Bạn đang xem bài viết Thành Ngữ Tiếng Anh Liên Quan Tới Mùa Đông được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
To be on thin ice / to be at risk of annoying someone (idiom) : làm một việc gì đó nguy hiểm hoặc rủi ro mà dễ dẫn đến thất bại
Walking on thin ice (idiom) : ám chỉ một hoàn cảnh nguy hiểm, rủi ro
To break the ice (idiom) : phá vỡ sự im lặng để bắt đầu một cuộc trò chuyện
Not a snowball’s chance in hell (idiom) : chỉ việc gì đó không có khả năng xảy ra
When hell freezes over (idiom) : chỉ chuyện gì đó không thể xảy ra
To give someone the cold shoulder (idiom) : tỏ ra không thân thiện, lạnh lùng
To leave someone out in the cold (idiom) : loại bỏ ai đó ra khỏi nhóm, bỏ mặc
To be snowed under with something / to be with too much work to deal with (idiom) : phải làm việc quá độ, hay bị lấn át, áp đảo, chế ngự
To put something on ice (idiom) : trì hoãn một việc gì đó
To be pure as the driven snow / to be completely innocent (idiom) : chỉ ai đó vô cùng trong sáng, lương thiện (thường được dùng với nghĩa mỉa mai)
To break into a cold sweat / to become scared about something (idiom) : bất chợt toát mồ hôi, chỉ ai đó lo lắng, sợ hãi
To do something in cold blood (idiom) : làm việc gì đó với ý định độc ác hoặc không có bất kỳ cảm xúc gì thường được mô tả là “máu lạnh”
To get cold feet (idiom) : sợ hãi, hồi hộp hay không thoải mái khi phải làm gì đó
To be out cold (idiom) : bất tỉnh đột ngột.
Tip of the iceberg (idiom) : Chỉ là bề nổi của tảng băng, chỉ mới là sự bắt đầu
Cold hands, warm heart (idiom) : chỉ những người ngoài lạnh lùng nhưng bên trong thì ấm áp và biết chăm sóc người khác
Catch one’s death (idiom) : bị cảm lạnh
Dead of winter (idiom) : thời kỳ lạnh lẽo và đen tối của mùa đông
To cozy up to someone (idiom) : sưởi ấm cho ai đó
Brace youself , winter is coming (idiom) : hãy sẵn sàng cho mùa đông sắp tới
Ca Dao Và Thành Ngữ Liên Quan Tới Gà?
C à kê nghê ngỗng (cà và kê đều là gà, nghê và ngỗng đều là ngỗng). Cất lên một tiếng la-đà, / Cho chim nhớ tổ cho gà nhớ con. Cậu Cai nón dấu lông gà, / Cổ tay đeo nhẫn gọi là Cậu Cai. Chẳng tham nhà ngói bức bàn, / Trái duyên coi bẵng một gian chuồng gà. Chị kia bới tóc đuôi gà, / Nắm đuôi chị lại, hỏi nhà chị đâu? Chiều chiều quạ nói với diều, / Vườn cau kia rậm lại nhiều gà con. Chiều chiều con quạ lợp nhà, / Con cu chẻ củi, con gà quăng tranh. Chim gà cá lợn cành cau, / Mùa nào thức ấy giữ màu nhà quê. Cho hay tiên lại kiếm tiên, / Phượng hoàng chẳng chịu đứng chen đàn gà. Chó cậy gần nhà,/ gà cậy gần chuồng. Chó liền da, gà liền xương. Chó giữ nhà, gà gáy sáng. Chó giữ nhà, gà gáy trống canh. Chớ quen bắt chó mua dê, / Vui cùng hạc nội ham chi gà lồng. Chơi chó, chó liếm mặt, / Chơi gà, gà mổ mắt. Chớp đông nhay-nháy, / Gà gáy thì mưa. Chú vịt chú gà,/ Nhắc võng ông bà,/ Trèo lên núi chiều,/ Giặc thấy đã nhiều, / Chạy như con cút. Chuồng phân nhà, chẳng để gà người bới. Chữ viết như gà bới. Có chân mà chẳng có tay, / Có hai con mắt ăn mày dương gian (Đây là câu đố có nghĩa là “con gà”). Có duyên lấy được chồng già, / Ăn xôi bỏ cháy, ăn gà bỏ xương. Con cà con kê (cà và kê là gà). Con cóc nhảy xa, / Con gà ú u. Con công ăn lẫn với gà,/ Rồng kia rắn nọ coi đà sao nên! Con chim trên núi, con gà dưới suối, / Nó gáy giọng chầu đôi chầu ba. Con gà tốt mã về lông,/ Răng đen về thuốc, rượu nồng về men. Con gà con vịt cũng không,/ Bóng tre có mát, ngoài đồng không ai. Con gà cục tác lá chanh, / Con lợn ủn ỉn: “mua hành cho tôi.” Con cuốc kêu réo trên ngàn, / Gà rừng táo tác gọi con tha mồi. Con tông gà nòi (tông nghĩa là dòng họ). Cõng rắn cắn gà nhà. Cỗ xôi, con gà. Cơm gà cá gỏi.
Ếch tháng ba, gà tháng tám. / Em về thưa mẹ cùng cha, / Bắt lợn đi cưới bắt gà đi cheo (cheo nghĩa là lễ nộp tiền cho làng về việc cưới xin).
G
à ăn hơn công ăn. Gà chê thóc chẳng bới,/ người mới chê tiền. Gà cỏ quay mỏ về rừng. Gà con đuổi bắt diều hâu,/ Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông . Gà con ta để ta nuôi, / Đến mai ta gả con chó cụt đuôi cho mày. Gà cùng chuồng đá lẫn nhau. Gà cựa dài thì thịt rắn, / Gà cựa ngắn thì thịt mềm. Gà đẻ, gà lại cục tác. Gà đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua, / Gà trắng chân chì, mua chi giống ấy. Gà gáy canh một hỏa tai, canh hai đạo tặc. Gà ghét nhau tiếng gáy. Gà khôn gà chẳng đá lang, / Gái khôn gái chẳng bỏ làng gái đi. Gà mái gáy gở (dở, xấu). Gà mọc lông măng. Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh, / Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân. Gà người gáy, gà ta sáng. Gà nhà lại bới bếp nhà. Gà què ăn quẩn cối xay. Gà què bị chó đuổi. Gà Tò, lợn Tó, vó Vạn Đồn. Gà trống (sống) còn giò. Gà trống nuôi con. Gà tức nhau tiếng gáy. Gà về bới nát cỏ sân, / Mèo buồn lại chạy kiếm ăn ngõ ngoài. Gái một con, gà non một lứa. Giả ơn cái cối cái chày, / Nửa đêm gà gáy có mày có tao. Giả ơn cái cọc bờ ao, / Nửa đêm gà gáy có tao có mày.
Giặc sợ, giặc chạy về nhà, / Trở ra gọi mẹ mổ gà khao quân. Gió đưa cành trúc la đà,/ Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương. Giun dế ăn gà,/ Cá rô cưỡi ngựa. Gươm gẩy gà xác.
Hễ bảo quét sân, đánh chết ba gà, / Bảo đi quét nhà đánh chết ba chó. Hoài thóc ta cho gà người bới.
Kể gà, kể dê, kể ngỗng. Kể lể con cà con kê (gà). Khách đến nhà, chẳng gà thì gỏi. Khôn-ngoan đá đáp người ngoài, / Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau. Không tre mà có măng mọc, / Không trâu cày mà có tiếng hò reo. / Không chó có tiếng cắn theo, / Không gà có tiếng ra chiều gọi con (Đây là câu đố có nghĩa là “cái áo”).
Lao xao gà gáy rạng ngày, / Vai vác cái cày, tay dắt con trâu. Lờ ngờ như gà mang hòm.
Mã đề dương cước anh hùng tận, / Thân Dậu liên lai kiến thái bình. Máu gà thì tẩm xương gà, / Máu gà đem tẩm xương ta sao đành! Măng non nấu với gà đồng, / Chơi nhau một trận xem chồng về ai. Mặt tái như gà bị cắt tiết. Mâm xôi nuốt trẻ lên mười, / Con gà, be (chai) rượu nuốt người lao đao. Mẹ gà con vịt. Mẹ gà con vịt chít chiu, / Mấy đời dì ghẻ thương yêu con chồng. Mẹ gà đi chợ, / Con ở lại nhà,/ Vịt lén tới nhà,/ Cắp gà con chạy,/ Gà về thấy vậy,/ Đuổi vịt khắp nơi,/ Mổ đánh tơi-bời,/ Vịt nhoi xuống nước. Mình rằng: “Mình muốn lấy ta,”/ Ta đi xuống chợ mua gà xem chân. Mong chồng, chồng chẳng xuống cho, / Đến cơn chồng xuống, gà o o gáy dồn,/ Cha mẹ con gà kia sao mày gáy dồn, / Mày làm cho ta mất vía kinh-hồn về nỗi chồng con. Một thương tóc bỏ đua gà, / Hai thương ăn nói mặn mà có duyên. Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa. Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thời mưa. Muối kia đổ ruột con gà, Mẹ mình không xót bằng ta xót mình. Mười ba trăng lặn gà kêu,/ Mười bốn trăng lặn, gà đều gáy tan. Mướp non nấu với gà đồng.
Cụm Từ Và Thành Ngữ Tiếng Anh Về Mùa Xuân
Tìm hiểu các cụm từ và thành ngữ nào về mùa xuân mà người ta thường dùng
Mùa xuân là thời gian bắt đầu một năm mới với thời tiết dễ chịu, cây cối đâm chồi nảy lộc. Đây cũng là thời gian tuyệt vời để tìm hiểu một số mẫu câu và cụm từ vựng về mùa xuân.
Các cụm từ tiếng Anh về mùa xuân
1. Fresh as a daisy Nếu bạn đang tươi như hoa, nó có nghĩa là bạn đang khỏe mạnh và tràn đầy năng lượng. Điều này cũng giống như cách mà bạn cảm thấy sau một giấc ngủ đêm thoải mái.
2. Bright-eyed and bushy-tailed Đây là một cách thú vị để nói rằng “tươi như hoa”, nhưng nó lại lấy hình tượng từ một con sóc dễ thương.
3. Not a cloud in the sky Nếu không phải là một đám mây trên bầu trời, nghĩa là bầu trời đang trong xanh và những điều tốt sẽ đến với bạn, không có gì phải lo lắng.
4. Head in the clouds Câu nói này có nghĩa là bạn đang hoặc không chú ý đến những gì đang xảy ra xung quanh bạn hoặc bạn có quá nhiều suy nghĩ không thực tế. Nó cũng có thể có nghĩa là bạn luôn mơ ước và lạc quan. Nếu ai đó nói với bạn “Head in the clouds – đưa đầu của bạn ra khỏi những đám mây”, bạn có thể đang suy nghĩ bay bổng quá xa thực tế.
5. Chasing rainbows Cầu vồng chỉ là một thủ thuật của ánh sáng. Bạn có thể không thực sự tiếp cận hoặc chạm vào chúng. “Chasing rainbows” có nghĩa là cố gắng để đạt được một cái gì đó không thể hoặc không thực tế.
6. Soak up some sun Thưởng thức ánh nắng mặt trời và để làn da của bạn hấp thu những ánh nắng buổi sáng là một cách để thư giãn và giúp cơ thể khỏe mạnh hơn.
7. Fair-weather friend Một số bạn bè ở lại với bạn không có vấn đề gì xảy ra, nhưng “Fair-weather friend” chỉ gắn bó với bạn khi mọi thứ đang tiến triển tốt. Khi bạn khó khăn, họ sẽ mất tích một cách kỳ lạ.
8. A ray of hope
9. A ray of sunshine A ray of sunshine, một tia nắng là một ai đó hoặc một cái gì đó làm cho bạn cảm thấy hạnh phúc.
10. Brighten up the day Một cái gì đó hoặc ai đó làm cho bạn cảm thấy tốt và hạnh phúc cho phần còn lại của ngày sẽ được gọi là “Brighten up the day – tia sáng của ngày”.
11. Garden variety Cụm từ này có nghĩa rằng không có gì đặc biệt về điều gì đó.
12. Lead down the garden path Thông thường chỉ cần nói là “to lead someone on”. âu nói này có nghĩa là để đánh lừa hoặc nói dối với một ai đó.
13. Have a green thumb “Có một ngón tay màu xanh tại vườn?” Nghe thật kỳ lạ. Nhưng nó có ý nghĩa là bạn có tài chăm sóc cây cối đấy.
14. Social butterfly “Social butterfly” là những người có quan hệ rộng và rất giỏi giao tiếp. Họ di chuyển linh hoạt giống như những con bướm giữa vườn hoa.
15. Money doesn’t grow on trees Mùa xuân làm cho mọi thứ phát triển, nhưng thật đáng buồn là tiền không thể mọc trên cây. Câu nói này có nghĩa là phải cẩn thận với cách bạn chi tiêu tiền của bạn, bởi vì tiền không phải là thứ dễ kiếm.
Lời Phật Dạy Liên Quan Đến Phụ Nữ
Mặc dù, thực sự Đức Phật nâng cao thân phận người phụ nữ, Ngài đã thể hiện qua sự giữ giới của Ngài và khuyên dạy các để tử từ thời này sang thời khác, nhưng Ngài vẫn nhận biết được sự khác biệt về vấn đề xã hội và sinh lý giữa người nam và người nữ vẫn còn tồn tại.
– Một người phụ nữ phẩm hạnh. (S.IV.250)
Ðược tăng trưởng với năm sự tăng trưởng, này các Tỷ-kheo, một nữ Thánh đệ tử, được tăng trưởng trong Thánh tăng trưởng, nắm giữ được những lõi cây (căn bản, tinh vi), nắm giữ được những tốt đẹp nhất về thân. Thế nào là năm?
Tăng trưởng về lòng tin, tăng trưởng về giới hạnh, tăng trưởng về nghe nhiều (sutena), tăng trưởng về thí xả, tăng trưởng về trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, được tăng trưởng với năm sự tăng trưởng này, này các Tỷ-kheo, một nữ Thánh đệ tử được tăng trưởng trong Thánh tăng trưởng, nắm giữ được những lõi cây (căn bản, tinh vi), nắm giữ được những điểm tốt đẹp nhất về thân. (Tương Ưng Bộ Kinh 4. Tương Ưng Nữ Nhân. Phẩm Các Sức Mạnh. Phần Tăng Trưởng)
Này Visākhā, đầy đủ bốn pháp, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời này. Ðời này rơi vào tầm tay của nàng. Thế nào là bốn?
Ở đây, này Visākhā, nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc, biết thâu nhiếp các người phục vụ, sở hành vừa ý chồng, biết giữ gìn tài sản cất chứa. Này Visākhā, thế nào là nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc?
Này Visākhā, đầy đủ bốn pháp, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời sau. Ðời sau rơi vào tầm tay của nàng. Thế nào là bốn?
Ở đây, này Visākhā, nữ nhân đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ. Và này Visākhā, thế nào là nữ nhân đầy đủ lòng tin? (Tăng Chi Bộ Kinh 4. Chương Tám Pháp. Phẩm Ngày Trai Giới. Phần Ở Đời Này)
– Sự gia nhập của người nữ vào Tăng đoàn. (A.IV)
Thân phận người phụ nữ ở xã hội Ấn Độ cách đây 2.500 năm thường được xem như hạ lưu. Họ không được phép đi học để mở mang kiến thức và tham gia vào các hoạt động tôn giáo để phát triển tâm linh.
Nhận biết được tình trạng bất công và không lành mạnh này, Đức Phật đã cho phép họ được tham gia vào những hoạt động tôn giáo. Họ được phép gia nhập vào tăng đoàn Tỳ-khưu ni (bhikkhunī) với điều kiện phải gìn giữ thêm tám giới do Đức Phật chế định ngoài những giới mà Đức Phật đã chế định cho Tỳ-khưu tăng trước đây.
Những giới này không cố ý làm giảm đi nhân cách của họ mà chỉ nhằm vào những khuyết điểm đặc biệt của giới nữ và để hướng dẫn họ hoàn thành tốt đẹp cuộc sống phạm hạnh không bị trở ngại. Đây là cơ hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại mà người phụ nữ được phép tham dự vào tập thể của tăng chúng.
Tám giới ấy là :
Dầu cho thọ đại giới một trăm năm, một Tỷ-kheo-ni đối với một Tỷ-kheo mới thọ đại giới trong một ngày cũng phải đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay, xử sự đúng pháp. Pháp này sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Tỷ-kheo-ni không có thể an cư mùa mưa tại chỗ không có Tỷ-kheo. Pháp này sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Nửa tháng một lần, Tỷ-kheo-ni cần phải thỉnh chúng Tỷ-kheo hỏi ngày trai giới và đến để thuyết giới. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Sau khi an cư mùa mưa xong, Tỷ-kheo-ni cần phải làm lễ Tự tứ trước hai Tăng chúng về ba vấn đề được thấy, được nghe và nghi. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Tỷ-kheo-ni phạm trọng tội phải hành pháp pakkhamānattaṃ (man-na-đọa) cho đến nửa tháng. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Sau khi học tập sáu pháp trong hai năm, phải đến xin thọ cụ túc giới trước hai Tăng chúng. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Không vì duyên cớ gì, một Tỷ-kheo-ni có thể mắng nhiếc, chỉ trích một Tỷ-kheo. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Này Ānanda, bắt đầu từ hôm nay, có sự giáo giới phê bình giữa các Tỷ-kheo về Tỷ-kheo-ni, không có sự giáo giới phê bình giữa các Tỷ-kheo-ni về các Tỷ-kheo. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Chương Tám Pháp. Phẩm Gotamī. Phần Mahāpajāpatī Gotamī)
– Năm khuyết điểm của phụ nữ. (S.IV.328)
Này các Tỷ-kheo, có năm đau khổ riêng biệt mà người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người đàn bà lúc trẻ tuổi đi đến nhà chồng, không có bà con. Ðây là đau khổ riêng biệt thứ nhất, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu điều đó khác biệt với đàn ông.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người đàn bà có kinh nguyệt. Ðây là đau khổ riêng biệt thứ hai, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải mang thai. Ðây là sự đau khổ riêng biệt thứ ba, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một người đàn bà phải sinh con. Ðây là đau khổ riêng biệt thứ tư, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người đàn bà hầu hạ đàn ông. Ðây là đau khổ riêng biệt thứ năm, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm đau khổ riêng biệt, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Tương Ưng Nữ Nhân. Phẩm Đặc Thù. Phần Trung Lực)
– Năm sức mạnh làm cho người phụ nữ tin tưởng. (S.IV.248)
Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này của người đàn bà. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh.
Này các Tỷ-kheo, người đàn bà không do nhân nhan sắc, không do nhân tài sản, không do nhân bà con hay không do nhân con trai, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, người đàn bà do nhân giới hạnh, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Này các Tỷ-kheo, đây là năm sức mạnh của người đàn bà.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Tương Ưng Nữ Nhân. Phẩm Các Sức Mạnh. Phần Nhân)
– Nghiệp làm thành tựu ước nguyện của họ. (S.IV.249)
Có năm sự kiện này, này các Tỷ-kheo, thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được. Thế nào là năm?
“Mong rằng tôi được sinh vào một gia đình thích đáng!” Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ nhất thật dễ cho người đàn bà làm các công đức có thể thực hiện được.
“Sau khi được sinh vào một gia đình thích đáng, mong rằng tôi được đi đến (làm vợ) một gia đình thích đáng!” Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ hai thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
“Sau khi được vào một gia đình thích đáng, sau khi được đi đến (làm vợ) một gia đình thích đáng, mong rằng tôi được sống trong một gia đình không có người vợ địch thủ!” Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ ba thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
“Sau khi được sinh vào một gia đình thích đáng, sau khi được đi đến (làm vợ) một gia đình thích đáng, sau khi được sống trong một gia đình không có người vợ địch thủ, mong rằng tôi được sinh con trai!” Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ tư thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
“Sau khi được sinh vào một gia đình thích đáng, sau khi được đi đến (làm vợ) một gia đình thích đáng, sau khi được ở trong một gia đình không có người vợ địch thủ, sau khi được sinh con trai, mong rằng tôi chinh phục được người chồng!” Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ năm thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
Năm sự kiện này, này các Tỷ-kheo, thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Tương Ưng Nữ Nhân. Phẩm Các Sức Mạnh. Phần Sự Kiện)
– Có vài phụ nữ vẫn tốt hơn nam nhân. (S.I.89)
Một người đi đến vua Pasenadi nước Kosala và báo tin kề bên tai vua Pasenadi nước Kosala: “Thưa Ðại vương, hoàng hậu Mallikà đã sinh hạ được một người con gái”.
Khi được nói vậy, vua Pasenadi nước Kosala không được hoan hỷ.
Rồi Thế Tôn, sau khi biết vua Pasenadi nước Kosala không được hoan hỷ, ngay lúc ấy nói lên bài kệ:
Này Nhân chủ, ở đời, Có một số thiếu nữ, Có thể tốt đẹp hơn, So sánh với con trai, Có trí tuệ, giới đức, Khiến nhạc mẫu thán phục. Rồi sinh được con trai, Là anh hùng, quốc chủ, Người con trai như vậy, Của người vợ hiền đức, Thật xứng là Ðạo sư, Giáo giới cho toàn quốc.
(Tăng Chi Bộ Kinh 1. Tương Ưng Kosala. Phẩm Thứ Hai. Phần Người Con Gái)
1. Sát nhân thê – vaddhakā bhariyā.
2. Đạo tặc thê – corī bhariyā.
3. Chủ nhân thê – ayyā bhariyā.
4. Hiền mẫu thê – mātā bhariyā.
5. Hiền muội thê – bhaginī bhariyā.
6. Bằng hữu thê – sakhī bhariyā.
7. Nô bộc thê – dāsī bhariyā.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Chương Bảy Pháp. Phẩm Không Tuyên Bố. Phần Các Người Vợ)
– Năm cách để cho người vợ trở thành hoàn hảo. (A.III.36-37)
Đức Phật đã dạy cho những người con gái sắp lấy chồng năm điều để họ suy ngẫm :
Này các thiếu nữ, các Con hãy học tập như sau: “Ðối với những người chồng nào, mẹ cha cho các con, vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn khởi lên, đối với vị ấy, chúng ta sẽ thức dậy trước, chúng ta sẽ đi ngủ sau cùng, vui lòng nhận làm mọi công việc, xử sự đẹp lòng, lời nói dễ thương.” Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: “Những ai, chồng ta kính trọng, như mẹ, cha, Sa-môn, Bà-la-môn, chúng ta sẽ tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường và khi họ đến, chúng ta sẽ dâng hiến họ chỗ ngồi và nước.” Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: “Phàm có những công nghiệp trong nhà, hoặc thuộc về len vải hay vải bông, ở đây, chúng ta sẽ phải thông thạo, không được biếng nhác, tự tìm hiểu phương pháp làm, vừa đủ để tự mình làm, vừa đủ để sắp đặt người làm.” Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: “Trong nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người công thợ, chúng ta sẽ phải biết công việc của họ với công việc đã làm; chúng ta sẽ phải biết sự thiếu sót của họ với công việc không làm. Chúng ta sẽ biết sức mạnh hay sức không mạnh của những người đau bệnh. Chúng ta sẽ chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo phần của mình”. Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: “Phàm có tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người chồng đem về, chúng ta cần phải phòng hộ, bảo vệ chúng, và sẽ gìn giữ để khỏi ăn trộm, ăn cắp, kẻ uống rượu, kẻ phá hoại”. Như vậy, này các Thiếu nữ, các con cần phải học tập.
(Tăng Chi Bộ Kinh 3. Chương Năm Pháp. Phẩm Sumanā. Phần Người Gia Chủ)
Yassa bhariyā tulyavayā samaggā, Anubbatā dhammakāmā pajātā; Koliniyā sīlavatī patibbatā, Dāresu ve sotthānaṃ tadāhu.
Vợ hiền, đồng tuổi, có tình thân, Tận tụy, nhân từ, trẻ lại đông, Ðức hạnh, trung thành, dòng quý tộc, Ấy niềm hạnh phúc giữa hồng quần.
– Của hồi môn tốt đẹp nhất. (DhpA.53)
Của hồi môn tốt đẹp nhất mà cha mẹ có thể dành cho con gái mình là những lời giáo huấn được ghi lại trong chú giải kinh pháp cú qua những lời huấn dụ của cha nói với bà đại thí chủ Visākhā vào ngày bà lấy chồng :
Không đem lửa trong nhà ra ngoài. Không đem lửa ở ngoài vào nhà. Chỉ cho những người đáng được cho. Không cho những người không đáng cho. Cho cả hai hạng người, đáng cho và không đáng cho. Ngồi một cách vui vẻ. Ăn một cách vui vẻ. Ngủ một cách an lạc. Trông nom, gìn giữ lửa. Tôn trọng các vị trời ở trong nhà. Ngụ ý những lời dạy trên như sau :
Lửa ở đây ngụ ý những lời phỉ báng, vu cáo. Một người vợ không nên nói xấu chồng và gia đình chồng cho người khác nghe; cũng như không nên nói những khuyết điểm hay những cuộc cãi cọ ở trong nhà chồng cho người khác nghe.
Không nên nghe ngóng ở ngoài đường hay những người láng giềng nói xấu gia đình bên chồng rồi đem về nhà mà thuật lại cho gia đình bên chồng nghe. Chỉ nên cho người nào mượn mà biết rằng sẽ đem trả lại.
Không nên cho người nào mượn mà biết rằng người ấy thường mượn luôn không bao giờ hoàn trả lại.
Những thân bằng quyến thuộc nghèo khó thì nên giúp đỡ họ, cho dù biết rằng họ không thể trả lại được.
Ngồi một cách vui vẻ có nghĩa là khi thấy cha mẹ chồng, nên đứng dậy để tỏ lòng tôn kính chớ không nên ngồi im lặng. Những lời dạy này dành cho những người vợ biết khiêm nhường, biết lễ độ để biểu hiện sự kính trọng cha mẹ chồng.
Ăn một cách vui vẻ nghĩa là trước khi ăn cơm, hãy quan sát xem có những gì thiếu xót mà cha mẹ chồng cần khi ăn không; nếu có nên đi lấy mang đến dâng cho họ rồi mới được ngồi ăn. Và cũng nên chăm sóc miếng ăn cho tôi tớ trong nhà chu đáo nữa.
Ngủ một cách an lạc không có nghĩa là người vợ muốn ngủ bao lâu hay giờ giấc nào tùy thích mà ngụ ý là trước khi đi ngủ phải nên đi quan sát xem tất cả cửa nẻo đã đóng lại hết chưa, đồ đạc trong nhà được an toàn chưa, tôi tớ đã làm xong phận sự trong nhà chưa, cha mẹ chồng và chồng đã lên giường ngủ chưa, xong rồi mới nên đi ngủ. Một người vợ hiền phải nên thức dậy sớm trừ khi bị đau ốm hay không được khỏe và cũng không nên ngủ ban ngày.
Lửa ở đây ám chỉ cho cha mẹ chồng và chồng. Hãy đối xử với họ hết sức cẩn trọng như thể sử dụng lửa vậy, nếu vô ý sẽ bị phỏng hoặc nhiều tai hại khác nữa. Các vị trời trong nhà ở đây ý muốn nói đến cha mẹ chồng và chồng. Phải tỏ ra hết sức kính trọng họ. Chính ngay như Đức Phật khi đề cập đến cha mẹ bên vợ lúc Ngài còn là bồ tát thì Ngài vẫn xem họ như là chư thiên tại thế (sassudeva).
Theo phong tục phương Đông, người vợ xem chồng mình như ông vua. Theo lời dạy của Đức Phật thì người vợ được xem như là một người bạn tốt của chồng. Nhiệm vụ của người chồng là phải nên đối xử với vợ như một người thân cận mang đến lợi ích to lớn nhất và nên xem vợ như là tấm thân thứ hai của mình. Một người vợ đảm đang và chung thủy hết sức coi trọng chồng như là nơi nương tựa, che chở lý tưởng của mình.
Người vợ cũng không quên lo lắng đến nhữngbản phận trong đời sống đạo hạnh. Các vị Sa môn, Bà-la-môn đến nhà lúc hợp thời phải nên đối xử với họ một cách tôn kính. Phải tỏ ra niềm nở với các vị ấy.
– Sức mạnh tinh thần của người phụ nữ. (Apa.11.535)
Người nam luôn thể hiện sự ngờ vực về tinh thần của người nữ là không tin tưởng, ngay như sau khi biết được sự thành tựu của giáo hội Tỳ-khưu Ni là một minh chứng tốt đẹp được Đức Phật tán thán khi bà Gotamī viếng thăm và đảnh lễ Ngài vào thời điểm bà sắp Níp-bàn :
“Này Tỳ-khưu ni Gotamī, bà đã thực hiện tốt đẹp một cách kỳ diệu trong việc xóa tan mọi quan điểm sai lầm của những người nam ngu muội mà trong tâm trí của họ đầy sự hoài nghi về những tiềm lực tâm kinh của người phụ nữ”.
– Vật hấp dẫn ở thế gian. (A.I.1)
Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như sắc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một tiếng nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như tiếng người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, tiếng người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một hương nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như hương người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, hương người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một vị nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như vị người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, vị người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một xúc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như xúc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
(Tăng Chi Bộ Kinh 1. Chương Một Pháp. Phẩm Sắc. Phần Nữ Sắc)
– Các đức hạnh mà người phụ nữ nên trau dồi. (S.IV.143)
Những đức hạnh làm cho người phụ nữ trở nên tốt đẹp cả hai đời, đời này và đời sau đã được Đức Phật tuyên bố như sau: 1. Có tâm đạo nhiệt thành. 2. Có tâm hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. 3. Không nuôi dưỡng tâm địa ác độc, oán thù và sân hận. 4. Không ghen tuông bóng gió. 5. Không cãi vả mà nên có lòng rộng lượng. 6. Nhã nhặn trong mọi hành vi. 7. Đầy đủ đức hạnh. 8. Học hỏi để nâng cao kiến thức, nhất là sự hiểu biết. 9. Nhiệt tình và sốt sắng trong công việc. 10. Luôn phòng hộ tâm và khôn khéo trong xử sự. 11. Có trí tuệ hiểu biết.
Mặc dù, thực sự Đức Phật nâng cao thân phận người phụ nữ, Ngài đã thể hiện qua sự giữ giới của Ngài và khuyên dạy các để tử từ thời này sang thời khác, nhưng Ngài vẫn nhận biết được sự khác biệt về vấn đề xã hội và sinh lý giữa người nam và người nữ vẫn còn tồn tại.
Những điều này đã được miêu tả trong Aṅguttara Nikāya và Saṃyutta Nikāya. Mặc dù trong một vài đoạn kinh, có một vài nguyên do nói lên tai hại về tư cách và sự quyến rũ của người nữ đáng bị chỉ trích đã được ghi lại.
Trong Saṃyutta Nikāya, Đức Phật đã có ý đưa ra nhiều yếu tố để xóa bỏ thành kiến này. Trong một vài trường hợp, người nữ được xem như sáng suốt và thông minh hơn người nam, và người nữ cũng có khả năng chứng đắc quả giải thoát hay đắc được các quả vị Thánh sau khi họ tu tập Bát chính đạo.
Đối với những người phụ nữ đã bị xúc động thái quá và đau khổ cùng tột khi bị mất đi người thân yêu, Đức Phật đã dạy về cái chết không thể nào tránh được của chúng sinh như đã được trình bày trong tứ diệu đế và nhiều dẫn vụ khác nhau được trích giảng về vấn đề này. Đối với và Visākhā, bị quá xúc động vì lòng thương yêu của bà ngoại khi bị mất đi đứa cháu gái, Đức Phật đã an ủi bà như sau :
Do ái sinh sầu ưu, Do ái sinh sợ hãi, Ai thoát khỏi tham ái, Không sầu, đâu sợ hãi? (Dhp.212)
Tác giả bài viết: Samadhi Punno
Sưu tầm và hình ảnh: chúng tôi
Ca Dao Tục Ngữ Về Mùa Xuân ❤️ Thành Ngữ Mùa Xuân Hay
Ca Dao Tục Ngữ Về Mùa Xuân
⚡️ Chia sẽ bạn ❤️ Thơ Về Mùa Xuân ❤️ Hay Nhất
Thành Ngữ Về Mùa Xuân HayNhững Câu Thành Ngữ Về Mùa Xuân Hay Nhất
Dửng dưng như bánh chưng ngày Tết.
Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi.
Đi cày ba vụKhông đủ ăn ba ngày tết.
Đi đâu mặc kệ đi đâuĐến ngày giỗ chạp phải mau mà về.
⚡️ Chia sẽ bạn ❤️ HÌNH ẢNH MÙA XUÂN ❤️ Đẹp Nhất
Đói muốn chết ba ngày Tết vẫn no.
Tặng bạn chùm ❤️️ Thơ Tình Mùa Xuân ❤️️ Hay Nhất
Câu Ca Dao Tục Ngữ Hay Về Mùa XuânSCR.VN chia sẽ bạn các câu ca dao tục ngữ hay về mùa xuân sau:
Dù ai buôn bán nơi đâuNhớ đến ngày Tết rủ nhau mà về.*Anh Hai anh tính đi môTôi đi chợ Tết mua khô cá thiều.*Con ơi! ham học chớ đùaBữa mô ngày Tết thỉnh bùa thầy đeo.*Cú kêu ba tiếng cứ kêuKêu mau đến Tết, dựng nêu ăn chèDựng nêu thì dựng đầu hèĐể sân gieo cải, vãi mè ăn chung.
Dầu bông bưởi dầu bông làiXức vô tới Tết còn hoài mùi thơm.*Hễ ai mà nói dối aiThì mồng một Tết Ba Giai đến nhà.Tới đây viếng cảnh, thăm hoaTrước mừng các cố, sau là mừng dân.Sau nữa mừng cả làng tuầnMừng cho nam nữ chơi Xuân hội nầyMột mai đàn có bén dâyƠn dân vạn bội biết ngày nào quên!Gia Lạc chỉ mở ngày Xuân
Quanh năm, suốt tháng khó lần tìm ra.*Mồng một chơi cửa, chơi nhàMồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình.Mông bốn chơi chợ Quả linhMồng năm chợ Trình, mùng sáu non Côi.Qua ngày mồng bảy nghỉ ngơiBước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng.*Thừa con gả cho hàng tờĐến ba mươi tết phất phơ ngoài đường.*Tháng giêng ăn tết ở nhàTháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm.
Chia sẽ bạn chùm 😂 Thơ Chế Tết 😂 Vui Nhất
Những câu ca dao tục ngữ về lễ hội mùa xuân
Ba ngày Tết, bảy ngày xuân.
Ba mươi chưa phải là Tết
Bỏ con bỏ cháuKhông ai bỏ mười sáu chợ YênBỏ tổ bỏ tiênKhông ai bỏ chợ Viềng mùng tám.(hai phiên chợ Tết của Nam Định)
Trọn bộ 🌸 THƠ TẾT 🌸 Hay Nhất
Ca Dao Tục Ngữ Nói Về Mùa XuânSCR.VN chia sẽ thêm những câu ca dao tục ngữ nói về mùa xuân hay nhất
TẶNG BẠN CHÙM 😂 Ảnh Chế Tết 😂 Vui Nhất
Những Câu Ca Dao Tục Ngữ Về Mùa Hè, Mùa Xuân, Mùa Thu, Mùa Đông
Mùa xuân là mùa của đâm chồi sinh sôi nảy nở, mùa hè thì thời tiết nóng nực với hoa phượng và chú ve kêu, mùa thu của sự lãng mạn những con đường dầy lá rụng những cành cây trụi lá và khi gió mùa đến mùa đông chính thức bắt đầu với thời tiết xe xe lạnh cảm nhận không khí và ddaaats trời có những nét rất đặc biệt. Đó là nhưng đặc trưng cơ bản và những điểm khác biệt của 4 mùa khá rõ rệt ở miền Bắc Việt Nam. Và mỗi nét riêng đó đều được nhắc tới nhiều trong các câu thơ, ca dao tục ngữ và các bài hát . Những câu ca dao tục ngữ về mùa hè, mùa xuân, mùa thu, mùa đông hay và ý nghĩa nhất
Mỗi năm có 4 mùa, mùa xuân, mùa thu, mua hè và mùa đông. Mỗi mùa có mọt đặc điểm thời tiết và dặc trưng riêng của nó. Mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm với bao nhiêu sự nảy nở, được xem là khởi dầu cho một năm đầy hạnh phúc và tươi vui. Mùa hè là mùa tiếp theo của mùa xuân, khi dến mùa hè mọi học sinh sẽ được nghỉ học để tận hưởng những kì nghỉ bổ ích, thời tiết đặc trưng của mùa hè là thời tiết oa bức và nóng nực. tiếp đến của mùa hè là mùa thu, mùa thu được xem là mùa lãng mạn nhất trong năm, đối với mùa này cây lá thay một màu áo mới. mùa đông là mùa cuối cùng, có sự lãnh lẽo nhất trong năm.
Đối với mỗi mùa trong năm thì mỗi mùa có một đặc trưng, một đặc điểm riêng biệt nhau. Chính bởi sự riêng biệt ấy mà mỗi người có những sở thích của mình, những tình cảm của mình dành cho mỗi mùa khác nhau. Có người thích mùa xuân cây lá đâm chồi, có người thích mùa đông lanh lẽo, có người thích mùa hè nóng bức nhưng đầy kỉ niệm, có người thích mùa thu lãng mạn. những câu thơ, những bai thơ, những tình cảm của con ngwufoi dành cho mùa xuân hạ thu đông rất nhiều. để hiểu rõ hơn về mùa hè, xuân, thu đông chúng ta cùng đi tìm hiểu những câu ca dao tục ngữ về mùa hè, mùa xuân, mùa thu, mùa đông.
Ca dao tục ngữ về mùa hè:Câu 1:
Bán quạt mùa đông mua bông mùa hè.
Bò đẻ tháng năm nỏ bằm thì thui.
Mùa không chỉ nói về đặc sinh đâm chồi nảy lộc của cây cối, của con người mà nó còn nói lên đặc điểm sinh sản của con vật. như câu tục ngữ trên nói đến tập tục sinh sản của con bò.
Câu 2:
Chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè.
Đối với mùa, thì mỗi mùa sẽ có những thức ăn phù hợp với mỗi loại chim khác nhau. Câu tục ngữ trên nói về đặc tính của mỗi loại chim khi mùa thu và mùa hè, mùa thu thì chim ngói, mùa hè thì chim cu.
Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
Đông chết se, hè chết lụt.
Học như quốc kêu mùa hè.
Hữu bì hữu cốt vô thân nhục
Nghi xuân nghi hạ, bất nghi đông.
Có da có xương, không có thịt
Chỉ mùa xuân, mùa hạ được nhắc đến, mùa đông thì không
Lo trẻ mùa hè không bằng lo bò què tháng sáu.
Mùa đông mưa dầm gió bấc,
Mùa hè mưa to gió lớn,
Mùa thu sương sa nắng gắt.
Mùa hè ăn cá sông, mùa đông ăn cá biển.
Mùa hè cá sông mùa đông cá ao
Mùa hè đang nắng cỏ gà mọc trắng trời mưa.
Mùa hè đóng bè làm phúc.
Mùa hè buôn bông, mùa đông buôn quạt.
Sim, nang, sang, sú.
Thơm tho chi mít mùa đông,
Khôn ngoan chi gái lộn chồng mà khen.
Thà liếm môi liếm mép còn hơn ăn chép mùa hè.
Tiếc thay hoa hỡi là hoa
Mùa xuân chẳng nở nở ra mùa hè.
Trẻ con mùa hè, trâu què mùa đông.
Trẻ mùa hè như bò què tháng sáu.
Tháng chín nhịn ăn rau muống.
Tháng giêng trồng đậu
Tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng.
Ca dao tục ngữ về mùa xuân:Câu 1:
Bánh chưng xanh thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ .
Nhắc đến mùa xuân ta sẽ nghĩ đến tết, những con mưa phùn, nhwunxg đặc điểm mà mùa xuân thường có. Câu tục ngữ trên đã nêu lên những đặc điểm nổi bật của mùa xuân là bánh chưng xanh và câu đối đỏ.
Câu 2:
Có nam có nữ mới nên xuân
Có xôi có thịt mới nên phần
Mùa xuân là mua mà cây côi đâm chồi nảy lộc, cây đơm hoa kết trái. Nhắc đến mùa xuân chúng ta có một tinh thần phấn khởi, một niềm vui khôn xiết khi đây là mùa tụ họp, mùa yêu thương,… được gắn kết gai đình.
Một năm khởi đầu bằng mùa xuân,ngày mới khởi đầu vào buổi sáng
Xuân về hoa cúc nở hoa
trên cành chim sáo hát ca rộn ràng
Chào anh anh giải phóng quân
anh đem nắng ấm mùa xuân đến nhà.
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng
Vì cam cho quýt đèo bòng
Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương
Mỗi năm được mấy mùa xuân,
Mỗi ngày được mấy giờ Dần hỡi anh ?
Một năm là mấy mùa xuân
Gái kia hồ dễ mấy lần đưa dâu
Trăm hoa đua nở tháng Giêng,
Có bông hoa cải nở riêng tháng mười
Trăm cánh hoa cười,
Trăm nụ hoa nở mùa xuân sang.
Đàn con yến trắng, dập dìu đàn ong, (2)
Con chim kia sao khéo não nùng!
Cuốc kêu gióng giả như nung dạ sầu.
Gió nam hây hẩy ban chiều
Một đàn bướm trắng dập dìu trên non,
Đêm đông trường, nghe vượn ru con
Vượn hát ru con, cá khe lẩn bóng, chim buồn cõi câ
Kìa quân tử trúc, dạ này bâng khuang…^
Em như hoa thơm mà mọc góc rừng
Ca dao tục ngữ về mùa thu:Câu 1:
Trăm hoa đua nở mùa xuân
Cớ sao hoa cúc lại muộn tuần thu sang?
Câu ca ao trên nói về đâm chồi nảy lộc của cây cối, theo quy luật tự nhiên thì mọi cây cối đều đâm chồi nảy lộc vào màu xuân, nhưng cây hoa cúc lại nở hoa vào mùa thu, một cách nở hoa ngược tự nhiên.
Câu 2:
Thu đi để lại lá vàng
Anh đi để lại cho nàng thằng cu
Mùa thu tiếp nối mùa thu
Thằng cu tiếp nối thằng cu ra đời
Đây là một bài ca dao vui nói về đặc điểm của mùa thu, mùa thu là mùa thay lá. Mỗi mùa thu sang thì cây cối lại thay lá mới và có những đặc điểm nổi bật của mùa thu.
Cho nên hoa phải muộn màng tiết thu
Ao thu nước gợn trong vời
Gió thu khêu dục gợi người tình chung
Buồn tênh cái tiếng thu chung
Đêm thu ta biết vui cùng với ai
Thờ ơ trúc muốn ghẹo mai
Vô tình nên phải miệt mài đêm thu
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ vừa năm
Ca dao tục ngữ về mùa đông:Câu 1:
Dời mả tránh ngày trùng tang
Trồng khoai lang tránh ngày gió bấc.
Đặc điểm của màu đông là có những cơn gió bấc, những cơn gió là mất mùa đối với những người nông dân. Chính vì thế mà câu ca dao trên nói về kinh nghiệm trồng trọt mùa đông. Khi trồng khoai lang chúng ta nên tránh ngày có gió bất.
Câu 2:
Dù ai buôn bán trăm nghề
Ba mươi tháng chạp nhớ về vớt rươi.
Mỗi mùa sẽ có những đặc điểm, những đặc tính khác nhau, chính vì thế mà câu ca dao trên nói về việc tháng chạp có đặc điểm là có nhiều rươi nên tháng chạp phải về vớt rươi.
Bán quạt mùa đông mua bông mùa hè.
Bốc mả kiêng ngày trùng tang
Trồng khoai lang kiêng ngày gió bấc.
Đồng chiêm xin chớ nuôi bò
Mùa đông tháng giá bò dò làm sao.
Đầu năm sương muối cuối năm gió bấc.
Gió đông là chồng lúa Chiêm
Gió may, gió bấc là duyên lúa mùa.
Gió Bấc thì hanh, gió nồm thì ấm.
Gió bấc hiu hiu sếu kêu thì rét
Gió lâm râm không mưa dầm cũng bão.
Mùa đông rét mướt ai cho mượn chồng.
Măng tháng chín nhịn cho chồng,
Chuối mùa đông thì quăng cho lợn.
Mưa phùn gió bấc.
Mùa hạ cá sông,
Mùa đông cá ao.
Mùa đông ăn cá bể.
Hành khất đói meo.
Một chạp là tiết mùa đông
Mưa phùn đêm vắng trong lòng lạnh thay.
Trồng khoai lang kiêng ngày gió bấc.
Thơm tho chi mít mùa đông
Khôn ngoan chi gái lộn chồng mà khen
Tối như ba mươi tháng chạp
Sáng nào bằng trăng hôm rằm.
Tháng mười sấm rạp tháng chạp sấm ran.
Mỗi mùa trong năm đều có những nét đặc trưng rất riêng được đúc kết cả những kinh nghiệm thực tế trong cuộc sống, các câu ca dao không chỉ để biết đặc trưng các mùa mà trong đso bạn cũng có thể học hỏi được rất nhiều những kinh nghiệm sống. Mùa xuân ở VIệt Nam thường vào sau tết lúc đó muôn hoa sẽ đua sắc nở, cây cối đâm chồi sau 1 mùa đông lạnh giá. Mùa xuân cũng thường gắn liền với tết và tháng Giêng là tháng ăn chơi mọi người đi vãn chùa
Cập nhật thông tin chi tiết về Thành Ngữ Tiếng Anh Liên Quan Tới Mùa Đông trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!