc Ninh được đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Thị xã Bắc Ninh được tổ chức thành một cứ điểm trọng yếu về quân sự của Bắc Kỳ và là một trung tâm chính trị, kinh tế vùng.
– Năm 1938 thị xã Bắc Ninh được xếp vào thành phố thứ 5 của xứ Bắc Kỳ sau các đô thị: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Nam Định và thị xã Hải Dương.
– Sau hoà bình lập lại năm 1954, tỉnh Bắc Ninh nói chung và thị xã Bắc Ninh nói riêng tiếp tục duy trì sự phát triển kinh tế suốt quá trình xây dựng chính quyền nhân dân và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
– Vào năm 1963 tỉnh Bắc Ninh được sát nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Mặc dù không còn vị trí tỉnh lỵ như trước đây (lúc đó Bắc Giang trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới sát nhập), nhưng thị xã Bắc Ninh vẫn là một trung tâm kinh tế – xã hội quan trọng của Hà Bắc, nhất là trong mối quan hệ giao lưu với thủ đô Hà Nội.
– Đến năm 1996 tỉnh Hà Bắc lại được chia lại thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 (ngày 15 – 11 – 1996). Từ đó thị xã Bắc Ninh lại trở thành thị xã của tỉnh Bắc Ninh mới.
Từ đó đến nay Bắc Ninh đã phát triển không ngừng bộ mặt đô thị hoá của tỉnh mà tiêu biểu là việc xây dựng mới:
Khu vực hành chính và các khu dân cư mới ở thị xã Bắc Ninh.
Cải tạo và phát triển mạnh bộ mặt trung tâm của các thị trấn huyện lỵ, nhất là thị trấn Từ Sơn.
Đang hình thành và phát triển một số khu công nghiệp tập trung quan trọng như khu công nghiệp Từ Sơn, Quế Võ.
Hệ thống kỹ thuật hạ tầng được cải tạo và nâng cấp đáng kể nhất là QL 1A, QL 1B, QL 18, QL 38, và 11 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dải trên 350 km. Các hệ thống hạ tầng kỹ thuật cấp nước, cấp điện cũng được đầu tư đáng kể.
Hệ thống di tích lịch sử văn hoá lâu đời của xứ Kinh Bắc xưa nhất loạt đã được khôi phục, bảo tồn và phát triển có hiệu quả thu hút khách du lịch thập phương.
Ngoài ra với hàng trăm ngành nghề khác nhau của tỉnh Bắc Ninh cũng được khuyến khích phát triển tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển nhiều thi tứ trên sông Dân, ở Đông Hồ, Đình Bảng, Đa Hội, Tương Giang, Phù Khê, Nội Duệ…
Nơi sinh thành dân tộc và nên tảng văn hiến Việt Nam
Bắc Ninh ? Kinh Bắc xưa là vùng đất phía bắc của kinh thành Thăng Long ? Đông Đô ? Hà Nội ngày nay, là vùng đất trung tâm của châu thố sông Hồng. Bắc Ninh còn là nơi gặp gỡ, giao hội của các mạch giao thông thuỷ, bộ tạo cho xứ Bắc sớm trở thành trung tâm kinh tế – văn hoá với một vị trí đặc biệt trong lịch sử dân tộc và văn hoá Việt Nam.
Qua các kết quả nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu khảo cổ học ở Bắc Ninh cho thấy, đây là địa bàn cư trú của người Việt cổ, đồng thời là bộ phận cốt lõi của quốc gia Văn Lang ? Âu Lạc.
Từ mấy nghìn năm trước người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở ven sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Vương,… sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp kết hợp làm nghệ thủ công. Hàng loạt di vật như trống đồng, dao găm, rìu, giáo, tấm che ngực, mảnh giáp,… bằng đồng với những hoa văn độc đáo được tìm thấy ở các di tích Lăng Ngâm, Đại Trạch, Quả Cảm, Đại Lai,… mảnh khuôn đúc trống đồng trong thành cổ Luy Lâu đã chứng tỏ người xứ Bắc rất tinh xảo trong nghề đúc đồng, chế tác các đồ trang sức, làm gốm,…
Cũng trên mảnh đất này, những giá trị tinh thần, tư tưởng được phản ánh qua các huyền thoại ?ông Đùng, bà Đùng?, ?ông khổng lồ cắn nát núi, hút sạch rừng, băng ngang lũ?, về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, An Dương Vương, Mỵ Châu – Trọng Thuỷ và thành cổ Loa,… Cùng với huyền thoại truyền thuyết là đậm đặc các di tích tiêu biểu như lăng mộ Kinh Dương Vương, các đền thờ Lạc Long Quân ? Âu Cơ, đền thờ Phù Đổng Thiên Vương ở Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên Du,…đều được lưu giữ trong lòng đất lòng người vùng quê xứ Bắc – Bắc Ninh. Đây chính là sự minh chứng hùng hồn cho sự phong phú đa dạng và tiêu biểu hơn bất cứ đị a phương nào trên mảnh đất Việt ngàn năm văn hiến.
Trung tâm chống xâm lược và chống đồng hoá, bảo tồn phát triển văn hoá dân
tộc
.
Khu di tích Luy Lâu rộng hàng trăm hécta với hệ thống các công trình thành luỹ, đền chùa, phố xá, chợ, bến, kho tàng, dinh thự, các khu sản xuất gạch ngói, các làng nông nghiệp, làng thợ, làng buôn, khu môn địa,… còn là khu di tích thời Bắc thuộc lớn nhất Việt Nam hiện nay.
Thủ phủ Luy Lâu (tức Long Biên) là nơi ghi dấu những chiến tích hào hùng chống quân xâm lược phương Bắc. Cho đến ngày nay, hệ thống các đền thờ tướng lĩnh ở đây và những lễ hội mừng chiến thắng mùa xuân vẫn được duy trì và tổ chức hàng năm ở trung tâm Luy Lâu càng khẳng định Bắc Ninh xưa là trung tâm của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Không những thế, qua các tài liệu thư tịch và di khảo cổ còn cho thấy Luy Lâu đã từng là đô thị lớn, là trung tâm thương mại mang tính quốc tế: ?Trên đất Giao Chỉ, trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ IX-X, Luy Lâu không nhường vai trò đô thị lớn nhất cho bất cứ nơi nào?. Xung quanh Luy Lâu là các làng nông nghiệp, làng thủ công, làng buôn bán phát triển mạnh mẽ. Luy Lâu là một đô thị mang tính buôn bán quốc tế, các hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá ở Luy Lâu thời Bắc thuộc rất nhộn nhịp và sầm uất.
Cùng với quá trình giao lưu, hội nhập và trao đổi kinh tế là quá trình tiếp xúc, hội nhập văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo giữa Việt Nam và các nước trong khu vực mà trung tâm cũng vẫn là Luy Lâu. Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán Đường đã được truyền bá liên tục vào nước ta. Bắc Ninh với trung tân Luy Lâu là nơi đầu tiên có trường dạy chữ và văn hoá Hán ở Việt Nam.
Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của người Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm đặc ở đây với trung tâm là chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu như tượng pháp , bia ký, bản khắc ?Cổ Châu Pháp Vân vật bán hanh? và lễ hội chùa Dâu – lễ hội Phật giáo lớn nhất trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ Tân Phật, rước Tứ Pháp, rước nước đã chứng tỏ Luy Lâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam.
Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng đã nhận xét: ?Xứ Bắc với đô thị cổ Long Biên ? Luy Lâu là không gian điển hình đan xen, hỗn dung tiếp xúc, biến đổi hội tụ và kết tinh văn hoá Việt Nam cổ với văn hoá Phật – Ấn, Nam Á và Trung Á, văn hoá Nho Lão (Trung Hoa ? Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc văn hoá Kinh Việt.
Vùng đất tiêu biểu của nền văn hiến và nhân cách Việt Nam.
Bước vào kỷ nguyên Đại Việt, Bắc Ninh trở thành phên dậu phía Bắc của kinh thành Đông Đô ? Thăng Long ? Hà Nội. Nơi đây tiếp tục giữ vai trò quan trọng đặc biệt trong công cuộc bảo vệ đất nước và phát triển văn hoá Việt Nam.
Miền quê ?địa linh? này là đất phatsb tích nhà Lý – triều đại khai mở ra nền văn minh Đại Việt gắn liền với tên tuổi của những nhân vật lịc sử – văn hoá kiệt xuất như: Lý Công Uẩn, Lý Nhân Tông, Nguyên Phi Ỷ Lan, Lê Văn Thịnh. Đây là nơi vang vọng bài thơ ?Nam quốc sơn hà? – bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Ngoài ra nơi đây cũng là vùng quê trù phú, kinh tế phát triển, là vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ. Ít nơi nào có nhiều làng nghề nổi tiếng như tỉnh Bắc Ninh: gốm sứ (Phù Lãng, Thổ Hà), gò đúc đồng (Đại Bái), rèn sắt (Đa Hội), chạm khắc (Phù Khê, Kim Thiều), sơn mài (Đình Bảng), ?mộc Choã, ngoã Viềng?, cày bừa (Đông Xuất), giấy dó (Đống Cao), tranh điệp (Đông Hồ), dệt lụa (Tam Sơn, Cẩm Giàng),…
Người Bắc Ninh không chỉ giỏi làm ruộng mà còn khéo tay, tinh xảo, hoạt bát trong giao thương, buôn bán và nhất là lại thông minh hiếu học. Ngoa truyền dân gian về đất này quả là có cơ sở: ?Một giỏ sinh đồ, một bồ tiến sỹ, một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn?. Đây là quê hương của vị Trạng nguyên Lê Văn Thịnh – vị trạng nguyên khai khoa mở đầu cho lịch sử khoa cử Việt Nam. Có vùng như huyện Đông Ngàn thông minh hơn người (dốt Đông Ngàn hơn người ngoan thiên hạ), có làng như Tam Sơn – địa phương duy nhất cả nước có đủ tam khôi với 22 vị đại khoa (tiến sỹ) trong đó có hai trạng nguyên.
Nơi đây còn nổi tiếng với trung tâm phật giáo và những ngôi chùa có quy mô to lớn, cổ kính, kiến trusc tạo tác rất công phu, tài nghệ như chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm, chùa Bút Tháp, chùa Tiêu Sơn, Cổ Pháp,… Đây là những danh lam cổ tự nổi tiếng, ngày nay đã trở thành những di sản kiến trúc tiêu biểu của dân tộc ta.
Nơi đây còn được mệnh danh là vương quốc của lễ hội, chủ yếu là hội chùa, hội đền. Trong đó có những lễ hội lớn, nổi tiếng cả vùng và cả nước như hội Gióng (9-4), hội Dâu (8-4), hội đền Đô, hội Lim, hội Chùa Phật Tích…
Về ăn mặc dân Kinh Bắc ưa sang trọng nhưng nền nã: nam khăn xếp, áo the, ô lục soạn; nữ áo mớ ba, mớ bảy, nón quai thao. Xứ bắc có nhiều làng nghề nghệ thuật như làng tranh Đông Hồ, làng hát ca trù Thanh Tương, làng rối nước Đồng Kỵ, Bùi Xá, Đa Hội, Tam Lư, Tấn Bảo,…và đặc biệt hơn cả là hệ thống 49 làng chơi quan họ, một lối chơi, một sin hoạt văn hoá tinh tường, độc đáo, đạt tới đỉnh cao của thi ca và âm nhạc mà chỉ người Bắc Ninh mới có.
Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Tích Quả Dưa Hấu (Sự Tích Mai An Tiêm) trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!