Bạn đang xem bài viết Thử Bàn Về Bản Sắc Dân Tộc Của Văn Hoá Việt Nam được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trước hết ta hãy xem: Nó là một cái gì đó hay nó là những cái gì đó.
Thực ra bản sắc dân tộc mà quy vào “một cái gì” thì khó. Bản sắc vốn là cái gì trừu tượng biến hóa uyển chuyển linh hoạt. Nó là một, nhưng lại là nhiều, là nhiều nhưng tụ lại, lại là một. Nếu là nhiều cái có thể thu xếp để liệt kê, để cộng lại thì lại thành ra liệt kê bảng giá trị truyền thống và, khó có sự biểu hiện nhất quán. Nhưng nếu là một cái thì làm sao nó mô tả hết được cái phong phú, cái lung linh của diện mạo tinh thần của một dân tộc, một con người. Cho nên, tôi tạm cho rằng nó là “một” nhưng cái “một” này là một đặc biệt, nó biến hóa, nó lung linh, nó có thể nhìn ra “nhiều”, cái “nhiều” này nó xen cài nhau, quấn quít, hòa trộn nhau vào trong “một”.
Còn anh nêu lên – anh không có ý định nêu lên, nhưng tôi lượm ra – một cái là cái Anh hùng bình dị. Như thế cái tính cách chung của Việt Nam là anh hùng, anh hùng nhưng bình dị, không khoa trương, không cường điệu, không ầm ĩ. Bình dị nhưng lại rất anh hùng. Một thứ anh hùng bình dị, và một số bình dị rất anh hùng. Anh bộ đội Việt Nam, anh bộ đội Cụ Hồ trong suốt thời gian của cuộc kháng chiến dài mấy chục năm thật là một hình ảnh sinh động và rõ rệt của cái chất anh hùng bình dị – Bất cứ ai gặp và nhìn thấy, tiếp xúc với các chiến sĩ của ta đều có ấn tượng rất rõ rệt. Sao mà anh ta hiền thế. Đúng. Anh rất hiền, rất khiêm tốn, rất “bình thường”, nhiều khi còn có thẹn nữa. Thế nhưng anh lại làm nhiều chuyện phi thường, lập nhiều chiến công kỳ diệu, nhiều hành động anh hùng thật lẫm liệt. Anh lập những chiến công lớn cũng lại bình thường như anh lao động, học tập hàng ngày. Anh có cuộc sống thật bình dị anh hùng, thật Việt Nam! Có thể nói, tôi rất thích cái khái quát này, nhưng tôi vẫn e nó chưa chứa đựng hết, dù cho chỉ là hết những điều chủ yếu nhất. Tôi xin lượm thêm nhiều ý kiến đưa ra một cách diễn giải khác. Cách diễn giải này chỉ ra bản sắc Việt Nam có ba điểm (hay ba mặt) ba mặt này quyện lại xoay quanh một cái, một cái đó nếu tìm cho nó một tên gọi thì chỉ có thể gọi đó là cái Việt Nam, cái chất Việt Nam, cái tính cách Việt Nam, tâm hồn Việt Nam.
Ba điểm hay ba mặt này có thể coi như ba đặc điểm của dân tộc, hay ba giá trị tinh thần của dân tộc ta. Nhưng nếu nói đặc điểm thì chỉ nêu ba đặc điểm là không đủ. Và nếu nói giá trị thì lại càng không đủ. Những giá trị tinh thần của dân tộc còn nhiều và phong phú lắm. Giáo sư Trần Văn Giàu đã nêu lên một bảng giá trị có 7 giá trị. Vì có lẽ cũng có thể có nhiều cách nêu bảng giá trị khác nhau. Ở đây tôi thử tìm cái gì gọi là cái tinh túy, cái cốt lõi của cái giá trị là những cái biểu hiện chủ yếu của cái gọi là bản sắc dân tộc theo quan niệm như đã nêu ở phần trên.
Ba điểm (hay ba mặt) đó là:
– Tinh thần yêu nước kiên cường anh hùng sâu sắc trong ý chí.
– Tính cách bình dị của tâm hồn.
– Quan hệ giữa người và người là tình nghĩa.
Tinh thần yêu nước Việt Nam đã được ta nói đến nhiều và thế giới cũng nói đến nhiều. Đến nay bàn thêm cũng khó có điều gì nói thêm được. Nhìn lại ta thấy tinh thần yêu nước Việt Nam nói lên mấy nét: rất kiên cường anh hùng bền vững và sâu sắc, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cội nguồn, tôn trọng yêu mến cội nguồn tổ tiên, thờ phụng tổ tiên như một lẽ sống mỗi người. Điều đó ăn sâu trong mỗi người, có lúc nó bị chìm hẳn đi, hầu như bị quên mất hẳn, nhưng mỗi khi có điều kiện khơi dậy nó lại bùng cháy mãnh liệt làm nên sức mạnh tinh thần to lớn. Chúng ta đều thấy lịch sử dân tộc ta đã mất đến 1.000 năm Bắc thuộc, mất nước thế nhưng không ai quên ông Tổ mình là vua Hùng, không ai quên nguồn gốc mình là từ “con rồng cháu tiên” cao quý. Ngay từ rất sớm Hai Bà Trưng nổi dậy cũng với ý thức “nối nghiệp vua Hùng”. Tất cả các lãnh tụ khởi nghĩa chống ngoại xâm sau này đều nêu cao nguồn gốc dân tộc để động viên tập hợp nhân dân chiến đấu. Cho đến ngày nay câu nói của Bác Hồ xúc động sâu xa lòng người nhiều cũng là câu “Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”. Người Việt Nam dù cho dưới thời phong kiến, yêu nước không phải là yêu vua mà là yêu đất nước, quê hương, tổ tiên. Ông vua nào chiến đấu cho tình yêu ấy thì cũng được dân tin yêu, dân tin yêu vua không phải vì vua là con trời, là vua chịu mệnh trời mà là vua thay mặt nhân dân lãnh đạo nhân dân bảo vệ lấy đất nước, quê hương và nguồn gốc tổ tiên. Ông vua nào làm ngược lại thì nhân dân khinh ghét và sẵn sàng chống lại. Nơi thiêng liêng nhất của mỗi người Việt Nam là “Mả Tổ”, ngày thiêng liêng nhất là ngày “giỗ Tổ”, hành động xúc phạm nhất là hành động “đào mả Tổ”, lời chửi cay độc nhất cũng là lời chửi dọa “đào mả Tổ”.
Yêu nước là một tình cảm ăn vào máu thịt người Việt Nam, không bao giờ nguôi, không bao giờ quên, không bao giờ nhạt, không bao giờ mất. Chỉ có lúc dân ta phải che dấu nó đến khi ta có quyền, có điều kiện thì lại bộc lộ ra đầy đủ – tất nhiên vẫn phải loại trừ một số nhỏ người “mất gốc”. Vì vậy chúng ta có nhiều cuộc chiến đấu dành độc lập kiên cường rất dài ngày. Nhà Trần ba lần chuẩn bị và tiến hành kháng chiến trong 20 năm, Lê Lợi mười năm, Hồ Chí Minh ba mươi năm, phiêu bạt tìm đường cứu nước và cuộc chiến đấu toàn dân ba mươi năm nữa. Có nhiều chiến sĩ dành nửa đời hoặc cả đời người chịu một cuộc sống trăm nghìn gian khổ, cực nhục vẫn nuôi chí bền cứu nước. Có những cuộc vùng dậy với khí thế nhất tề như vũ bão đánh bạt mọi uy vũ, mọi sự đe dọa của ngoại bang, có những địa phương, những nhóm người mà quân xâm lược tưởng đã hoàn toàn khuất phục được bất ngờ lại quật lại ngay trong lòng và sau lưng chúng v.v…
Thật là một tinh thần tình yêu nước mang bản sắc Việt Nam.
Bình dị là một nét đẹp Việt Nam. Bình dị không phải là một phẩm chất đạo đức. Nó là một nét đẹp, nét cao cả của tâm hồn. Nó như một hương thơm gồm nhiều mùi hương, như một ánh sáng gồm nhiều màu sắc, hương thơm và ánh sáng ấy tỏa rộng trong không gian với muôn màu muôn vẻ. Bình dị không phải chỉ là giản dị. Bình dị nó hàm chứa cả sự giản dị, sự khiêm tốn, sự đúng mực, vừa phải, sự hồn nhiên, sự nhân hậu, sự khoan dung, độ lượng, nó ngược lại với tính khoa trương, cường điệu, giả tạo, khe khắt, gay gắt, ngược ngạo, hoặc tủn mủn, vụn vặt. Bình dị là lòng yêu thiên nhiên, gần thiên nhiên, gắn với thiên nhiên, hòa với thiên nhiên, là bộc lộ bản chất người một cách chân chất hồn nhiên. Bình dị biểu hiện chủ yếu trong lối sống, và trong thị hiếu thẩm mỹ.
Bình dị là từ trong tâm hồn, từ ở tấm lòng. Con người có tấm lòng bình dị tự nhiên có những hành vi tỏa ra một tình cảm ấm áp đầy sức thuyết phục và cảm hóa người khác. Để thấy rõ nét bình dị trong tính cách và tâm hồn Việt Nam, không gì hơn khi ta nhìn vào Bác Hồ – Không phải ngẫu nhiên mà thế giới gắn hai chữ Việt Nam và Hồ Chí Minh liền nhau. Về mặt bản sắc mà nói thì Việt Nam đồng nghĩa với Hồ Chí Minh và ngược lại, cái bản sắc Việt Nam chính là cái Hồ Chí Minh, cái bản sắc Hồ Chí Minh chính là cái Việt Nam. Ngay từ lần đầu tiên, Bác tiếp xúc công khai với đông đảo đồng bào, câu nói nổi tiếng của Bác: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?” có sức mạnh cảm hóa phi thường, câu nói ấy xuất phát từ tấm lòng bình dị tràn đầy yêu thương sâu sắc, nó hồn nhiên, nó tất yếu, nó không khác được. Nó không mầu mè, không gượng ép, nó làm Bác hòa vào nhân dân, nhân dân hòa vào Bác. Sau này trong bất cứ cuộc tiếp xúc nào, những cử chỉ của Bác đối với các cụ già, các “cô phụ nữ”, “các cháu nhi đồng” đều ấm áp, tự nhiên, thân tình như vậy. Không thể có ai “làm giả” ra được những điều như vậy. Bình dị đi liền với trung thực.
Bác sống một cuộc sống hết sức đơn sơ, giản dị, từ nhà ở, áo mặc, đồ dùng đến cơm ăn nước uống. Không phải Bác cố làm ra cho nó giản dị, không phải Bác cố làm gương cho cán bộ đồng bào noi theo, mà Bác yêu thích như vậy. Tấm lòng Bác như vậy, Bác sống tự nhiên như tấm lòng Bác sai khiến.
Tuy thế bình dị hoàn toàn không có nghĩa là tùy tiện, xuề xòa, là suồng sã. Bình dị có những nguyên tắc rất nghiêm túc của nó.
Bác mặc quần áo rất đơn sơ, dùng những đồ dùng giản dị, không cần cầu kỳ: cái quạt nan, cái mũ lá, đôi dép lốp. Nhưng mỗi khi ta thấy Bác, ta vẫn thấy một tư thế uy nghi của một vị lãnh đạo, một cha già, một người thầy nghiêm khắc và thân ái, hoặc hơn nữa một ông tiên tao nhã, chỉnh tề, ta không thể nào có ấn tượng đứng trước một cái gì gọi là xuề xòa tầm thường.
Đó chính là cái bình dị trong tâm hồn của Người tỏa sáng ra toàn bộ phong thái của Người. Cái bình dị trong Bác Hồ được hun đúc lên do lòng yêu nước, yêu người của Bác sâu sắc và bao la, do cuộc sống của Bác bôn ba năm châu bốn biển, làm nhiều nghề, tiếp xúc với nhiều hạng người. Bác có một vốn sống cực kỳ phong phú và vững chắc, vì vậy trong cuộc sống chiến đấu, công tác cũng như cuộc sống cá nhân hàng ngày, không bao giờ Bác gặp điều gì phải có một chút bỡ ngỡ. Cái bình dị của Bác đạt tới mức ung dung thư thái. Năm 1946, Bác dạy bộ đội chúng tôi một câu, tôi nhớ mãi: “Khi không có giặc coi như có giặc, khi có giặc, coi như không có giặc” và khi Bác đi vắng, Bác dặn cụ Huỳnh ở nhà: “Dĩ bất biến ứng vạn biến” (lấy cái bình tĩnh mà ứng phó với vạn cái biến động). Cái bình dị, ung dung thư thái của Bác đạt tới đỉnh cao, nó có một sức thu phục và cảm hóa hết sức mãnh liệt.
Cái bình dị bao giờ cũng hồn nhiên, cũng biểu hiện hồn nhiên, có hồn nhiên thì mới bình dị, vì vậy bình dị hàm chứa sự khoan dung, sự chân thành, trung thực, hàm chứa tình yêu thương tôn trọng lẫn nhau. Thực ra cũng có những thứ hồn nhiên, trung thực ồn ào, mạnh mẽ khẩn trương, nhưng phong cách Việt Nam là bình dị, là ung dung thư thái, êm dịu, sâu lắng. Tất cả nó thành bình dị. Bình dị là một phong cách Việt Nam. Chính Bác Hồ là người đã kết tinh nhiều vẻ của cái bình dị Việt Nam vào trong phong cách của mình làm nên một cái bình dị Việt Nam với một tầm cao mới, nêu lên một lý tưởng về phong cách mà mọi người Việt Nam đều yêu mến, ngưỡng mộ, hướng tới, ghi nhận lại như là một nét đậm đà của bản sắc Việt Nam trong phong cách sống.
Bình dị Việt Nam còn biểu hiện rõ ở thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu nghệ thuật Việt Nam. Các cảnh quan, công trình xây dựng của người Việt Nam từ lịch sử nhiều năm lưu lại đều để cho người đời những ấn tượng một vừa hai phải, xinh gọn, trang nhã, thân mật gần gũi. Ta không có công trình đồ sộ nguy nga quá cỡ gây những ấn tượng choáng ngợp với con người, cũng không có những tác phẩm nghệ thuật nào quá tỉ mỉ nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thể nhìn thấy được. Ta không có những thành cao như núi, nhà chọc trời và hạt gạo có khắc cả một bài thơ v.v… Trong thị hiếu hàng ngày người ta thường nói đến trang nhã, thanh lịch, người ta chê trách những gì lòe loẹt, sặc sỡ, diêm dúa, màu mè. Công trình đồ sộ nhất của ta là hệ thống đê chống lũ lụt của đồng bằng sông Hồng.
Về văn học nghệ thuật, ta không có những trường ca hàng chục ngàn câu, những tiểu thuyết hàng chục ngàn trang và hàng ngàn nhân vật, mà những tác phẩm hay nhất là những bài thơ xinh gọn độ 50 chữ hoặc vài trăm chữ, những bài phú ngót ngàn chữ, những tiểu thuyết thơ, văn xuôi độ 200 – 300 trang.
Bàn về cái bình dị Việt Nam biểu hiện trong thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu nghệ thuật thì đụng phải nhiều vấn đề rộng lớn và phức tạp khó khăn. Trong phạm vi bài này, tôi không đủ sức đi vào, tôi chỉ xin dừng lại bàn sơ sài chút ít về sự ưa thích của người Việt Nam đối với âm thanh (và giai điệu) về màu sắc (và hình dáng) tức là đụng chút ít đến âm nhạc và nghệ thuật tạo hình. Còn khi nói về sự ưa thích cũng là nói nặng về sự ưa thích cổ truyền còn lưu đến bây giờ, chứ không bao quát hết được mọi sự ưa thích ở mọi vùng, mọi thời gian khác nhau và những sự ưa thích lại đang biến đổi.
Đại thể người Việt Nam ta ưa thích những âm thanh và giai điệu êm ả, dịu dàng, dìu dặt réo rắt đơn giản, thích những âm sắc gần thiên nhiên, rút từ chất liệu thiên nhiên, ví dụ tiếng tơ, tiếng trúc, từ tơ tằm, từ cây trúc, ít thích những hòa âm đồ sộ dồn dập kích động. Tất nhiên đây là nói đại thể chứ không phải toàn bộ, tất cả. Những âm thanh gợi nhớ quê hương, gợi nhớ một tình cảm ân tình lưu luyến man mác là tiếng sáo diều, tiếng sáo trúc, tiếng nhị, tiếng đàn nguyệt, đàn bầu, tiếng trống, tiếng mõ (đều từ chất liệu gỗ, tre, da v.v…). Những làn điệu dân ca là những làn điệu chậm rãi ê a, nhạc nhiều, lời ít, láy đi láy lại, mỗi lời như đã được khắc sâu vào người nghe. Tất cả, có thể quyện vào tiếng gió, tiếng sóng, tiếng chim lan tỏa trong không gian, thấm đượm nhẹ nhàng vào lòng người. Nghệ sĩ và thính giả nhiều khi là một đối một, hoặc thính giả chỉ là một nhóm người rất nhỏ trong một không khí gia đình thân thuộc, không có những cuộc diễn tấu đồ sộ ồn ào trừ những ngày lễ hội có rước sách; nhịp điệu thường êm ái nhẹ nhàng.
Có thể coi đó là cái bình dị trong âm nhạc, cái nhẹ nhàng hồn hậu của âm nhạc Việt Nam. Có một hồi rộ lên, đa số thanh niên nhất là ở các thành phố đổ xô nhau vào các loại nhạc nhẹ, thế giới và các tác giả Việt Nam cũng viết nhiều ca khúc, kiểu nhạc nhẹ, các ca sĩ thay đổi cách biểu diễn. Người ta hướng về những âm thanh mạnh mẽ, dồn dập gay gắt, những nhịp điệu kích động, lối biểu diễn gào thét khoa trương. Đó là một hiện tượng có sự đòi hỏi của một sự biến động tâm lý mới, một ảnh hưởng của trào lưu công nghiệp thế giới. Nhưng bình tĩnh lại xem xét, hiện tượng đó không để lại dấu vết sâu xa trong tâm hồn Việt Nam. Có một hiện tượng khác vẫn diễn ra. Người ta vẫn hoan nghênh ưa thích các ca khúc đậm đà âm hưởng của dân ca, bắt nguồn từ các giai điệu dân ca. Một cuộc điều tra của Vụ Nhạc Múa Bộ Văn hoá cho biết khi hỏi các thanh niên về những bài hát ưa thích thì trong 10 bài thanh niên ưa thích, có đến 8 bài là bắt nguồn từ dân ca như “Dáng đứng Bến Tre”, “Đất đỏ miền Đông”, “Một khúc tâm tình của người Nghệ Tĩnh”, v.v… chứ không phải những bài nhịp điệu dồn dập và âm thanh gào thét. Phân tích tình hình này, các đồng chí ở Vụ Nhạc Múa nhận xét: Rõ ràng là thanh niên Việt Nam vẫn mang tâm hồn Việt Nam vẫn ưa thích cái gì vốn là của mình. Nhưng với điều kiện phải được nâng cao, người ta không thể thích dân ca nguyên xi như cũ. Đồng thời số bài hát sáng tác theo mô-típ mô phỏng dân ca hoặc nâng cao dân ca xuất hiện ngày càng nhiều. Các nhạc sĩ sáng tác đều có ý thức sâu sắc khai thác vốn âm nhạc cổ truyền cả trong âm nhạc không lời. Như vậy cái bản sắc dân tộc trong âm nhạc vẫn được các nhạc sĩ trân trọng và được quần chúng (cả thanh niên) ưa thích, thừa nhận và yêu mến. Đó là một chiều hướng phát triển tốt đẹp. Tất nhiên trong lúc có nhiều biến động mạnh mẽ về nhiều mặt, không khỏi có những chuệch choạc chỗ này chỗ khác, nhưng trong chiều đi chung của lịch sử vẫn có một chiều đi tốt đẹp ngày càng được khẳng định, ngày càng được mạnh lên. Bản sắc dân tộc vẫn có một sức mạnh riêng của nó trong cuộc sống. Cuộc sống có đòi hỏi sự phát triển, nhưng nếu sự phát triển được thúc đẩy một cách có ý thức và hợp quy luật thì phần bền vững của bản sắc càng thêm bền vững và bản sắc lại phát triển cao hơn, phong phú hơn. Giữ gìn bản sắc không phải là bảo thủ trì trệ, là hoài cổ, là từ chối mọi sự tiến lên.
Về mặt ưa thích màu sắc lại có nhiều tình hình thú vị. Cũng đại thể mà nói, người Việt Nam ưa thích các màu sắc dịu dàng, nhẹ nhàng, sáng sủa, thanh nhã, hài hòa, ưa thích các màu sắc của thiên nhiên, bắt nguồn từ thiên nhiên.
Người Việt Nam chơi hoa trọng hương hơn trọng sắc, thích những thứ hoa gì màu nhẹ nhưng có hương, như các thứ lan, như hoa ngâu, hoa nhài, hoa huệ, kể cả hoa bưởi, hoa dạ hợp, dạ hương.
Nếu hoa có màu thì thích loại màu nhẹ, dịu như phấn hồng, tím nhạt, vàng nhạt, nếu có màu gắt là những điểm nhỏ li ti của những cánh hoa nhỏ hoặc là những điểm nhỏ trên nền lớn màu nhẹ. Không phải ngẫu nhiên mà hầu như tất cả các màu Việt Nam đều lấy tên của thiên nhiên đặt vào và các tên đó phần lớn ứng vào các màu thuộc gam nhạt, thanh – những tên đó như sau:
Xanh thì có da trời, nước biển, cỏ non, lá mạ, hoa lý, nõn chuối, cỏ úa, cứt ngựa.
Đỏ thì có gấc, son, mặt trời mọc, mào gà.
Đỏ nhạt thì có da cam, gạch non, da bò, gạch cua, lòng tôm, hoa đào.
Nâu thì có vỏ già, gụ, nâu non.
Đen thì có hạt huyền, hạt na, than.
Tím thì có bồ quân, hoa sim, hoa mua, hoa cà, mận chín, quả mồng tơi.
Trắng có trứng gà bóc, hoa huệ, vôi, tuyết.
Tôi không biết thế giới có nước nào có một ngôn ngữ đặt tên màu thú vị như thế hay không? Một màu có thể thật gắt nhưng cho nó một tên quả, tên lá, tên hoa, tự nhiên nó lại nhẹ đi rất nhiều như đỏ như gấc, đỏ như hoa mào gà.
Cái bình dị trong màu sắc chủ yếu là cái dịu dàng, nhẹ nhàng, thanh nhã.
Còn về hình dáng các đồ vật, các công trình nói chung người Việt Nam ưa thích cái nhẹ nhàng, thanh mảnh, thanh thoát, thoáng đạt. Gần đây có rất nhiều công trình kiến trúc hiện đại, tôi thường được nghe những ý kiến nhận xét nặng nề cục mịch. Cho dù công trình có nguy nga, đồ sộ, người ta cũng thích nó thanh thoát nhẹ nhàng. Không biết các nhà kiến trúc nghĩ sao về điều này.
Như vậy thị hiếu thẩm mỹ Việt Nam là một thị hiếu tinh tế hướng tới cái thanh tao, trang nhã gắn với thiên nhiên, hòa vào thiên nhiên, hướng tới một cái đẹp bình dị hồn nhiên, nó nhất quán với cái bình dị hồn nhiên nhân hậu trong phong cách sống, trong phong cách ứng xử của con người tạo nên một bản sắc bình dị Việt Nam gắn với thiên nhiên và hòa vào thiên nhiên, một mặt nói lên trình độ phát triển xã hội: ta mới ở vào thời kỳ tiền công nghiệp. Nhưng nó cũng lại là một bản sắc quý giá. Cái xã hội công nghiệp trong khi công nghiệp hóa đã phá hoại thiên nhiên nhiều, phá vỡ sự cân bằng môi trường, ngày nay chính những người trong xã hội công nghiệp phát triển lại thèm khát thiên nhiên, muốn trở lại với thiên nhiên cho họ. Nhưng thiên nhiên được tạo lại có vẻ đẹp hơn thì vẫn là thiên nhiên giả, họ vẫn tìm đến thiên nhiên thật. Thế mà Việt Nam ta vốn có cái bản sắc quý giá là gần thiên nhiên hòa vào thiên nhiên là một điều thật không dễ gì có được. Cũng như đối với âm thanh, có một hồi, ta thấy xuất hiện nhiều sự ưa thích màu sắc mạnh mẽ và từng mảng lớn: quần áo đỏ, áo có hoa rất to, màu rất gắt, ta cũng thấy hình như có một sự phát triển của thị hiếu phù hợp với sự phát triển công nghiệp. Nhưng hình như nó chỉ rộ lên một thời gian, nhất là mấy năm sau khi thống nhất đất nước, đến bây giờ tuy hiện tượng đó vẫn còn nhưng không còn rầm rộ, ồ ạt, mà chiều hướng chung hầu như lại lắng xuống, người ta lại trở về với bản sắc cổ truyền. Cũng có một tình hình là, các lớp người thường rất sôi nổi và hiếu động, ham chuộng sự mới lạ cuồng nhiệt vào tuổi mới bắt đầu trưởng thành. Khi người ta đã đến tuổi hơi đứng (quãng 30) thì ý thức về nguồn gốc, về cội nguồn mạnh lên, rõ hơn và ý thức về bản sắc rõ rệt hơn.
Đến đây, ta lại gặp vấn đề cần bàn tiếp: Bình dị, đi liền với trung thực, nhân hậu và hồn nhiên, là một nét đẹp của tâm hồn Việt Nam, nét đẹp bình dị đó có thể hoàn toàn phù hợp với yêu cầu thời đại trong sự phát triển xã hội không?
Thời đại hiện nay yêu cầu công nghiệp hóa, yêu cầu khoa học kỹ thuật, yêu cầu quốc tế hóa nhiều mặt ngày càng cao. Do đó con người cần phải khẩn trương, chính xác, phong phú và phải ứng xử trong nhiều điều kiện phức tạp, đa dạng. Vậy bình dị có mặt nào tiêu cực, trở ngại cho những yêu cầu phát triển mới hay không?
Tôi có được nghe một nghệ sĩ sáng tác nói thế này: “Đứng trước phong cảnh nông thôn Việt Nam, tôi dễ dàng xúc động với cảnh con đò, bến nước, gốc đa. Còn chưa động được như vậy trước những máy kéo và trạm bơm…”
Tôi cứ suy nghĩ mãi: “Đó là điều đáng trách hay không đáng trách?”.
Cần phải nói thêm: Bình dị hoàn toàn không có nghĩa là đơn giản, tùy tiện. Đơn giản và tùy tiện quả thực là những điều ngày nay ta không thể chấp nhận được. Nhưng có thứ khẩn trương ầm ĩ và khoa trương, và có thứ khẩn trương chính xác nhưng ung dung êm ả. Riêng tôi, thực sự tôi thấy không ưa những người luôn luôn nói lên và làm ra bộ tất bật vội vàng, luôn lớn tiếng thông báo “lịch công tác” rất dày đặc của mình; luôn luôn cho mọi người có tăm tiếng lớn và sắp “phải” gặp những người có chức vụ quan trọng. Và ngược lại tôi thấy yêu mến cảm phục những người phải làm rất nhiều những việc nặng nề, nhưng luôn thư thái ung dung, lặng lẽ, không quay cuồng, không cuống quýt, không vội vã, hay có vội vã cũng vội vã một cách ung dung, khẩn trương một cách thư thái.
Từ đó, tôi cho rằng một mặt ta cần cảnh giác với một khía cạnh là: bình dị “có họ hàng” với lề mề, chậm chạp, tùy tiện, đơn giản để đề phòng nó. Mặt khác ta hoàn toàn có thể thực hiện những yêu cầu mới trong phong cách, lối sống và cảm xúc hàng ngày là khẩn trương, chính xác và tinh vi mà vẫn có thể cho nó một vẻ đẹp sâu sắc: bình dị nghĩa là ung dung, hồn nhiên, trung thực và nhân hậu.
Như vậy ta vẫn có thể có một văn hóa công nghiệp, hiện đại mà vẫn có vẻ đẹp bình dị với điều kiện ta quan niệm nét đẹp bình dị với tất cả chiều sâu của nó.
***
Trong ca dao còn có nhiều câu nói lên cái ý vị ấy.
Tới đây đầu lạ sau quen
Bóng trăng là nghĩa, ngọn đèn là duyên.
Thuyền chài, thuyền lái, thuyền câu
Biết thuyền ân ngãi nơi đâu mà tìm.
Thuyền đi để bến đợi chờ
Tình đi nghĩa ở bao giờ quên nhau.
Chẳng nên tình trước nghĩa sau
Bến này giải phóng trăng thâu đợi thuyền.
Trầu xanh, cau trắng, cau hồng
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên
v.v… và v.v…
Như vậy tình nghĩa đều là tình cảm, là thứ tình cảm đặc biệt sâu sắc có ràng buộc, có thủy chung, ràng buộc đây không phải ràng buộc bằng nghĩa lý, nghĩa vụ mà bằng nghĩa tình.
Đồng chí Lê Duẩn nói “Tình thương và lẽ phải”, có thể được coi như một cách diễn đạt mới của tình nghĩa. Lẽ phải đây cũng có ý nghĩa “tình”, lẽ phải đây là lẽ thuyết phục, lẽ cảm hóa, không phải là lẽ phải cãi lý, ai chết lý phải chịu. Có người có lý mà không có lẽ phải. Chứ không phải có lý là có lẽ phải đâu. Tôi hiểu chữ “tình thương và lẽ phải” tức là tình nghĩa theo nghĩa truyền thống được hiểu trong nhân dân. Người ta thường nói tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa cha con, tình nghĩa anh em, tình nghĩa bạn bè, tình nghĩa thầy trò, tình nghĩa đồng chí, tình nghĩa họ hàng, tình nghĩa hàng xóm – Tình là tình cảm yêu thương, nghĩa là tình cảm của một mối quan hệ có ràng buộc, vì vậy thì gặp người hoạn nạn khó khăn ta có thể có tình thương (thương xót, thương hại) cứu giúp. Chứ không ai nói tình nghĩa
người đi đường, tình nghĩa với người bị nạn. Có chăng lúc ấy, lại là thứ tình nghĩa rộng lớn: tình nghĩa đồng bào. Nghĩa này là tình trộn vào với tình. Còn như nếu tách ra tình nghĩa là tình cảm + nghĩa vụ và như trong câu người ta thường nói hết tình còn cái nghĩa, thì cái nghĩa (nghĩa vụ) đó thường mong manh và mất luôn. Tình nghĩa còn thì còn cả, mất thì mất cả.
Cũng cần bàn thêm các mặt khác nhau của tình nghĩa. Ta có thể e ngại một cách chính đáng là tình nghĩa, nếu thiếu một nền tảng khoa học, thiếu một lý tưởng mục tiêu cách mạng, có thể phát huy mặt tiêu cực: nể nang dè dặt, gia đình chủ nghĩa… tạo ra một trạng thái, trì trệ nặng nề trong cuộc sống. Khi tình nghĩa phát triển thành “chủ nghĩa tình cảm” thì nhiều mối quan hệ nguyên tắc trong sinh hoạt chính trị – xã hội bị phá vỡ ; không còn nguyên tắc tập trung dân chủ: Trong một tổ chức bàn bạc công việc không có biểu quyết và thực hiện thiểu số phục tùng đa số, mà bất cứ việc gì cũng phải chờ đợi sự nhất trí hoàn toàn mà thời hạn của sự chờ đợi này có khi là vô hạn định, do đó công việc không được quyết định. Cấp trên thương cấp dưới, cấp dưới nể cấp trên, không có kỷ luật, chỉ có thuyết phục và chờ đợi, không có trách nhiệm cá nhân cụ thể, không sao tìm ra được con người cụ thể chịu trách nhiệm về một khuyết điểm cụ thể nào. Cấp trên quyết định, cấp dưới không nghe, không thực hiện cũng được, công việc cứ gác lại. Cấp trên có những quyết định sai, hành động sai, cấp dưới biết rõ, nhưng vẫn nghe theo, làm theo và lại còn thuyết minh ngụy biện để bao che, và cũng coi đó là tình nghĩa, là thương nhau. Công tác tổ chức, sử dụng cán bộ lấy tình cảm ưa ghét làm tiêu chuẩn, không lấy tính hiệu quả và tính trung thực làm tiêu chuẩn. Điều này khuyến khích phát triển chủ nghĩa cơ hội, một số người lấy việc nghe theo cấp trên, nịnh cấp trên làm con đường tiến thân. Chủ nghĩa cá nhân phát triển cả ở cấp trên và cấp dưới: Cấp trên thích nịnh nên khuyến khích cấp dưới nịnh bợ. Đó là một thứ tình nghĩa chết tiệt, phá hoại đạo đức xã hội và phá hoại nhiều mặt phát triển xã hội.
Tình nghĩa và nghiêm minh là thống nhất. Về điều này, không thể không nhắc đến tấm gương sáng tuyệt vời của Bác Hồ. Bác là một biểu tượng của tình thương. Bác ăn không ngon, ngủ không yên khi còn nửa nước bị chiếm đóng, đồng bào miền Nam bị khủng bố tàn sát. Bác ngủ không trọn giấc khi nghĩ đến dân công bộ đội ở chiến dịch không đủ áo ấm, không đủ gạo ăn. Bác cởi áo của Bác để cho một tù binh Pháp thiếu áo. Bác theo dõi hàng ngày không bỏ qua một thành tích nhỏ của một cháu thiếu niên hay một vị phụ lão. Không bao giờ quên khen thưởng một mẹo hay của một chiến sĩ du kích, hay một phát minh sáng tạo của thanh niên hay trí thức, không quên một đơn vị có thành tích trong chiến đấu hay sản xuất dù đơn vị đó ở một góc nào trên đất nước. Bác đã bao lần chùi nước mắt khi gặp các đại biểu miền Nam đau thương, tấm lòng của Bác thật bao la, thật thắm thiết. Nhưng vì lợi ích của cách mạng, của Tổ quốc, Bác không hề tha thứ một tội lỗi nào: Bác đã cho xử bắn những tên ăn cắp của công, xâm phạm nặng nề đến quyền lợi chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bác cho xử bắn những tên vô đạo đức mất hết tính người. Bác bắt phải nghiêm trị những người vô kỷ luật làm tổn thương đến vận mệnh độc lập của nước nhà. Bác tự phê bình và xin lỗi đồng bào khi Đảng mắc sai lầm và kiên quyết cùng Đảng xử lý kỷ luật những cán bộ đảng viên sai lầm.
Bác rất nghiêm với những người có sai lầm khuyết điểm. Nhưng những người được Bác phê bình tuy rất sợ Bác, nhưng lại luôn như nhận được ở Bác, từ những lời phê bình đó một tình thương sâu sắc, một sự khoan dung gần như âu yếm nữa.
Ở Bác, tình nghĩa là tình nghĩa phân minh và nghiêm minh. Những việc xử lý kỷ luật của Bác đều làm cho tình nghĩa cách mạng thêm đậm đà nồng nàn, Bác đã giữ vững và phát huy cao độ một giá trị tinh thần độc đáo của Việt Nam và đã nâng nó lên rất phù hợp với yêu cầu của thời đại.
Như vậy cần phải nhận thức tình nghĩa theo yêu cầu của thời đại, không thể nhận thức tình nghĩa theo một kiểu hồ đồ và lạc hậu được. Đặc điểm tình nghĩa trong bản sắc dân tộc Việt Nam có một ý nghĩa nhân đạo sâu sắc rất lớn, nó rất phù hợp với tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa, nhưng nó phải được phát triển trên nền tảng tinh thần khoa học và mục tiêu cách mạng.
Bản sắc dân tộc của ta gồm một tinh thần yêu nước kiên cường và anh hùng, một tâm hồn bình dị và một mối quan hệ giữa người và người trên nền tảng tình nghĩa, là một bản sắc anh hùng cao cả và nhân đạo. Có thể toàn bộ chi tiết chưa phải là chi tiết những tiêu chuẩn đạo đức. Ví dụ một người thích màu sắc sặc sỡ, không hồn nhiên không phải là một người vô đạo đức. Nhưng xã hội mà ta hướng tới là xã hội có một nền đạo đức cao và lúc ấy ai có tâm hồn đẹp là người có đạo đức cao chứ không phải đạo đức chỉ hạn chế trong các tiêu chuẩn thiện ác cổ truyền. Chính vì vậy trong bản sắc Việt Nam có những nét tinh thần cao quý và tiên tiến. Cũng có câu hỏi đặt ra bản sắc dân tộc có điểm nào tiêu cực, lạc hậu không? Phải nói rằng trong diện mạo tinh thần xã hội ta ngày nay còn có nhiều hiện tượng tinh thần lạc hậu, tiêu cực: bảo thủ, trì trệ, lười biếng, mê tín dị đoan, tư hữu nặng nề, ăn bám, v.v… Nhưng tôi quan niệm ta bàn bản sắc là bàn đến cái vốn gốc của ta được kết tinh lại, cái vốn quý giá nâng cao giá trị dân tộc, chứ không phải liệt kê các hiện tượng tinh thần, tìm cái gì là phổ biến, rồi coi cái đó là bản chất, là bản sắc của dân tộc. Đời sống tinh thần của mỗi dân tộc đều có biến đổi và phát triển. Bản và sắc cũng có sự biến đổi nhưng nó biến đổi theo quy luật của nó, của cái gốc. Một cái cây càng cao to, nhiều cành lá thì gốc lớn, càng sâu, càng bền chặt. Xã hội ta đang phát triển, nhưng xã hội ta vẫn là xã hội của dân tộc Việt Nam, dân tộc ta phát triển, cái gốc của nó càng phải được vun đắp cho lớn cho sâu, cho bền để làm cho dân tộc ta phát triển mạnh mẽ ngày càng tươi đẹp và ngày càng rạng rỡ diện mạo Việt Nam hơn. Không có vấn đề đào cái gốc này vứt đi thay vào cái gốc khác.
Cần phải có ý thức sâu sắc về bản sắc dân tộc, người của mỗi ngành vừa nhận thức được rõ bản sắc chung của dân tộc vừa phải thấy được cái biểu hiện của nó trong ngành mình trong lĩnh vực mình. Còn ở mỗi lĩnh vực lại phải có công phu tìm ra quy luật đặc thù của phương pháp sáng tạo trong ngành, để đẩy mạnh sáng tạo trên cơ sở bản sắc thì mới tìm được hướng đi đúng đắn được. Tìm được từng yếu tố dân tộc trong ngôn ngữ, âm thanh, nhịp điệu, đường nét, màu sắc là quý giá và cần thiết, nhưng cái quan trọng hơn là phải tìm được quy luật phát triển, quy luật của phương pháp sáng tạo.
Bản sắc dân tộc cũng chính là những nét tâm hồn của dân tộc của mỗi người trong dân tộc. Bản sắc Việt Nam. Chính là tâm hồn Việt Nam. Bản sắc được biểu hiện ở văn hóa nói chung và hiển nhiên rõ nét nhất ở con người.
11-1985 T.Đ (SH22/12-86)
Bản Sắc Văn Hóa Dân Tộc Việt Nam Trong Thơ
Check Also
Next
Bạn thấy không, chân dung văn hóa người Việt là do các nhà thơ tạo tạc.
Nghĩa láng giềng luôn là điều canh cánh bên lòng người Việt, sau tình gia đình. Vẫn là Nguyễn Bính: “Bờ rào cây bưởi không hoa/ Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo”. Thi nhân chân quê sẽ sống mãi trong tâm hồn Việt, dù xã hội Việt Nam đô thị hóa cỡ nào, dù người Việt rời xa quê cũ tới chân trời góc biển nào. Vì ông đã rải các hàng thơ xuống mọi cung bậc của người-nhà-quê ẩn hiện trong mỗi con dân Việt: “Thầy ơi! Đừng bán vườn chè/ Mẹ ơi! Đừng chặt cây lê con trồng”. Và không thể nào quên câu-thơ-bảng-hiệu made by Nguyễn Bính: “Hoa chanh nở giữa vườn chanh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê”.
Với cả cuộc đời sôi động trong và ngoài nước, Du Tử Lê là thi sĩ “toàn tòng”. Cho nên nỗi hoài hương của ông bao trùm lên tất cả: “Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè/ Nắng Trương Minh Giảng, lá hè Tự Do/ Nhớ nghĩa trang xưa, quê hương bạn bè/ Nhớ pho tượng lính, buồn se bụi đường”.
Vì thế, sự tinh tế trong ứng xử là điều dân Việt coi trọng. Không chỉ tinh tế trong đại sự, mà cả trong tiểu tiết: “Dịu dàng như thể tay tiên/ Giữ hờ mép áo làm duyên qua đường”. Thưa, đó là dáng vẻ đi đứng của con gái nhà lành thời chàng Nguyễn Bính đang nổi như cồn vì sự đam mê thơ truyền thống trong khi say đắm người đẹp tân thời. “Mép áo” chiếc áo cánh, có thể chẳng bị cơn gió bạo nào, nhưng “tay tiên” vẫn thả nhẹ xuống ra vẻ “giữ hờ” khi người đẹp băng qua đường trước bao ánh mắt người lạ. Làm duyên là một nét độc đáo và ấn tượng trong sinh hoạt thường nhật của người phụ nữ Việt Nam. Với người Việt, đẹp xấu chưa biết, trước hết phải duyên.
Việt Nam lại là đất nước thi ca, như thi sĩ Nguyễn Bính từng viết: “Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ”. Đúng vậy, so với các ngôn ngữ khác, tiếng Việt có khá nhiều thanh điệu (6 thanh điệu), như đôi cánh nâng thi ca tung bay đến chân trời của tâm hồn.
kannada girls sex chúng tôi west indies open sex indian bus groping chúng tôi tv 5 monde asie schedule tmailxnxx chúng tôi wwxxvideo com mywapking video chúng tôi chúng tôi beautiful sexy aunty chúng tôi bhabhi saree navel
sixwap com chúng tôi chettu kinda pleader songs download www.gonzo xxx chúng tôi chúng tôi xvideos new tamil lady boy xnxx chúng tôi nesapron houjou no reizoku elf 3 chúng tôi porn hantai kumari kandam chúng tôi unconscious sex video
Nguyễn Trãi – Người Con Toàn Thiện Của Dân Tộc, Danh Nhân Văn Hoá Nhân Loại
NHỮNG GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU THI CA VIỆT NAM
KỲ THỨ 5
NGUYỄN TRÃI
– NGƯỜI CON TOÀN THIỆN CỦA DÂN TỘC,
DANH NHÂN VĂN HOÁ NHÂN LOẠI
Kiều Văn
Trong thế kỉ XV, dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra một con người toàn thiện: Nguyễn Trãi (1380 – 1442). Nếu lấy sự toàn thiện làm tiêu chí thì Nguyễn Trãi xứng đáng là con người ưu tú nhất của dân tộc ta kể từ khi lập quốc (thời đại Hùng Vương) đến nay.
Ông chính là mẫu người mà thi hào Anh Shakespeare đã ca ngợi trong vở kịch Hamlet:
Đây con người, một con người toàn vẹn Chẳng bao giờ tôi thấy kẻ sánh ngang.Lê Thánh Tông, ông vua anh minh, có câu thơ ca ngợi Nguyễn Trãi:
Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo.(Ức Trai lòng dạ sáng sao Khuê).
Tiên nho Nguyễn Năng Tĩnh ở nửa cuối thế kỉ XIX đã viết một câu nổi tiếng trong lời tựa sách Ức Trai di tập (do ông cùng Dương Bá Cung và Ngô Thế Vinh sưu tầm lại những tác phẩm của Nguyễn Trãi đã bị tán thất, rồi đem in thành sách năm 1868): “Những người có tài trí lỗi lạc, đức độ bao la, khi đem tài đức ấy thi thố ra việc làm thì đó là sự nghiệp, khi thổ lộ ra lời nói thì đó là văn chương”.
Nhận định ấy đã được chính sử Việt Nam và sự nghiệp văn chương trác tuyệt của Nguyễn Trãi xác nhận.
Chúng tôi xin phân tích những phương diện đã làm nên sự toàn thiện của Nguyễn Trãi như sau:
NGUYỄN TRÃI – NHÀ ÁI QUỐC VĨ ĐẠI, ANH HÙNG DÂN TỘC
Sử sách còn ghi chuyện chàng thanh niên Nguyễn Trãi khóc theo cha đến tận ải Nam Quan khi cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt giải về Kim Lăng. Cuộc đời Nguyễn Trãi bắt đầu bằng thảm kịch “nước mất nhà tan”. Chính “mối hận Nam Quan” đã nhen nhóm ngọn lửa của lòng yêu nước thương nòi trong tâm khảm Nguyễn Trãi để một ngày kia nó bùng cháy thành hoả diệm sơn của một sự nghiệp anh hùng.
Trong những năm bị giặc Minh giam lỏng ở Đông Quan, Nguyễn Trãi đã kí thác niềm u uất và chí vọng của mình trong những bài thơ nôm:
Góc thành nam lều một gian No nước uống, thiếu cơm ăn… Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải, Góc thành nam lều một gian.(Thủ vĩ ngâm)
… Một thân lẩn quất đường khoa mục, Hai chữ mơ màng việc quốc gia. Quân thân chưa báo, lòng canh cánh Tình phụ cơm trời, áo cha.
(Vô đề)
Nung nấu chí vọng “đền nợ nước, báo thù nhà”, khi nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi bèn trốn khỏi Đông Quan tìm vào Thanh Hoá gặp Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách, được Lê Lợi trọng dụng. Ông đã đồng cam cộng khổ với nghĩa quân Lam Sơn suốt mười năm kháng chiến. Một mình ông đảm trách cả một mặt trận quan trọng: mặt trận chính trị ngoại giao. Với sở học uyên bác, trí tuệ sắc bén, ông đã liên tiếp gửi thư cho bọn tướng giặc, đánh những đòn cân não làm tan rã tinh thần của chúng.
Cuối cùng Nguyễn Trãi đã thực hiện được ước mơ cháy bỏng của ông: đánh đuổi được giặc Minh, mang lại độc lập cho đất nước. Chính ông đã thay mặt Lê Lợi viết bản Bình Ngô đại cáo tổng kết chiến thắng oanh liệt của dân tộc:
Chẳng những mưu kế cực kì sâu xa Mà cũng xưa nay chưa từng nghe thấy. Xã tắc do đó vững bền, Non sông từ đây đổi mới. Trời đất bĩ rồi lại thái, Nhật nguyệt mờ rồi lại trong. Để mở nền thái bình muôn thuở, Để rửa mối sỉ nhục ngàn thu!(Bản dịch trong Đại Việt sử kí toán thư)
Ngay cả khi bị bọn lộng thần đố kị, vu cáo, thậm chí bị hạ ngục, khiến ông buộc lòng phải hai lần xin về trí sĩ tại Côn Sơn, tấm lòng ưu quốc ái dân của ông vẫn không lúc nào nguôi:
Bui một tấc lòng ưu ái cũ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông.(Thuật hứng)
Làm quan dưới hai triều Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông, ông đã ra sức chèo lái con thuyền của triều đình nhà Lê đi đúng con đường chính đạo mà tinh thần căn bản là thực hành nhân nghĩa để yên dân. Điều đặc sắc ở vị đại quan Nguyễn Trãi là khái niệm ái quốc luôn được cụ thể hoá bằng khái niệm ái dân, cận dân. Nói cách khác, với ông, chính lòng ái dân là thước đo tuyệt đối của lòng ái quốc! Có lẽ chỉ trừ một người thứ hai là vua Lê Thánh Tông, không một vị vua quan nào của triều Lê đạt tới ý niệm tuyệt vời đó. Và cũng chính vì tư tưởng khuynh dân đó mà Nguyễn Trãi trở thành thù địch của bọn quan lại triều Lê – những kẻ ít nhiều đều mắc căn bệnh vị kỉ và viễn dân. Có thể nói Nguyễn Trãi đã tử vì… tinh thần khuynh dân đó!
Trọn cả cuộc đời cống hiến cho nước, cho dân, lập được những kì tích sáng chói, Nguyễn Trãi trở thành một anh hùng dân tộc vĩ đại, kế tục truyền thống của Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo… đời trước, sát cánh với người anh hùng cứu nước Lê Lợi đương thời.
Chủ nghĩa anh hùng yêu nước của ông thể hiện rất rõ nét trong nhiều trước tác văn chương của ông như Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, thơ nôm và thơ chữ Hán mà sau đây là một bài tiêu biểu:
ĐỀ GƯƠMRồng ẩn Lam Sơn lúc đợi thời, Trong tay thế sự rõ mười mươi. Xoay đời, trời sáng sinh vua giỏi, Gặp bạn, hùm thiêng nổi gió tài. Hận nước nghìn năm vừa rửa sạch, Hòm vàng muôn thuở chắc không phai. Giang sơn đổi mới từ đây nhỉ, Thử đếm anh hùng được mấy ai?
Xuân Thủy dịch
NGUYỄN TRÃI – NHÀ CHÍNH TRỊ KIỆT XUẤT, BẬC HIỀN TÀI QUỐC GIA.
Nguyễn Trãi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và cộng sự với triều đình nhà Lê với tư cách một nhà chính trị, một nhà mưu lược. Ông đã thi thố tài kinh bang tế thế trên các mục tiêu chiến lược: đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho đất nước, xây dựng triều đại Hậu Lê thành một triều đại hưng thịnh. Bên cạnh đó ông xây dựng một sự nghiệp văn chương kì vĩ.
Suốt cuộc kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi đã tỏ rõ ông là một nhà chính trị kiệt xuất có tầm tư tuởng cao nhất của thời đại bấy giờ. Đánh giặc đương nhiên phải dùng tới vũ dũng. Nhưng đối lập với những kẻ hữu dũng nhưng vô mưu, vô trí, vô nhân, Nguyễn Trãi, với tầm vóc của một nhà tư tưởng, nhà chiến lược quân sự, vị quân sư của Lê Lợi, đã cống hiến và đặt nền móng tinh thần, tư tưởng cho cuộc kháng chiến. Đó là tư tưởng nhân nghĩa mà ông rút từ học thuyết Nho Giáo của Khổng Tử nhưng được áp dụng một cách đầy sinh động và sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta lúc đó. Cao kiến ấy của Nguyễn Trãi, nhà Hồ cũng như nhà Hậu Trần trước đó đều không có được. Nó đáp ứng khát vọng cháy bỏng của nhân dân ta đương thời, khiến cho tất cả mọi người Việt Nam từ bậc hào kiệt, giới sĩ phu, dân cày cuốc đến kẻ cùng đinh đều hướng về và quây quanh vị chủ tướng Lê Lợi. Muôn người cùng có chung một suy nghĩ lớn: NGHĨA, và một tình cảm lớn: NHÂN. Chính sự thống nhất cao độ về lí trí và tình cảm ấy đã tạo nên sức mạnh “chở thuyền lật thuyền”, khiến giặc Minh không thể nào chống lại nổi!
Tư tưởng nhân nghĩa trác việt ấy luôn luôn được Nguyễn Trãi triệt để cổ súy, nhấn mạnh ở mọi nơi, mọi lúc, trên chính trường, trên nghị luận và trong văn chương. Mở đầu Bình Ngô đại cáo – bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam thế kỉ XV – ông viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.Chỉ với hai câu văn, Nguyễn Trãi đã xác định rõ ràng mục tiêu quang minh chính đại của cuộc kháng chiến chống Minh: đó chính là việc thực thi tư tưởng nhân nghĩa trong hoàn cảnh chống ngoại xâm. “Cẩm nang” nhân nghĩa là vũ khí tinh thần tối quan trọng cho nghĩa quân và nhân dân Đại Việt, đồng thời là độc tố làm rệu rã tinh thần của bọn giặc Minh xâm lược. Có thể nói Nguyễn Trãi đã sử dụng tài tình nghịch lí “gậy ông đập lưng ông”: ông dùng chính những luận điểm kinh điển của tư tưởng Trung Hoa từng được các bậc thánh hiền như Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Mặc Tử… đúc kết mà bọn tướng Minh đều đã học thuộc nằm lòng, để quật lại chúng. Giặc Minh kéo sang An Nam với chiêu bài “chính nghĩa” là diệt nhà Hồ để khôi phục ngôi nhà Trần đã bị nhà Hồ thoán đoạt. Nhưng Nguyễn Trãi đã vạch rõ bộ mặt xâm lược phi nghĩa của chúng chỉ bằng một từ duy nhất: “bạo”! Chiêu bài “chính nghĩa” bị xé toạc, bộ mặt bạo ngược, bất nhân phi nghĩa của giặc bị phơi bày trước trời đất, trước toàn thể sĩ phu và nhân dân ta: chỉ riêng điều đó cũng đã đủ khiến chúng vô cùng hoảng sợ. Đòn cân não ấy xuất phát từ một khối óc thiên tài: Nguyễn Trãi.
Khác với rất nhiều vị vua và các tướng lĩnh giỏi của các thời đại, trong nước và trên thế giới, Nguyễn Trãi – xuất phát từ tư tưởng nhân nghĩa – hiểu thấu hơn ai hết cái chân lí lớn máu người không phải nước lã. Chính vì vậy, ông ra sức dùng đòn bút, đòn cân não để đánh giặc, nhằm làm giảm bớt tối đa xương máu của nghĩa quân Lam Sơn. Việc quân ta chủ trương trường kì vây hãm Đông Quan mà không ồ ạt tiến công hạ thành cũng chính nhằm bảo toàn lực lượng của ta, và kết quả thật kì diệu: giặc Minh rốt cuộc phải đầu hàng, còn nghĩa quân Lam Sơn hầu như không mất một mũi tên, một mạng người!
Ở phần cuối Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết: “Ta coi toàn quân là hơn, để dân nghỉ sức”. Tinh thần nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đối với quân và dân ta nồng đượm biết chừng nào!
Là nhà tư tuởng tầm vóc nhân loại, Nguyễn Trãi chủ trương áp dụng nhân nghĩa cho tất cả những ai là con người chứ không riêng gì người An Nam. Một sáng kiến vĩ đại của ông là mang nhân nghĩa áp dụng ngay cả với kẻ thù! Ông chủ trương “mưu phạt tâm công, không chiến cũng thắng”. Ông chỉ muốn đánh vào tâm vào trí giặc khiến chúng bại vong rút về nước chứ không thích giết nhiều người. Ngay cả khi tính mạng giặc hoàn toàn nằm trong tay nghĩa quân, các lãnh tụ Lam Sơn đã hành động theo tinh thần “oai thần không giết, ta cũng thể lòng trời mở đức hiếu sinh”.
Khởi đầu bằng một cuộc đấu tranh vũ trang, nhưng nhờ có tư tưởng nhân nghĩa làm kim chỉ nam, phần cuối của cuộc kháng chiến chống Minh đã diễn ra bằng hình thức “đàm phán hoà bình”. Giặc Minh ở các lộ được tự do đến các chợ mua “đồ lưu niệm”, rồi tất cả lục tục kéo về Đông Quan để rút hết về nước. Không ai khác, chính Nguyễn Trãi là tác giả của hình thức kết thúc chiến tranh hiếm thấy đó trong lịch sử chiến tranh phương Đông.
Hiệu quả của hành động kết thúc chiến tranh bằng tư tưởng nhân nghĩa ấy thật vô cùng to lớn: một trang sử mới hoà hiếu đã mở ra giữa hai nước An Nam – Trung Hoa và duy trì suốt hơn bốn trăm năm cho đến khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta vào nửa cuối thế kỉ XIX (trừ một giai đoạn rất ngắn quân Thanh kéo sang nước ta theo lời kêu gọi của Lê Chiêu Thống nhưng lập tức bị vua Quang Trung tiêu diệt).
Từ xưa đến nay, chỉ những bậc đại nhân đại trí như Nguyễn Trãi mới chọn nhân nghĩa (hay chủ nghĩa nhân đạo) làm nền tảng cho sự nghiệp của mình. Họ chủ trương giải quyết những vấn nạn của nhân loại trên cơ sở lương tri cao cả của con người. Đối lập với họ là bọn bạo chúa của các thời đại (như phái pháp gia đời Tần hoặc Thành Cát Tư Hãn và Hốt Tất Liệt thời Nguyên Mông…) – những kẻ chủ trương xây dựng sự nghiệp trên xương máu và thảm hoạ của muôn dân mà thi hào Nguyễn Du đã mô tả bằng một câu “Dãi thây trăm họ làm công một người”. Con đường nào đúng? Đó là một câu hỏi hóc búa đòi hỏi phải có những kiến giải tối ưu đặt ra cho những người muốn đi tìm chân lí của môn lịch sử.
Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy tư tưởng nhân nghĩa trong thời bình, khi ông phụng sự dưới hai triều Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông thông qua việc tổ chức triều chính, ban hành các chính sách kinh tế xã hội… Đằng sau các lệnh chỉ của vua, của triều đình, người đọc sử có thể thấy rõ mồn một cái hạt nhân trí tuệ và tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Ví dụ các lệnh chỉ sau đây: tiến cử và tự tiến cử hiền tài; sát hạch trình độ của các quan văn võ trong toàn quốc; cấm rượu chè cờ bạc; đào tạo các con quan văn võ tại Trường quốc học; phân chia ruộng đất cho tất cả mọi người, từ quan đại thần đến người cùng đinh, đàn bà goá, trẻ mồ côi; cho phép các ngôn quan được dâng sớ vạch rõ những sai lầm khiếm khuyết của vua, đàn hặc những sai trái của các quan; cấm quan lại không được mở rộng đất đai ngoài mức triều đình qui định v.v…
Trong sớ tâu với vua Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi đã viết một câu bất hủ: “Xin bệ hạ yêu muôn dân để cho tận chốn thôn cùng xóm vắng không còn nghe thấy tiếng ta thán, thế mới là không mất cái gốc của nhạc”.
Những đóng góp của Nguyễn Trãi – nhà tư tưởng, nhà chính trị kiệt xuất, bậc hiền tài quốc gia – đã giúp cho triều đại Hậu Lê tiến bộ vượt bậc và đạt tới cực thịnh vào đời Lê Thánh Tông. Nguyễn Trãi xứng đáng sánh ngang với các nhà chính trị lỗi lạc của mọi thời đại.
NGUYỄN TRÃI – MỘT NHÂN CÁCH VĨ ĐẠI
Ngoài những cống hiến vô cùng lớn lao cho đất nước, Nguyễn Trãi được toàn thể dân tộc tôn vinh còn vì nhân cách cao cả của ông.
Con người có nhân cách là người biết tự trọng, quyết chí tu thân, có lí tưởng sống cao đẹp và suốt đời hành động theo lí tưởng đó.
Ngay từ khi còn rất trẻ, Nguyễn Trãi đã mang nặng hoài bão nhập thế giúp đời. Thiên tài của ông đã may mắn gặp được bậc minh quân, được trọng dụng trong công cuộc vĩ đại: đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại nền thái bình thịnh trị cho đất nước. Ông đã hào hứng viết:
Xoay đời, trời sáng sinh vua giỏi, Gặp bạn, hùm thiêng nổi gió tài.(Đề gươm)
Tài năng và nhân cách của ông đã làm nên hình tượng người anh hùng của thời đại chống ngoại xâm.
Nhưng nhân cách ông càng thực sự sáng ngời trong những nghịch cảnh của đời ông diễn ra giữa thời bình nhưng đầy dẫy phiền lụy của một triều đại phong kiến. Ngay dưới triều Lê Thái Tổ, do những lời sàm tấu của lũ quan lại trong triều (vu cho ông tội âm mưu nổi loạn, cướp ngôi!), ông đã bị nhà vua hạ ngục. Trong nghịch cảnh ấy, ông đã nén lòng uất hận, đã đặt bi kịch cá nhân mình xuống dưới sự nghiệp lớn lao của nhà Hậu Lê, dưới nền thái bình của xã tắc:
Trung côi, ghét lắm, bao đau xót, Hoạ thực danh hư khéo nực cười. … Trong lao “độc bối” cam mang nhục, Cửa khuyết làm sao tỏ khúc nhôi?(Than nỗi oan) – Thạch Can dịch
Mang cốt cách đại trượng phu, Nguyễn Trãi không bao giờ thoả hiệp, về hùa với những tà kiến của một số triều thần. Vì vậy, ông trở thành cái gai trước mắt họ. Bị họ bài xích, cuối cùng ông đành phải xin vua Lê Thái Tông cho về trí sĩ ở Côn Sơn (những năm 1437 – 1438). Lâm vào một nghịch cảnh mới, ông đã xử sự như thế nào?
Trước hết, ông nhận thức được “trong cái rủi có cái may”! Vì bị xua đuổi mà ông có được một dịp tốt nhất để chính mình chiêm nghiệm cuộc sống ẩn cư, từng được coi là điều tuyệt thú của bao hiền sĩ đời xưa, trong đó có ông ngoại của ông là Trần Nguyên Đán. Không chịu để cho bi kịch của cuộc sống thế tục đè bẹp, ông vươn lên tầm cao, hoà nhập vào đại tự nhiên cực kì diễm lệ. Hình ảnh của ông khác nào một tiên ông, một thánh nhân giữa núi non, mây nước, cây cỏ, chim muông:
Đủng đỉnh chiều hôm giắt tay, Trông thế giới phút chim bay. Non cao non thấp mây thuộc, Cây cứng cây mềm gió hay…hoặc:
Thiêu hương đọc sách quét con am Chẳng bụt chẳng tiên ắt chẳng phàm. Ánh cửa trăng mai lớp lớp, Kề song gió trúc nồm nồm…Trong những hoàn cảnh đặc biệt, người ẩn sĩ quay lưng lại với cuộc đời, khẳng định bản lĩnh và phẩm chất cá nhân của mình. Xét theo tinh thần của chủ nghĩa nhân bản, đó là một biểu hiện không những hợp lí mà còn tuyệt đẹp nữa. Vì vậy mà những ẩn sĩ như Bá Di, Thúc Tề, Sào Phủ, Hứa Do, Lã Vọng, Khổng Minh, Nghiêm Quang hay bọn “bát tiên”, “lục dật” ở Trung Hoa, hoặc Trần Nguyên Đán, Nguyễn Bỉnh Khiêm, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Khuyến ở Việt Nam… đã đi vào huyền thoại và trở thành điển cố.
Nguyễn Trãi đã nhiều lần khẳng định mình sau khi ông đã giải quyết xong bài toán hành – tàng, xuất – xử:
Ngán vòng thế tục thân danh hão, Quẳng cái phù sinh giấc mộng hờ. Tính khí một đời nguyên nếp cũ, Lênh đênh há giảm chí hào xưa!(Đêm đậu thuyền ở cửa Lâm)
– Ngô Linh Ngọc dịch
Ngoài năm mươi tuổi, ngoài chưng thế, Ắt đã tròn bằng nước ở bầu.
hoặc:
Non lạ nước thanh làm náu, Đất phàm cõi tục cách xa. Cốt lạnh hồn thanh chăng khứng hoá (không chịu đổi).Vận dụng triết lí Lão – Trang, sống thoát tục, Nguyễn Trãi càng nhận thức sâu sắc một chân lí của muôn đời:
Dưới công danh đeo khổ nhục, Trong dầu dãi có phong lưu.Và ông hướng tới một lí tưởng mới: nếu không còn điều kiện để làm một quốc sĩ thì hãy làm một con người thật sự trong sạch và thánh thiện. Đó không phải là điều đáng mơ ước cho chúng sinh trong vòng ô trọc sao:
Phú quí chẳng tham, thanh tựa nước.Tuy nhiên, đặc tính của một nhân cách lớn là tối kị lối sống “hư sinh” (sống thừa). nguyễn Trãi chính là biểu hiện rực rỡ của cái chân lí về người quân tử mà Kinh Dịch đã nói: “Trời chuyển vần mãnh liệt, quân tử cũng tự tạo sức mạnh mà không ngừng nghỉ.” (Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức). Trong thời gian ở ẩn tại Côn Sơn, ông đã làm bao nhiêu việc lớn lao vĩ đại, không hề thua kém việc ông tham gia kháng chiến chống Minh trước đó: tu thân, tìm ra triết lí sống mới, tổng kết những bài học về thế sự và nhân sinh, viết sách giáo khoa luân lí đạo đức, và sáng tạo cả một công trình vĩ đại về thi ca Hán – Nôm.
Ông hiểu thấu rằng luân lí, đạo đức, thuần phong mĩ tục… là nền tảng cho đời sống hạnh phúc lâu dài của con người. Vì vậy, ông đã trước tác một tác phẩm chuyên về luân lí đạo đức mang tên Bảo kính cảnh giới (Gương quí răn mình) trong đó ông đúc kết nên những khuôn vàng thước ngọc của nền đạo đức dân tộc. Những bài “đức dục” ấy của ông, trải qua năm sáu trăm năm, đến nay dường như vẫn còn nóng hổi và sát thực với chúng ta:
– Kết bạn, mạ (chớ) quên người cố cựu, Yên nhà nỡ phụ vợ tao khang? – Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược, Có nhân có trí có anh hùng. – Cơm ăn miễn có, dầu thô bạc, Áo mặc âu chi quản cũ đen. – Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền, Cành bắc cành nam một cỗi nên. Ở thế nhịn nhau muôn sự đẹp… – Của thết người là của còn, Khó khăn, phải đạo cháo càng ngon. – Bất nhân vô số nhà hào phú, Của ấy nào ai từng được chầy (lâu)? – Sắc là giặc, đam làm chi? Trụ mất quốc gia vì Đát Kỉ Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi…Không hề giáo điều với chủ nghĩa ẩn cư, khi được ông vua trẻ Lê Thái Tông mới lên ngôi mời ra giúp việc triều đình, Nguyễn Trãi lại vui vẻ “nhập thế”. Ông lại lao vào một cuộc chiến đấu mới hết sức gay go. Khi ấy nhà vua còn trẻ, lười học hành, ham chơi bời, sớm vướng víu chuyện thê nhi… Triều chính lục đục, nhất là chuyện phế lập thái tử, chuyện rắc rối giữa các bà phi… Với trách nhiệm của một bậc lương thần, ông ra sức chèo chống để hạn chế những hành động sai quấy của cả vua lẫn bọn quan lại trong triều. Chính vì vậy, ông trở thành tảng đá cản dòng đối với bọn gian thần. Cuối cùng, chúng lợi dụng cái chết đột ngột của Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên, vu cáo ông âm mưu giết vua và khép ông vào cái án tru di tam tộc!
Thảm hoạ và cái chết của Nguyễn Trãi phải được nhìn nhận như một hành vi tuẫn đạo của một bậc đại hùng đại đức, của một nhân cách vĩ đại. Nhân cách ấy vượt lên trên tầm của thời đại nhiễu nhương bấy giờ và hướng tới sự tất thắng của chân lí, đúng như những câu thơ ông viết:
Văn như vị táng dã quan thiên.(Văn không tàn lụi cũng do trời)
Là một khai quốc công thần và đại thần của triều Hậu Lê, Nguyễn Trãi có thể dễ dàng đạt được tột đỉnh của vinh hoa phú quí, vậy mà ông đã khước từ tất cả và cuối cùng phải hi sinh đến ba họ chỉ vì chân lí, vì nhân nghĩa, vì nhân dân. Nhân cách cao thượng, trong sáng của ông quả có thể sánh với mặt trăng mặt trời.
NGUYỄN TRÃI – NHÀ VĂN HÓA VĨ ĐẠI
Từ xưa, loài người đã từng sản sinh ra một mẫu người vô cùng hiếm hoi: mẫu nhân tài bách khoa như Léonard de Vinci (1452 – 1519). Nguyễn Trãi của Việt Nam thuộc mẫu người đó. Ông đồng thời là nhà chính trị lỗi lạc, nhà bác học và nhà thơ vĩ đại. Ông nghiên cứu và có nhiều trước tác thuộc nhiều lĩnh vực của tự nhiên và xã hội như: quân sự (Quân trung từ mệnh tập), địa lí (Ức Trai dư địa chí), lịch sử (Lam Sơn thực lục), điển phạm của triều đình (Giao từ đại lễ), pháp luật của quốc gia (Luật thư – tác phẩm sau này được Lê Thánh Tông sử dụng làm nội dung căn bản của bộ luật vĩ đại: Bộ luật Hồng Đức), âm nhạc (ông là người tổng kết âm luật nhạc dân tộc để soạn ra quốc nhạc, chế định các nhạc cụ của ban nhạc triều đình, là tác giả chế tạo khánh đá), văn học (gồm cả văn và thơ chữ Hán và chữ Nôm).
Trong luận văn này, chúng tôi xin đi sâu trình bày về sự nghiệp thơ văn Hán và Nôm kì vĩ của ông.
Nguyễn Trãi là cây đại thụ toả bóng rợp ngàn năm cho hậu thế. Trước ông, thơ nôm đã xuất hiện và còn để lại chứng tích ở đời Trần với Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An, Trần Quí Khoáng, Nguyễn Biểu… (hầu hết tác phẩm của họ đã thất truyền). Những tác phẩm còn sót lại được viết khá bóng bẩy nhưng vẫn còn mang nặng khuôn sáo thơ cổ điển Trung Hoa.
Thơ quốc âm của Nguyễn Trãi là di sản quí báu nhất của thời kì sơ khai nền văn học dân tộc. Ông chính là một trong những “ông tổ thơ nôm” đã đặt nền móng cho nền thơ ca thành văn của dân tộc sẽ phát triển không ngừng ở các thời đại sau.
Kì tích đầu tiên của Nguyễn Trãi với thơ nôm là việc ông nhận thức được giá trị và chú tâm khai thác vốn từ ngữ của Tiếng Việt, một ngôn ngữ có đặc tính đẹp đẽ, tinh tế, biểu cảm, giàu tính tượng hình và thượng thanh, giàu âm điệu… Ông đã chọn lọc, sáng tạo thêm và sử dụng chúng trong thơ với tư cách là những từ ngữ văn học nôm đích thực như: quẩy trăng, ngại bước, thu lành lạnh, nguyệt chênh chênh, cây rợp, dửng dưng ca, hớp nguyệt, nguyệt hiện, thanh tựa nước, chim kêu cá lội, hoa xảy động, nguyệt đeo về, tổ ong tàng, núi láng giềng, mây khách khứa, say mùi đạo, đầy qua nóc, nặng với then, nắng quáng, cây im thưa thớt, gió khoan khoan đến, tơ vết, mồ hoang cỏ lục, cài lướt then, chân đi đủng đỉnh, vận xênh xang, nước biếc non xanh, đêm chờ hương quế, ngày lệ bóng hoa, nguyệt một vầng, thu vàng, tuyết bạc, ngàn núi xanh, nguyệt ba canh, lao xao chợ cá, dắng dỏi cầm ve, phơ phơ đầu bạc, leo lẻo doành xanh …
Ông cũng mạnh dạn chuyển ngữ sang tiếng Việt nhiều từ ngữ, thành ngữ gốc tiếng Hán để cho người Việt dễ hiểu như: tường đào ngõ mận, câu quạnh cày nhàn, đạp áng mây, tấc lòng ưu ái, câu mầu, non lạ nước thanh, biển hiểm, ẩn cả, ba thân, hỏi trăng, cả dùng, cởi buồn, dưỡng dỗ, đi nghỉ, lòng thế…
Một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trãi là việc thay thế những câu 7 âm tiết trong thơ Đường Trung Hoa thành những câu 6 âm tiết trong thơ nôm:
Góc thành nam lều một gian, No nước uống thiếu cơm ăn. Con đòi trốn dường ai quyến, Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn…Không chỉ là bậc thầy sử dụng và sáng tạo ngôn ngữ thơ nôm, Nguyễn Trãi còn tỏ rõ ông là nhà thơ nôm thiên tài của dân tộc. Những nhà thơ lớn nhất của các thời đại sau, xét theo quan điểm lịch sử, không ai có thể vượt nổi ông.
Hầu hết thơ tả cảnh của ông đều là những kiệt tác. Có những câu thơ cực kì tài tình khiến những nhà thơ hiện đại phải kinh ngạc, khâm phục như:
– Tà dương bóng ngả áp giang lâu, Thế giới đông nên ngọc một bầu. – Cửa song dãi xâm hơi nắng, Tiếng vượn vang kêu cách non. Cây rợp tán che am mát, Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn. Cò nằm hạc lặn nên bầy bạn Ủ ấp cùng ta làm cái con. – Đủng đỉnh chiều hôm giắt tay Trông thế giới phút chim bay. Non cao non thấp mây thuộc, Cây cứng cây mềm gió hay. – Trà tiên nước kín, bầu in nguyệt, Mai rụng hoa đeo bóng cách song. Gió nhặt đưa qua ổ trúc, Mây tuôn phủ rợp thư phòng. – Phơ phơ đầu bạc ông câu cá, Leo lẻo doành xanh con mắt mèo. – Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.Những câu thơ như vậy đâu có thua kém những câu tuyệt tác nhất của thơ Đường Trung Hoa hay của bất kì một nền thơ ưu tú nào trên thế giới? Phải chăng đây đích thực là thứ thơ mà người đời gọi là thơ tiên?
Thơ tả tình của Nguyễn Trãi cũng tài hoa không kém: những rung động tinh tế nhất của tâm hồn nhà thơ thời xưa được diễn tả một cách thần tình:
– Loàn đơn (liều lĩnh) ướm hỏi khách lầu hồng: Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng! Ngoài ấy dù (nếu) còn áo lẻ, Cả lòng (rộng lòng) mượn đắp lấy hơi cùng! – Xuân xanh chưa dễ hai phen lại, Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên. – Vì ai cho cái đỗ quyên kêu? Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu. Lại có hoè hoa chen bóng lục, Thức xuân một điểm não lòng nhau…Bằng thơ nôm, Nguyễn Trãi đã diễn đạt được một cách sắc sảo và đầy rung cảm thế giới tâm tư phong phú, phức tạp, nhiều uẩn khúc của ông: những khát vọng, tâm sự ưu thời mẫn thế, những nỗi đắng cay và cả nỗi buồn được chế ngự bởi cốt cách của một bậc đại trượng phu, một vị đại ẩn sĩ:
– Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải, Góc thành nam lều một gian. – Quân thân chưa báo lòng canh cánh, Tình phụ cơm trời, áo cha! – Bạn cũ thiếu, ham đèn mấy sách, Tính quen chăng, kiếm trúc cùng mai? – Liệu cửa nhà xem bằng quán khách, Đem công danh đổi lấy cần câu. – Lòng một tấc son còn nhớ chúa, Tóc hai phần bạc bởi thương thu. – Cội cây là đá lấy làm nhà, Lân các, ai hầu mạc (vẽ) đến ta? – Say mùi đạo, trà ba chén, Tả lòng phiền, thơ bốn câu. – Giang sơn cách đường ngàn dặm, Sự nghiệp buồn đêm trống ba. – Tuổi cao tóc bạc, cái râu bạc, Nhà ngặt (nghèo) đèn xanh con mắt xanh. – Lòng người một sự yêm (chán) chưng một, Đèn khách mười thu lạnh hết mười! – Bui một tấc lòng ưu ái cũ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông…Thật diệu kì: những dòng tâm sự hàm chứa những nỗi đau buồn sâu xa ấy, đã sáu trăm năm rồi mà nay đọc lại, những kẻ hậu sinh nặng lòng thương xót vĩ nhân vẫn còn sa lệ!
Bằng khối óc mẫn tuệ của nhà hiền triết và sự trải đời ít ai sánh được, Nguyễn Trãi đã đúc kết trong thơ nôm rất nhiều triết lí thâm thúy. Một điều đặc sắc là thơ triết lí của ông không khô khan mà giàu cảm xúc nghệ thuật, khi đọc lên nghe tựa như những lời cảm thán với nhân tình thế thái:
– Dưới công danh đeo khổ nhục, Trong dầy dãi có phong lưu. – Có thân chớ phải (bị) lợi danh vây. – Nếu có ăn thì có lo, Chẳng bằng cài cửa ngáy pho pho. – Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc, Cho hay đường lợi cực quanh co! – Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn, Lòng người quanh nữa nước non quanh. – Sang cùng khó bởi chưng giời, Lăn lóc làm chi cho nhọc hơi? – Con cháu chớ hiềm (ngại) song viết (cơ nghiệp) ngặt (nghèo) Thi thư thực ấy báu ngàn đời. – Chỉn sá (rất nên) lui mà thủ phận. – Ngựa ngựa xe xe la ỷ (lụa là) tốt, Dập dìu là ấy chiêm bao. – Phượng những tiếc cao, diều hãy lượn, Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi. – Mã (chớ) trách thế gian lòng đạm bạc, Thế gian đạm bạc, đấy lòng thường!Mang tầm vóc của một bậc thánh sư, Nguyễn Trãi đã dùng thơ nôm để truyền đạt đến đồng bào của ông những triết lí sống có giá trị nhất, đã góp phần đắc lực xây dựng nền đạo đức và nếp sống văn hoá của dân tộc ta trong thế kỉ XV mà ý nghĩa của nó sẽ được các thời đại sau kế tục.
Nguyễn Trãi là một trong những người khai sáng nền thơ nôm thành văn của dân tộc ta. Đồng thời, với thiên tài thi ca, ông trở thành nhà thơ tiếng Việt (thơ nôm) vĩ đại hàng đầu trong làng thơ Việt Nam kim cổ, là bậc thầy thơ nôm của tất cả nhà thơ các thời đại sau.
Không những là thi hào thơ nôm, Nguyễn Trãi đồng thời là văn thi hào chữ Hán lỗi lạc, để lại uy danh muôn thuở.
Bình Ngô đại cáo của ông đuợc coi là một áng “thiên cổ hùng văn”, một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài “Nam quốc sơn hà…” của Lí Thường Kiệt, đã làm phấn chấn tâm hồn người Việt suốt hơn 5 thế kỉ rưỡi qua.
Bài cáo nêu bật lí tưởng cứu nước cứu dân, tinh thần nhân nghĩa, trí tuệ, khí phách và ý chí dời non lấp biển của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Bằng lối văn biền ngẫu đặc trưng của văn chương cổ điển, bằng giọng văn khi lâm li khi hùng tráng, tác giả đã trình bày cặn kẽ lịch trình của cuộc kháng chiến, ca ngợi chiến thắng vô cùng hiển hách của dân tộc ta:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Từ Triệu – Đinh – Lí – Trần nối đời dựng nước, Cùng Hán – Đường – Tống – Nguyên hùng cứ một phương. Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt không bao giờ thiếu. … Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, Lấy chí nhân thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay… Nó trí cùng lực kiệt, chờ chết bó tay, Ta mưu phạt tâm công, không chiến cũng thắng. … Nó đã tham sống sợ chết, thực bụng cầu hoà, Ta coi toàn quân là hơn, để dân nghỉ sức. … Xã tắc do đó vững bền, Non sông từ đây đổi mới…(Bản dịch trong Đại Việt sử kí toàn thư)
Thư lại dụ hàng Vương Thông… Nay các ông kế cùng sức tận, quân sĩ mỏi mệt, trong thiếu lương thực, ngoài thiếu viện binh, bám hờ khu đất nhỏ mọn, nghỉ tạm ở cái thành trơ trọi, chẳng phải như thịt trên thớt, như cá trong nồi đó sao? … Nay ta tính hộ các ông có sáu điều phải thua: – Nước lụt chảy, tường rào đổ sập, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất. – Nay những nơi quan ải hiểm yếu đều có quân và voi ta đồn giữ, nếu viện binh đến, thế tất phải thua, mà viện binh đã thua thì các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai. – Nước các ông quân mạnh ngựa tốt đều đóng cả ở đất Bắc phòng bị quân Nguyên, không rỗi ngó đến miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba. – Nước các ông luôn động can qua, liên tiếp gây sự đánh dẹp làm cho người ta sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư. – Nước các ông gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, mối hoạ bùng ra từ trong nhà. Đó là điều phải thua thứ năm. – Chúng ta dấy nghĩa binh trên dưới cùng lòng, anh hùng dốc sức, quân sĩ ngày càng luyện, khí giới ngày càng tinh, vừa cày ruộng lại vừa đánh giặc. Đó là điều phải thua thứ sáu. Nay các ông giữ một cái thành cỏn con để chờ sáu điều thất bại, tôi lấy làm tiếc cho các ông lắm!…
Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là thơ ở đỉnh cao, không thua thơ Đường, Tống. Cùng với những cây bút thơ chữ Hán cự phách của Việt nam như Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến…, thơ của ông đã góp phần quan trọng tạo dựng một nền thơ chữ Hán kì vĩ trong quá khứ trên đất nước ta.
Vì sao tổ tiên ta lại dùng chữ Hán để viết văn, làm thơ về những đề tài hoàn toàn thuộc đất nước và dân tộc ta? Theo thiển ý của chúng tôi, đó không phải một điều đáng mừng, đáng hoan nghênh như quan điểm của những đầu óc thiếu khả năng phán đoán và nắm bắt chân lí. Bởi còn gì tuyệt diệu hơn là dùng chính Tiếng Việt – tiếng mẹ đẻ – để viết tác phẩm cho tất cả người Việt cùng nghe, cùng hiểu, không phải thông dịch? Do đó, việc phải tiếp tục dùng chữ Hán để trước tác văn chương cũng như dùng làm văn tự chính thức trong bộ máy hành chính quốc gia suốt bao nhiêu thế kỉ tự chủ (sau thời Bắc thuộc), chỉ là việc “không thể nào khác được” của dân tộc ta mà thôi. Trong một nghìn năm Bắc thuộc, bọn thống trị phương Bắc muốn biến nước ta thành quận huyện của Trung Hoa. Vì vậy mà chữ Việt cổ bị tiêu diệt, tiếng Việt bị khinh rẻ, bị gạt ra ngoài, Tiếng Hán (dưới dạng âm Hán – Việt) và chữ Hán đương nhiên giữ địa vị độc tôn. Phải mất vài thế kỉ của thời đại tự chủ, người Việt mới chế tác ra chữ Nôm để ghi chép tiếng Việt, bổ khuyết một lỗ hổng lớn của nền văn hóa dân tộc.
Trong hoàn cảnh “bất khả kháng” đó, Nguyễn Trãi cũng như các trí thức phong kiến khác, đã nhạy bén dùng chính chữ Hán để trước tác nên những tác phẩm thuộc đủ mọi lĩnh vực mang nội dung hoàn toàn Việt Nam. Và điều vô cùng đáng tự hào là những trước tác đó đã đạt tới trình độ tương đương với những trước tác chính cống của Trung Hoa. Chúng tôi xin trích dẫn một kiệt tác thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi:
Bạch Đằng hải khẩuSóc phong xuy hải khí lăng lăng, Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng. Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc, Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng. Quan hà bách nhị do thiên thiết, Hào kiệt công danh thử địa tằng. Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ, Lâm lưu phủ ý cánh nan thăng.
Cửa biển Bạch Đằng
Biển rung gió bấc thế bừng bừng, Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đằng. Kình ngạc băm vằm non mấy khúc, Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng. Quan hà hiểm yếu trời kia đặt, Hào kiệt công danh đất ấy từng. Việc trước quay đầu ôi đã vắng, Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.]
Nguyễn Đình Hổ dịch
Nội dung thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi cũng phong phú như thơ nôm của ông: Có bài hùng hồn giống như Bình Ngô đại cáo (ví dụ bài thơ trên), có bài mô tả thiên nhiên tuyệt mĩ:
Yên Sơn sơn thượng tối cao phong, Tài ngũ canh sơ nguyệt chính hồng. Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại, Tiếu đàm nhân tại bích vân trung…(Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự)
[Trên dải Yên Sơn đỉnh tuyệt vời, Đầu canh năm đã sáng trưng rồi. Mắt ngoài biển cả ôm trời đất, Người giữa mây xanh vẳng nói cười…]
Khương Hữu Dụng dịch
Có nhiều bài hàm chứa những tâm sự thẳm sâu, những nỗi đau đời của một con người vô cùng cao thượng nhưng lại phải trải qua bao cảnh thăng trầm giữa cuộc đời điên đảo:
Phù trục thăng trầm ngũ thập niên, Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên. Hư danh thực hoạ thù kham tiếu, Chúng báng cô trung tuyệt khả liên!(Oan thán)
[Biển tục thăng trầm nửa cuộc đời, Non xưa suối đá phụ duyên rồi. Trung côi, ghét lắm, bao đau xót, Hoạ thực danh hư khéo nực cười!]
Thạch Can dịch
Nguyễn Trãi từng có một nhận định sâu sắc: “Nước ta tuy ở xa ngoài Ngũ lĩnh, nhưng từ xưa đã nổi tiếng là một nước thi thư”. Ở thời đại ông, những tinh hoa của cái thi thư ấy kết tinh nơi ông, và ông có niềm tin sắt đá vào sự bất diệt của nó. Chính vì vậy mà khi lâm nạn, bị Lê Thái Tổ hạ ngục năm 1429, ông viết:
Số hữu nan đào tri thị mệnh,
Văn như vị táng dã quan thiên.
(Số khó lọt vành âu bởi mệnh, Văn chưa tàn lụi cũng do trời)
Nguyễn Trãi đã mang niềm tin ấy để ung dung đi vào cõi vĩnh hằng. Thiên ở đây là gì? Là chân lí vĩnh cửu.
Lịch sử đã chứng minh hùng hồn chân lí vĩnh cửu mà ông hằng ôm ấp. Sự nghiệp vĩ đại của ông về chính trị, quân sự, văn chương, và phẩm cách cao cả, danh hiệu “anh hùng dân tộc” của ông ngày nay đã được toàn dân tộc ta xác nhận, tôn thờ. Không chỉ thế, vào năm 1980, nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông, ông đã được cả loài người tôn vinh là danh nhân văn hoá thế giới.
Dân tộc ta xiết bao tự hào đã sản sinh ra một con người toàn thiện làm vẻ vang cho đất nước và dân tộc!
Ở Trung Hoa, những tác phẩm văn hoá lớn của các bậc thánh hiền được gọi là những bộ KINH như: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.
Thiết nghĩ toàn bộ trước tác bất hủ của Nguyễn Trãi rất xứng đáng với tầm vóc và danh hiệu một bộ KINH của người Việt để toàn dân tộc học tập, nghiền ngẫm trên con đường đi tới tương lai. Đó cũng chính là sự trả lời của hậu thế với câu hỏi da diết của ông:
Hậu học thùy tương tác chuẩn thằng? (Mực thước người sau học nữa chăng?)Nguồn: http://newvietart.com
‘Tục Ngữ Phong Dao’: Di Sản Văn Hóa Dân Gian Của Dân Tộc Việt
Bộ sách “Tục ngữ phong dao” dù ra đời đã lâu, đến nay vẫn được phổ biến rộng rãi, được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu và viết về tục ngữ ca dao Việt Nam.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội năm 1988: Tục ngữ là câu ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của nhân dân; phong dao là những bài ca dao cổ.
Những câu tục ngữ như “Tối như đêm ba mươi”, “Tiễn ông Táo lên chầu trời”, “No ba ngày tết, đói ba tháng hè”… đều đi sâu vào đời sống nhân dân, được truyền từ đời này sang đời khác. Cũng có nhiều câu nói dần bị mai một, rồi biến mất, đó là điều rất đáng tiếc.
Ý thức được việc gìn giữ di sản quý giá của dân gian, nhiều cuốn sách về tục ngữ phong dao đã được biên soạn, như An Nam phong thổ thoại của cụ Thiên Bản cư sĩ Trần Tất Văn; Thanh Hóa quan phong sử của cụ Vương Duy Trinh; Đại Nam quốc túy của cụ Sự Sự Trai Ngô Giáp Đậu; Tục ngữ An Nam của cụ Triệu Hoàng Hòa; Nam ngạn trích cẩm của Phạm Quang Sán; Gương phong tục của Đoàn Duy Bình; …
Tuy nhiên, những sách này được biên soạn hoặc không theo trật tự nào, hoặc đối nhau thì hai câu một, hoặc chia ra từng mục như trời đất, năm tháng, tiền của, văn học; hay từng thiên như Sơn Tây, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thừa Thiên; từng chương như Tống Sơn, Nga Sơn, Hoằng Mỹ, Hậu Lộc;… Trong thực trạng đó, Nguyễn Văn Ngọc vẫn ấp ủ và khao khát tập hợp di sản tục ngữ phong dao của Việt Nam thành một cuốn sách có hệ thống, có tác dụng lưu giữ cho tương lai.
Sách Tục ngữ phong dao được in lần đầu tiên tại Vĩnh Hưng Long thư quán, năm 1928. Cuốn sách tập hợp các sáng tác ca dao, tục ngữ, câu đố, câu đối…., được phân chia theo thể loại rõ ràng, mạch lạc. Trong mỗi thể loại, các bài lại được sắp xếp theo vần, trong mỗi vần lại được chia theo số chữ, vô cùng cẩn thận, tỉ mỉ, giúp độc giả dễ theo dõi.
Đầu năm 2023, cuốn sách được tái bản lại, với diện mạo mới, đồng thời bổ sung thêm những chú thích, dị bản, giúp độc giả có cái nhìn đa dạng hơn về một nền văn hóa dân gian đồ sộ của dân tộc.
Trong bản in mới, Tục ngữ phong dao được chia thành 2 tập. Tập 1 thuộc về thể phương ngôn, tục ngữ từ ba chữ đến hai mươi chữ; tập 2 thuộc về thể phong dao, từ bốn câu trở lên.
Tục ngữ phong dao có khoảng gần 6.500 câu và 850 bài, với gần 700 trang sách dày dặn, được xem là một kho vàng chung của nhân loại. Theo nhà nghiên cứu Lê Thanh Hiền, cuốn sách là “tập hợp đầu tiên những giá trị tinh thần do các thế hệ người lao động Việt Nam sáng tạo và truyền khẩu qua hàng nghìn năm, được sưu tầm, biên soạn nghiêm túc ấn thành văn bản”.
Việc tập hợp, biên soạn, hệ thống tục ngữ ca dao của Nguyễn Văn Ngọc, theo ông, “cốt ở một điều là cứ theo như cái phong trào có mới nới cũ ngày nay, ai là người đã lưu tâm đến quốc văn quốc túy mà không lo sợ rằng những câu lý thú tối cổ của ông cha để lại, mà tức là cái kho vàng chung cho cả nhân loại nếu không chịu mau mau thu nạp, giữ gìn lấy, thì rồi tất mỗi ngày một sai suyễn, lưu lạc đi thực rất là đáng tiếc. Cho nên chúng tôi quả không dám kén chọn lựa lọc, san Thi gì”.
Bởi kho tàng tục ngữ ca dao của dân tộc quá đồ sộ, đồng thời cũng có mong muốn tập hợp được càng nhiều càng tốt, nên ở cuốn sách, Nguyễn Văn Ngọc chú trọng và việc thu thập thật nhiều câu, có khi không phân biệt rõ ràng thế nào là thành ngữ, tục ngữ, lý ngữ, sấm ngữ, mê ngữ, phương ngôn, đồng dao, ca dao hay phong dao.
Tác giả cho rằng, “đối với công việc sưu tập bây giờ, thiết tưởng ta còn phải quý hồ đa trước rồi nhiên hậu mới có nơi khảo cứu mà quý hồ tinh được.”
Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục trong bài viết Triết học bình dân trong tục ngữ phong dao đã viết tục ngữ phong dao “phản chiếu một cách trực tiếp và trung thành những cảm nghĩ của nhân dân sinh sống hàng ngày trong nhân quần xã hội và tiếp xúc với cảnh vật trong hoàn cảnh thiên nhiên. Như vậy thì tục ngữ phong dao chứa đựng những kinh nghiệm thực tế, những lẽ phải phổ thông của dân tộc. Chúng còn có ý nghĩa hơn là ngôn ngữ nói chung, vì đó là những cảm nghĩ đã trải qua kinh nghiệm và suy luận của đại chúng. Nếu phân tích ngôn ngữ có thể tìm ra một triết lý bình dân Việt Nam, thì nghiên cứu tục ngữ phong dao càng làm cho ta thấy cái triết lý ở một trình độ cao hơn và phong phú hơn nhiều.”
Cũng bởi thế, việc sưu tầm, biên soạn và lưu giữ di sản tục ngữ phong dao của dân tộc là việc là có ý nghĩa quan trọng, “để vun trồng cho các học văn Việt Nam của tổ tiên xưa được chắc rễ, bền cây”, đồng thời góp phần phát triển ngôn ngữ Việt hiện đại đa dạng, phong phú.
Bộ sách Tục ngữ phong dao dù ra đời đã lâu, đến nay vẫn được phổ biến rộng rãi, được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu và viết về tục ngữ ca dao Việt Nam.
Nguyễn Văn Ngọc (1/3/1890 – 26/ 4 /1942) tự Ôn Như là nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam.
Nguyễn Văn Ngọc có lòng say mê đặc biệt với văn hóa, văn học phương Đông, nhất là văn hóa, văn học dân tộc. Ông cho ra đời nhiều cuốn sách bằng tiếng Hán, tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ. Ông tham gia biên soạn các sách giáo khoa như Phổ thông độc bản, Phổ thông độc bản lớp đồng ấu, Luân lý giáo khoa thư, Giáo khoa văn học An Nam, Đông Tây ngụ ngôn. Về khảo cứu, Nguyễn Văn Ngọc có Cổ học tinh hoa, Nam thi hợp tuyển, Đào nương ca, Truyện cổ nước Nam, Ngụ ngôn, Tục ngữ phong dao…
Triết Lý Dân Tộc Việt Nam Qua Tục Ngữ
Triết lý dân tộc Việt Nam qua tục ngữ
Võ Thu-Tịnh
Về ý nghĩa của tục ngữ, trong Việt-Nam văn-học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã nhận xét: “Các câu tục ngữ là do những điều kinh nghiệm của cổ nhân đã chung đúc lại, nhờ đấy mà người dân vô học cũng có một trí thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời… “. (1) Phạm Thế Ngũ, trong Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên đã ghi: “Tục ngữ là kho tàng kinh nghệm và hiểu biết của người xưa về vũ trụ cũng như về nhân sinh…. Có thể nói đó là một quyển sách khôn mở ngỏ và lưu truyền trong giới bình dân từ xưa đến nay.” (2) Tóm lại, theo các nhà biên khảo nầy thì các câu tục ngữ là một “quyển sách khôn, một kho tàng kinh nghiệm và hiểu biết về vũ trụ và về nhân sinh” giúp cho dân gian ta “có được một tri thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời”. Trong các tục ngữ của chúng tôi đã sưu tập, ngoài những câu nói về “mưu sinh” và “tâm lý người đời” ra (như canh nông, thời tiết, nghề nghiệp, phong tục, luân lý, lý sự đương nhiên…, mà ở văn chương truyền khẩu nước nào cũng có), thì phần nhiều là những câu về “cái biết”, về “cái khôn” của người đời, rồi đến những câu về “vũ trụ” (như đạo Trời, vận mệnh con người, Phật, tu hành, phúc đức…), về “nhân sinh” (như trung với vua, quan lại tham nhũng, các kinh nghiệm ứng xử khôn ngoan giữa xã hội với nhau). Chúng tôi nghĩ rằng đây là cẩm nang, là bản chúc thư của tiền nhân, truyền lại cho con cháu cả một “triết lý dân tộc” xây dựng trên cái “biết” và cái “khôn”, để cư xử cho đúng “đạo làm người”, theo “Lẽ Trời và Tình người”. Tuy tiền nhân không nói rõ ra, nhưng con cháu chúng ta phải hiểu rằng dụng ý của các Ngài không ngoài mục đích tối thượng là chỉ đường cho chúng ta “tranh đấu bảo tồn nòi giống, đất nước, chống xâm lăng cho khỏi bị đồng hóa, diệt chủng”. Các nhà Nho, các thành phần sang giàu, các thị dân có những sách vở của Nho giáo để căn cứ vào đấy mà ứng xử với nhau. Còn dân gian nông thôn không có chữ, nên trong sự giao thiệp, ứng xử thường ngày, chỉ căn cứ vào các câu tục ngữ, là kho tàng hiểu biết, khôn ngoan, kinh nghiệm mà tiền nhân đã truyền miệng lại cho chúng ta. Tục ngữ nước ta rất nhiều, không có một trường hợp nào mà dân gian không có thể dùng một vài câu tục ngữ để minh chứng cho thái độ, hành vi của mình. Ở bài Parémiologie viêtnamienne et comparée (“Tục-ngữ- học Việt Nam và đối chiếu”), học giả Thái Văn Kiểm có kể lại câu chuyện về công dụng của tục ngữ trong một việc tranh chấp giữa dân gian với nhau, tóm lược như sau:
“Trước đây có một lái buôn bán cho người Việt Thượng một cái áo bằng vải bông giá 50 đồng, trả được 30, còn thiếu 20 đồng, thì người Thượng bỏ lên núi không thấy quay lại thanh toán. Sau một thời gian khá lâu, người lái buôn gặp lại người Thượng xuống đi chợ, liền túm lấy dẫn đến viên cai trị người Pháp để kiện. Người Thượng nói áo mua, vải không tốt, không xứng 50 đồng, nay y chịu trả thêm 10 đồng nữa mà thôi. Còn người lái buôn nhất định đòi cho được 20. Viên cai trị Pháp xét việc cũng không có gì rắc rối, mà y lại nói tiếng Việt và tiếng Thượng thông thạo, thấy không cần gọi viên chức Việt đến giúp. Không ngờ suốt cả buổi mai y giải thích luật lệ, khuyên dụ đủ mọi cách, mà cả hai bên nguyên bị vẫn không ai chịu nghe theo. Cùng lắm, y cho gọi viên chức Việt đến. Viên chức Việt chỉ nói qua nói lại có mấy phút mà người lái buôn bằng lòng nhận 10 đồng. Viên cai trị Pháp lấy làm lạ, hỏi, thì viên chức Việt kể lại là đã dùng các câu thành ngữ, tục ngữ để nói với người lái buôn rằng: “Anh cho người Thượng mắc chịu như vậy cũng như “thả trâu vô rú”, nay được người Thượng bằng lòng trả thêm 10 đồng, là như “của đổ mà hốt” lại thôi. Xưa nay anh có thấy ai hốt của rơi lại cho đủ không? Ông bà ta thường nói: “gạo đổ lượm chẳng đầy thúng”. Bây giờ họ bằng lòng trả 10 đồng là được rồi, chớ bày chuyện kiện cáo vì tục ngữ ta có câu: “Ðược kiện mười bốn quan năm, thua kiện mười lăm quan chẳn”. Khôn dại, hơn thiệt thế nào, là một thương gia, anh hẳn thấy rõ.” Người lái buôn cho là phải, nên nghe theo.” (3)
1. Khôn dại trong thi ca
Vấn đề “khôn dại” rất quan trọng trong việc xử thế, cho nên trong văn thơ của các bậc thức giả xưa nay, vẫn thường thấy được nói đến. Từ thế kỉ thứ XV, Nguyễn Trãi, trong Quốc-âm thi tập, đã nêu lên vấn đề “khôn dại” nầy:
“Chẳng khôn chẳng dại, chỉ ương ương, “Chẳng dại người hòa (tất cả) lại chẳng thưong.”
Ðại ý nói rằng nếu ta chẳng chịu nhận là dại thì tất cả mọi người chẳng ai thương mình… Ðến thế kỉ thứ XVI, trong Bạch-Vân am quốc ngữ thi tập, Trạng Trình cũng phân biệt hai chữ “khôn dại” như sau:
“Khôn thì người dái (sợ, nể), dại thì thương, “Nhắn bảo bao nhiêu người ở thế, “Chẳng khôn đành dở, chớ ương ương.”
Nghĩa là: Khôn thì thật khôn cho người ta sợ, dại thì rõ ràng dại đi cho người ta thương, nếu không khôn được thì đành chịu dại, chớ không nên ương ngạnh. Vào cuối thế kỉ thứ XIX, khi người Pháp bắt đầu đặt quyền thống trị ở nước ta, Nguyễn Khuyến cáo bệnh từ quan, làm ra vẻ ngây ngô để khỏi bị ép ra làm việc lại. Ở Nam Ðịnh thời bấy giờ, có một người đàn bà tên là Mẹ Mốc, chồng đi mất tích (có thuyết cho là theo kháng chiến), bà giả điên giả cuồng và hủy hoại nhan sắc để khỏi bị chọc ghẹo. Nguyễn Khuyến thấy tâm sự của bà giống với tâm sự của mình, nên cảm tác ra một bài hát nói, có câu kết như sau:
“Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ, “Ðắp tai, ngảnh mặt làm ngơ, “Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây. “Khôn kia dễ bán dại nầy…” (4)
Rồi đến đầu thế kỉ thứ XX, Trần Thế Xương cũng than lên:
“Thiên hạ đua nhau nói dại khôn, “Biết ai là dại, biết ai khôn? “Khôn nghề cờ bạc là khôn dại, “Dại chốn văn chương, ấy dại khôn…”
Vấn đề “khôn, dại” nầy, từ thời xa xưa, ở Trung Hoa, Khổng Tử (551- 479 t.T.L.) cũng đã nêu ra để giảng dạy cho các môn đệ, rằng: “Ninh Võ Tử, khi trong nước có đạo lý thì ông ta tỏ ra có tài trí (để ra làm việc), nhưng gặp khi chính quyền vô đạo, thì ông làm như ngu dại (để khỏi bị ép ra cọng tác, tiếp tay với quân cường bạo sát hại nhân dân). Cái khôn của ông nhiều người làm được, đến như cái ngu của ông thì không mấy ai bì kịp.” (5)
2. Khôn dại trong tục ngữ
Trong các câu tục ngữ của ta, dân gian đã nói nhiều về “khôn” dại”, và đặc biệt, cũng có một câu giống như các câu thơ của Nguyễn
“Khôn cho người dái (nể, sợ), dại cho người thương “Dở dở ương ương, tổ cho người ta ghét.”
Nhưng vì sao dân ta cho rằng cần phải phân biệt dứt khoát “khôn”, “dại” như thể Nguyên là trải qua bao thế kỉ, dân tộc Việt thường xuyên phải chọn lựa giữa hai con đường: Ðầu hàng, cọng tác với địch, hay kháng chiến chống lại với ngoại xâm và bạo quyền độc tài tàn ác. Con đường nào là khôn? Con đường nào là dại? Nhưng khôn hay dại, thường bị các thành kiến chủ quan thiên lệch của người đời chi phối. Lắm khi, điều mà ta cho là khôn, thì người khác lại cho là dại, hay ngược lại, như trong cổ tích “Trâu rừng với trâu nhà”: “Trâu rừng chê trâu nhà là dại, vì để cho chủ bắt làm việc cực nhọc, rồi cuối cùng cũng bị chủ làm thịt, và cho mình là khôn vì đã chọn cuộc sống tự do, không bị cưỡng bách lao lực. Còn trâu nhà thì chê lại trâu rừng là dại, vì ở rừng bị đói khát, nhất định có ngày sẽ bị beo cọp ăn thịt, và cho mình là khôn vì thường ngày có cỏ để ăn, có nhà để ở, khỏi bị dãi dầu mưa nắng, khỏi bị thú dữ sát hại. Bên nào cũng tự cho mình là khôn hơn bên kia, và cảnh cáo lẫn nhau: “Khôn thì sống, mống (dại) thì chết”. (Truyện cổ nước Nam, Nguyễn Văn Ngọc, tập 2, tóm lược truyện số 28). Trong suốt bao nhiêu thế kỉ bị ngoại thuộc hay hay bị kềm hãm dưới các chế độ bạo ngược, cái “khôn thật”, “khôn giả”, và cái “dại thật”, “dại giả” thường bị lẫn lộn với nhau. Tuy vậy, dân gian không phải là không phân biệt được, song không dám nói rõ ra, mà trái lại, thường còn làm như dại khờ không biết đến. Cũng như Nguyễn Khuyến, dân gian đã có câu kín đáo tự hào rằng:
“Rù đầu, giả dại, làm ngây, “Khôn kia dễ bán dại nầy mà ăn !”
Văn-minh Việt-Nam, để giải thích thêm về vấn đề nầy:
“Làm thế nào khác hơn được? khi một dân tộc bị sống trong hoàn cảnh đe dọa diệt tộc thường xuyên, bởi một kẻ mạnh gấp trăm ngàn lần mình, ở ngay bên nách mình, nếu chẳng nghĩ tha thiết đến sự sống còn, đến con cái nối nghiệp, thì chỉ sơ sẩy để đầu óc viễn vông một chút thôi, cũng đủ mất tích vào trong bản đồ của địch thụ Cho nên Trạng Trình, một vị hiền triết được dân chúng kính trọng là có tài tiên tri, đã chỉ dạy có một điều rất gọn:
“Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”.
Biết tương quan lực lượng giữa mình và người, biết tâm lý khát vọng giữa mình và người, biết dằn lòng chờ cơ hội thuận tiện để thực hiện ý định, biết giả dối để che đậy bí mật hành động cho khỏi hại, biết cương quyết tiến lui, biết cứng mềm tùy lúc, biết thích ứng hoàn cảnh để sống còn, biết lẩn tránh mũi dùi của địch… toàn là những cái biết rất thực tế, có thể kiểm điểm lại qua mọi sự kiện lịch sử, và có thể thấy rất rõ ràng là chính nhờ cái biết ấy mà nước Việt Nam chúng ta còn được tới ngày nay”. (6) “Khôn cũng chết ” như Trạng Trình nói, đó là cái “khôn giả”; và “dại cũng chết ” như Trạng Trình nói, đó là cái “dại thật”. Chỉ ai biết phân biệt được “khôn thật” với “khôn giả”, “dại thật” với “dại giả”, thì mới có thể sống được mà thôi. Cũng như Trạng Trình, tục ngữ đã kết thúc rằng:
“Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống.”
Xem như thế, “biết” là điều kiện chính yếu để biện biệt cái “khôn” với cái “dại”, giúp cho chúng ta có thể thực hiện được “đạo làm người”, giúp cho dân và nước Việt Nam chúng ta khỏi bị diệt vong.
Cho nên tưởng trước hết, chúng ta nên tìm hiểu qua các câu tục ngữ: “Biết là thế nào?” và “Khôn là thế nào?”
A) “Biết ” là thế nào ?
1 – Biết là suy xét cho đúng phép: suy chín, xét xa, biết rõ gốc ngọn, vắn dài, đắn đo nặng nhẹ, nông sâu:
“Làm người suy chín, xét xa, “Cho tường gốc ngọn, cho ra vắn dài”
…”Làm người phải đắn, phải đo, “Phải cân nặng nhẹ, phải dò nông sâu.”
Biết suy nghĩ rất quan trọng, cho nên dân gian thường nhắc đi nhắc lại cho chúng ta ghi nhớ rằng:
“Làm người mà chẳng biết suy, “Ðến khi nghĩ lại, còn gì là thân.”
2 – Biết còn là suy đoán phân biệt để nhận diện đúng sự vật. Suy đoán là sở trường của những câu đố. Câu đố – Câu đố có hình thức một câu gọn ngắn có vần hay không có vần, có bản văn nhất định, nhưng câu đố cũng có hình thức một chuyện kể ngắn, không có lời văn nhất định. Tuy vậy vì nội dung hoàn toàn thuộc về trí tuệ, suy luận, nên chúng tôi vẫn xem câu đố như là một loại tục ngữ: Câu đố thường dùng để mua vui, giải trí sau những giờ làm việc mệt nhọc, nhưng câu đố cũng góp phần không nhỏ với tục ngữ để luyện tập, một cách linh động, tinh thần và lề lối suy đoán, biện biệt cho dân gian. Ở đây chúng tôi không thể đi sâu vào việc nghiên cứu toàn thể các câu đố, mà chỉ dẫn ra một số câu đố liên hệ hơn cả với cách suy đoán biện biệt, bổ túc thêm về cái “biết” trong các câu tục ngữ mà thôi. Chúng tôi chú trọng nhiều đến các câu đố gọi là đố mẹo, nghĩa là dùng những cách kín đáo, khéo léo để “gài bẩy”, làm cho người đâu mà suy đoán giải đáp. a) Về loại câu đố mẹo nầy, trước hết, có những câu đố “vừa dố vừa giảng” rất dung dị, song người nghe qua tưởng lầm là vấn đề khó khăn, rắc rối, nên suy nghĩ xa xôi, đi tìm lời giải ở ngoài lời đố, không ngờ lời giảng lại nằm sờ sờ trong câu đố rồi:
“Con cua tám cẳng hai càng, một mai hai mắt, rõ ràng con cua”
“Tổ kiến, kiển tố, vừa đố vừa giảng” Ðố: Là những con gì, vật gì ? Giải: Là con cua và tổ kiến (có ghi rõ trong các lời đố).
Người Pháp cũng có một câu đố mẹo như thế: “Quelle est la couleur du cheval blanc d’Henri IV?” (Màu lông con ngựa trắng của Henri IV là màu gi?). Giải: Màu trắng (có ghi rõ trong lời đố). b) Có các câu đố mẹo khác, trong lời đố cố tình làm lẫn lộn các ý niệm “đồng thời” với “lần lượt”, “trọng lượng” với “khối lượng” khiến cho người nghe nào sơ ý, hấp tấp sẽ giải đáp sai:
“Luộc 1 cái trứng 4 phút là chín, vậy muốn luộc chín 8 cái trứng phải tốn bao nhiêu phút?” “Một tạ sắt với một tạ gòn, tạ nào nặng hơn tạ nào?” Giải: Luộc chín 8 quả trứng cũng 4 phút thôi (bỏ 8 trứng chung vào một nồi mà luộc đồng thời với nhau). Một tạ sắt và một tạ gòn, không tạ nào nặng hơn tạ nào. (Vì tạ là 100 cân, thì tạ sắt cũng nặng 100 cân, tạ gòn cũng nặng 100 cân như nhau).
c) Có câu đố mẹo cố tình làm cho lẫn lộn các ý nghĩa (đồng âm dị nghĩa) để đánh lạc hướng người nghe:
“Trục trục như con chó thui, “Chín mắt, chín mũi, chín đầu, chín đuôi.” Ðố là con vật gi? Giải: Con chó thui (Vừa đố vừa giảng; chữ “chín” ở câu nầy không phải là số 9, mà nghĩa là “thui chín”, trái nghĩa với “sống”)
d) Cũng có câu đố mẹo đã cố tình sắp đặt sẵn một câu giải đáp khôi hài nghe qua cũng hợp lý, mà thật ra thì “lãng nhách” (trả lời không đâu vào đâu cả) và ngộ nghĩnh, để “chọc quê” người giải câu đố:
“Vì sao khi hành nghề, mọi tên ăn cắp, móc túi phải nhìn trước rồi nhìn sau? “ Giải: Vì hắn không thể nhìn trước và nhìn sau cùng một lượt.
đ) Ðặc biệt có câu đố mà có thể có nhiều lời giải đúng, như:
“Con gì đứng thì thấp, ngồi thì cao ? “ Trong sách, thấy ghi lời giải đáp là: “Con chó”. Nhưng thật ra, lời giải có thể là “con mèo” vì mèo cũng “đứng thì thấp, ngồi thì cao”, như con chó. Mà con beo, con cọp cũng vậy.
Về “đố toán số” cũng có trường hợp một câu đố mà có thể có vô số lời giải đúng. Chẳng hạn như: “Ba người mua trứng. Người thứ nhất mua nửa giỏ và nửa quả, người thứ hai cũng thế (mua nửa só trứng còn lại trong giỏ và nửa quả). Người thứ ba mua số trứng còn lại. Hỏi số trứng là bao nhiêu? “ Trong sách chỉ thấy ghi có mỗi một lời giải như sau: Số trứng trong giỏ là 7, rồi giảng thêm:
Người thứ nhất: Ba quả rưỡi + nửa quả = 4 quả Người thứ hai : (còn lại: 7 – 4 = 3. Phân nửa của 3 = 1 quả rưởi) một quả rưỡi + nửa quả = 2 quả Người thứ ba: (7 – 4 – 2) = 1 quả
Nhưng thật ra có vô số lời giải đúng khác nữa, như số trứng trong giỏ là 11, 15, 19, 23, 27… chẳng hạn. Số trứng là 11: thì người thứ nhất 6, thứ hai 3, thứ ba 2 quạ Số trứng là 15: thì – 8, – 4, – 3 quả- Số trứng là 19: thì – 10, – 5, – 4 quạ Số trứng là 23: thì – 12, – 6 , – 5 quả. Số trứng là 27: thì – 14, – 7, – 6 quả. Cái mẹo trong câu đố nầy là đưa ra việc mua thêm “nửa quả” trứng. Ðó là điều trên thực tế không thể làm được. Ðiều nầy làm cho người giải câu đố bị hoang mang. Cho nên trước tiên, phải tìm hiểu vì sao lại có việc mua thêm “nửa quả”, thì mới tiếp tục suy đoán được. Là vì số trứng trong giỏ là một số lẻ, nếu chia thành hai phần đều nhau (nửa giỏ) thì, trên lý thuyết kế toán, trong mỗi phần sẽ có “nửa quả”. Cho tiện việc mua bán, người mua, ngoài phần nửa giỏ trứng ra, lại mua thêm “nửa quả” nữa, cho có được trọn y một quạ Như vậy, số trứng trong giỏ phải là một số lẹ Từ điều kiện tiên quyết nầy, người giải câu đố mò mẫm với những con số lẻ, từ số nhỏ đến số lớn, từ 1, 3, 5, 7, 9, 11, 13, 15, 17, 19, 21, 23, 25 đến 27 chẳng hạn …, thì thấy các con số đáp ứng với các tiêu chuẩn trong câu đố, là 7,11, 15, 19, 23, 27. Và nhận thấy thêm rằng: lấy số 7 mà cọng với 4, hay cọng với các bội số của 4 (cho đến vô tận), thì chúng ta sẽ có rất có vô số lời giải đúng. Cái hay của câu đố nầy là ở chỗ giúp cho ta hiểu được rằng:
Cần đối chiếu với thực tế mà kiểm soát sự việc mới có thể suy đoán hữu hiệu.
Thường không phải chỉ có một lời giải (của mình) là đúng mà thôi, cũng có nhiều lời giải khác đúng nữa. Phải có sự “truyền thông” với nhau giữa những thành phần nhân loại.
e) Ðể kết thúc phần nầy, chúng tôi xin dẫn ra một vài câu “đố tục, giảng thanh”, chẳng hạn như: “Bộ tịch quan anh xấu lạ lùng “Khom lưng, uốn gối, cả đời cong “Lưỡi to mà sức ăn ra khoét, “Cái kiếp theo đuôi có thẹn không?” Câu đố nghe qua, thì thấy rõ ràng là một thóa mạ” một ông quan “có hành động xấu xa lạ lùng, bên trên thì cả đời khom lưng, uốn gối nịnh bợ, phía dưới thì ra sức hà hiếp, đục khoét dân đen, thử hỏi cái kiếp nô lệ theo đuôi ấy, tự mình có thấy hổ thẹn không?” Lời chê bai, hạch tội có phần tục tằn, sống sượng, nhưng khi giảng giải khác đi, thì nghe thanh nhã: Câu nầy tả cái cày. “Cái cày hình dáng không đẹp, cán uốn cong, lưỡi cày to, bao giờ cũng phải theo đuôi con trâu để cày”. Rồi dân gian, nhân cách hóa cái cày, mà lên tiếng hỏi rằng: “Sống cuộc đời theo đuôi con trâu như vậy, “quan anh” có thẹn không?” (Chữ “quan” trong “quan anh”, chỉ “người có địa vị không phải đi phu, tạp dịch trong làng, dưới thời Pháp thuộc” (theo Từdiển tiếng Việt, Nguyễn Lân, 1991). Kinh nghiệm: Một chuyện mới nghe qua cho là chướng tai, biết đâu nếu đứng vào một lập trường nào khác mà nhìn, thì không phải vậy. Dân gian biết dùng lối vừa đùa cợt giải trí, vừa đào luyện cho nhau về suy đoán và cân nhắc trong nhận định, một cách không kém phần sâu sắc.
B) Khôn là thế nào ?
Khi đã “biết” suy xét, nhận định, suy đoán, thì có thể phân biệt được “khôn” với “dại”, để hành động cho khỏi sai lầm:
1 – Khôn không phải là làm khôn, (tiếng Việt, có chữ “làm khôn” nghĩa là tỏ ra mình khôn ngoan hơn người và can thiệp, xía vào việc của người khác), như thế chỉ có hại cho mình.
“Khôn vừa chứ, khôn lắm lại chết non.”
Từ thế kỉ thứ XV, Nguyễn Trãi đã có câu thơ đại ý như thế:
“Hễ kẻ làm khôn thì phải khó”
Và Trạng Trình cũng khuyên đừng “tranh khôn” mà có hại:
“Tranh khôn ắt có bề lo lắng.”
Mà trái lại, tục ngữ bảo ta phải biết cư xử cho nhún nhường, khiêm tốn:
“Ai nhất thì tôi thứ nhì, “Ai mà hơn nũa tôi thì thứ ba.”
2 – Mà khôn là thận trọng biết giữ gìn lời ăn tiếng nói.
Chỉ vì thiếu tinh thần cảnh giác, không thận trọng, nên người ta thường thốt ra những câu hớ hênh, vô ý thức, gây ra bao nhiêu tai họa cho bản thân và cho công cuộc đấu tranh của toàn dân:
” Vạ ở miệng ra, bệnh qua miệng vào.”
…” Thứ nhất là tội miệng mạ”
Cho nên:
“Khôn thì ngậm miệng, khoẻ thì cắp tay.” …”Người khôn đón trước rào sau, “Ðể cho người dại biết đâu mà dò” …”Chim khôn tiếc lông, người khôn tiếc lời.” “Sông sâu, sào ngắn khôn dò, “Người khôn ít nói, khôn đo tấc lòng.”…
…”Người khôn nói mánh, người dại đánh đòn.”
Ông cha chúng ta có cách nói gần, nói xa, rào trước đón sau, để khỏi phật lòng người nghe và nhất là để không ai có thể bắt bẻ, hay buộc tội mình được. Ðó gọi là “nói mánh”. (Trong Ðại Nam quốc âm tự điển, 1896, Huỳnh Tịnh Của định nghĩa chữ “mánh” là “ý tứ, tình ý, màng dò” và “nói mánh” là “nói ý tứ, xa gần, nói ướm thử” để người nghe suy nghĩ mà hiểu lấy).
3 – Khôn không phải là quỉ quyệt để làm thiệt hại người khác:
“Ðã khôn lại ngoan, “Ðã đi làm đĩ lại toan cáo làng.”
Nếu khôn mà quỉ quyệt, thì trước sau gì cũng:
“Khôn ngoan quỉ quyệt chết lao, chết tụ” “Càng khôn ngoan lắm, càng oan trái nhiều.”
Ở tiếng Việt, từ “ngoan” vốn có hai nghĩa trái ngược nhau: “ngoan” là khôn, nhơn lành, (như ngoan đạo, đứa bé ngoan), mà “ngoan” cũng có nghĩa là khó trị, quỉ quái (như ngoan cố, gian ngoan), (Ðại Nam quốc âm tự vị, Huỳnh Tịnh Của, Saigon, 1896). Trong “gian tham, quỉ quyệt”.
4 – Mà khôn là thật thà ngay thẳng, vì cuối cùng cái khôn ngay thật bao giờ cũng hơn cái khôn gian trá:
“Khôn ngoan chẳng đọ thật thà, “Lường thưng, tráo đấu chẳng qua đong đầy.”
(Ðấu: thùng bằng gỗ để đong lúa, gạo; thưng: 1/10 đấu).
Tức là: Khôn ngoan không bằng thật thà, ngay thẳng; có gian lận, tráo đổi cũng không bằng làm ăn đứng đắn, lương thiện: đong đầy, cân đúng.
Chưa kể, “khôn” mà làm điều gian ngoan, bất nhân, thất đức, chết đi sẽ bị xuống địa ngục; còn ở đời nầy dại mà hiền lành, chết đi sẽ được lên thiên đàng:
“Khôn thế gian, làm quan địa ngục, “Dại thế gian , làm quan thiên đàng”
5 – Khôn không dùng để hại dân, bán nước: không phải là đem cái khôn ra chống lại với đồng bào, phản lại quyền lợi chung:
“Khôn ngoan đối đáp người ngoài, “Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.”…
…”Chim không đánh chim cùng một tổ “Trâu một chuồng, đâu có húc nhau.
“Cùng chung một giọt máu đào, “Nỡ nào hại nước, nỡ nào hại dân.”
Và
“Tiếc thay con chim phượng hoàng còn dại chửa có khôn, “Núi Tam Sơn chẳng đậu, lại đi đậu cồn cỏ may !”
Dân gian ở vùng của chúng tôi cũng có một câu nữa tương tự như thế:
“Chim kia dại lắm không khôn, “Núi Lam Sơn không đậu, lại đậu cồn cỏ may.”
Lam Sơn là nơi ngày xưa Lê Lợi khởi nghĩa, ở đây “Lam Sơn” dùng để tượng trưng cho “kháng chiến”. Câu nầy đại ý nói: Thương hại cho những kẻ dại dột không biết theo kháng chiến cứu nước, mà lại đi theo phường Việt gian (đậu cồn cỏ may là một thứ cỏ, mỗi lần ta ngang qua, thì bị những hạt nhỏ của cỏ móc vào quần, rất dơ bẩn, phải mất thì giờ mới gỡ hết được). Và cũng có câu:
“Gáo đồng múc nước giếng tây, “Khôn ngoan cho lắm tớ thầy người ta.”
“Giếng tây” là “giếng ở phía tây” mà cũng có thể hiểu là “người Tây”; “múc nước giếng Tây” có thể hiểu là “đem nước dâng cho Tây”. Ðại ý câu nầy là: Cọng tác với Tây, mà tự cho là mình khôn, nhưng có khôn cho lắm, cũng chỉ là đem thân ra làm nô lệ cho ngoại nhân mà thôi!
6 – Mà khôn dùng để giữ vững lập trường, đừng để cho đối phương lung lạc, mua chuộc, dụ dỗ đưa vào con đường bán nước, phản dân:
“Người đời phải xét thiệt hơn, “Ðừng nghe tiếng sáo, tiếng đờn mà sai.”…
“Ðây ta như cây giữa rừng, “Ai lay không chuyển, ai rung không dời”
7 – Khôn mà ý thức được giới hạn của cái khôn. Chính tục ngữ đã vạch ra cho ta thấy rõ những hoàn cảnh khách quan và chủ quan đã hạn chế cái khôn của người đời:
a) Hoàn cảnh khách quan đã hạn chế cái “khôn”, như: tiền bạc, lẽ phải, may mắn, thiên thời, địa lợi…:
“Cái khó, bó cái khôn.”
…”Khôn như tiên, không tiền cũng dại.”…
…”Khôn chẳng qua lẽ, khoẻ chẳng qua lời.”…
…”May hơn khôn.”…
…”Chẻ vỏ (biết nhiều) vẫn thua vận đỏ.”…
…”Người đời ai có dại chi, “Khúc sông eo hẹp phải tùy khúc sông.” …”Khôn ngoan ở đất nhà bay, “Dù che, ngựa cưỡi, đến đây phải luồn.”
b) Hoàn cảnh chủ quan đã hạn chế cái “khôn”, như: dục tình, nhẹ dạ, bản tính trời sinh, già nua lú lẫn…
“Miệng khôn, trôn dại.”
…”Khôn ba năm, dại một giờ “
…”Khôn từ trong trứng khôn ra,
“Dại dẫu đến già cũng dại.”
…”Trẻ khôn qua, già lú lại.”
Tổng kết
Qua tục ngữ, chúng ta thấy được đường lối nghìn năm của ông cha chúng ta, là trường kỳ tranh đấu cho sự sống còn của dân tộc, của quốc gia, mà triết lý căn bản là: “biết thì sống”, biết “phân biệt dại và khôn” để bản thân, nòi giống khỏi bị diệt vong, một triết lý xây dựng trên tình người , trên sự làm lành, đùm bọc, giúp đỡ, cứu vớt lẫn nhau, một lề lối ứng xử chừng mực vừa phải, biết thận trọng, ẩn nhẫn, chịu đựng để thích nghi hóa với mọi hoàn cảnh để sống, để tồn tại, để chờ thời, chờ cơ hội thuận lợi mà vùng lên. Nguyễn Thùy, trong Tinh thần Việt Nam, cho rằng: “Có như thế, dân tộc ta mới tồn tại, mới bảo vệ được tinh thần của mình, mới tiếp thu được mọi thứ của người để có thể thể hiện được một hội nhập tròn đầy cái lý dịch hóa của vũ trụ vạn vật và của con người vào thời kỳ cuối của kỉ nguyên. Cái tính “chấp nhận để từ khước”, “hòa mà không đồng”, “tỏ ra thua thiệt để không đầu hàng”, “chịu thiệt thòi để không mất tất cả”, nếu có đưa dân tộc đến chỗ phải gánh chịu nhiều trầm luân, nhưng chính là một cuộc “chạy trốn về đằng trước” rất tế nhị của dân tộc ta để sửa soạn cho một bước đi tốt đẹp vào hồi chung cục. Chịu đựng tất cả để khỏi bị tiêu diệt.” (7) Tinh thần kết hợp cái “khôn” và cái “biết” trong tục ngữ, đã chi phối mọi xử sự, thông truyền giữa dân gian nước ta. Tinh thần ấy cũng phần nào giống với quan niệm kết hợp “khôn” và “biết” trong triết học hiện đại Tây phương. Một giáo sư Pháp, Didier Julia, cũng xác nhận rằng: “Cái “khôn”, theo nghĩa xưa, là cái “biết” bằng trực giác về những qui luật của vũ trụ, và theo định nghĩa hiện đại, là cái “biết” về những vấn đề của những người khác. Nói một cách thông thường hơn, cái “khôn” là một khái niệm luân lý chỉ sự “thăng bằng” của phẩm cách con người : sự “tiết độ” (theo Platon), hay sự “chừng mực” của mọi ham muốn. Theo nghĩa ấy, cái “khôn” trái lại với sự “say mê”, cũng như trái lại với cái “dại”. Cái “khôn” có khuynh hướng hóa đồng với sự “thận trọng”. (8) Từ điển về Triết-học Pháp cũng đã định nghĩa: “La sagesse est le but de la philosophie”, nghĩa là “cái khôn là cứu cánh của triết học”. (8) Tóm lại, dân tộc Việt Nam quả đã có một triết lý riêng của mình, triết lý mà ông cha chúng ta dụng ý trối gửi lại qua các câu tục ngự Bổn phận con cháu chúng ta là khám phá cho thấy được triết lý ấy, để hành động cho đúng, hầu tiếp tục đấu tranh bảo tồn nòi giống và quê hương. Và danh từ “triết lý” trong đầu đề “Triết lý dân tộc Việt
Võ Thu-Tịnh
Chú Thích:
(1) Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn học sử yếu, q. I, Paris, SudAsie, 1986, Tục ngữ, tr. 6,7.
(2) Phạm Thế Ngũ, Việt-Nam văn-học sử giản ước tân biên, q. I, Ðại Nam tái bản, Glendale,CA., năm ?, tr. 22, 23.
(3) Thái Văn Kiểm, Parémiologie việtnamienne comparée , in Présence Indochinoise, Paris, No1 – Avril 1979, pp. 81 – 117.
(4) Nguyễn Khuyến – Mẹ Mốc:
So danh giá ai bằng Mẹ Mốc, Ngoài hình hài gấm vóc cũng thêm ra. Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa, Làm thế để cho qua mắt tục. Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc, Tâm trung thường thủ tự kiêm kim.(a) Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm, Giữ son sắt êm đềm một tiết. Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết; Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ. Ðắp tai ngảnh mặt làm ngơ, Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây. Khôn kia dễ bán dại nầy!
(a) Kiêm kim = vàng ròng
(5) Luận Ngữ, bản dịch của Ðoàn Trung Còn, Paris, SudAsie, năm ?, chương Công Dả Tràng, tiết 20, trang 76: “Tử viết: Ninh Võ Tử, bang hữu đạo tắc trí, bang vô đạo tắc ngu. Kỳ trí khả cập giã, kỳ ngu bất khả cập giã”
(6) Lê Văn Siêu, Văn minh Việt Nam, Saigon, Nam Chi tùng thư, 1964, tái bản Glendale CA., Ðại Nam, năm ?, tr. 92, 93.
(7) Nguyễn Thùy và Trần Minh Xuân, Tinh thần Việt Nam, San José CA, Mékong Tỵ nạn, 1992, tr.195-196.
(8) Didier Julia, Dictionnaire de la Philosophie, France Loisirs, Paris, 1992, p. 252: Sagesse , “Cette définition est certainement la plus rigoureuse: la sagesse est, au sens antique, la connaissance des lois du monde et, au sens moderne, la compréhension des problèmes d’autrui. Plus communément, la sagesse est une notion morale qui désigne l'”équilibre” de la personnalité : la “tempérance” (Platon) ou la modération des désirs. En ce sens, la sagesse s’oppose à la passion, autant qúà la bêtise. Elle tend à s’identifier à la prudence.”
Truyền Thống Văn Hóa Dân Tộc Trong Ca Dao, Tục Ngữ, Thành Ngữ Việt Nam.
MỤC LỤCA. PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………11. Tên đề tài……………………………………………………………………12. Lý do chọn đề tài………………………………………………………… 13. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………… 14. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………… 25. Phương pháp nghiên cứu 26. Cấu trúc tiểu luận……………………………………………………………2B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU…………………………………2 Chương 1. Các khái niệm liên quan……………………………………….2 Chương 2. Truyền thống văn hóa dân tộc qua thành ngữ, tục ngữ, ca dao 41. Truyền thống nhân hậu, đoàn kết……………………………………………….42. Truyền thống trung thực, tự trọng…………………………………………………63. Truyền thống biết ơn, uống nước nhớ nguồn……………………………………64. Một số thành ngữ khác về truyền thống con người Việt………………………… 8 Chương 3 : Dấu ấn văn hóa dân tộc qua ý nghĩa biểu tượng của thành ngữ, tụcngữ Việt Nam…………………………………………………………………………9C. KẾT LUẬN…………………………………………………12D. TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………131A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tên đề tàiTRUYỀN THỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG CA DAO, TỤC NGỮ,THÀNH NGỮ VIỆT NAM.2. Lý do chọn đề tài. Thành ngữ tục ngữ được xem như túi khôn của nhân loại, tục ngữ thành ngữkhông chỉ là những kinh nghiệm dân gian của ông cha mà chứa đựng trong đó còn là kếttinh nền văn hóa của cả một dân tộc. Thành ngữ tục ngữ gần gũi với giao tiếp trong cuộcsống hàng ngày, người ta đôi khi sử dụng thành ngữ như một thói quen, như một câucửa miệng mà quên mất yếu tố văn hóa ở trong đó. Nhận thấy tính bức thiết của đề tàinày, tiểu luận ” Truyền thống văn hóa dân tộc trong ca dao, tục ngữ thành ngữ ViệtNam ” sẽ tập trung phân tích, làm rõ ý nghĩa những thành ngữ thể hiên truyền thốngvăn hóa dân tộc của người Việt Nam, đồng thời phân tích những yếu tố văn hóa ẩn chứadưới lớp vỏ ngôn từ, qua đó giúp người đọc hiểu một cách rõ ràng và sâu sắc về văn hóadân tộc Việt Nam.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 3.1 Đối tượng Kho tàng thành ngữ tục ngữ, ca dao dân tộc là vô cùng to lớn, do vậy bài viết sẽchỉ đề cập tới một số thành ngữ điển hình, được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàngngày. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Trong bài đề cập tới truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, đây là một đề tàirộng lớn mang tính bao quát. Bài tiểu luận chỉ tập trung vào một số truyền thống tiêubiểu mang tính đặc trưng cho con người và dân tộc Việt Nam như truyền thống nhânhậu, đoàn kết ; truyền thống trung thực tự trọng ; truyền thống uống nước nhớ nguồn.24. Mục đích nghiên cứu Qua việc khảo sát, thống kê, phân tích, bài viết sẽ tập trung lý giải đặc điểm ngữnghĩa của bộ phận tục ngữ thể hiện truyền thống văn hóa dân tộc, so sánh đối chiếu chấtliệu ngôn ngữ cùng ý nghĩa câu thành ngữ tục ngữ với câu tương tự của các nước khác,qua đó để tìm hiểu đặc trưng văn hoá của người Việt.5. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê, phân loại;phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp nghiêncứu liên ngành.6. Cấu trúc của tiểu luận.Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của bài viết bao gồm 3 chương:Chương 1: Các khái niệm liên quan.Chương 2: Truyền thống văn hóa dân tộc trong ca dao, thành ngữ, tục ngữ Việt Nam. Chương3: Dấu ấn văn hóa dân tộc qua ý nghĩa biểu tượng của thành ngữ tục ngữ Việt Nam.
Sau cùng là Tài liệu tham khảo.B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU. CHƯƠNG 1: CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN.1.1 Định nghĩa về văn hóa của UNESCO Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất trí tuệ và cảm xúc,quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương , những lối sống, những quyền cơbản của con người và hệ thống những giá trị những phong tục, tín ngưỡng. Văn hóa đem3lại cho con người khả năng suy xét về bản thân, chính văn hóa giúp cho chúng ta trởthành sinh vật đặc biệt, nhân bản, có lý tính có phê phán và dấn thân một cách có đạolý.Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình làmột phương án chưa hoàn thành, đặt ra để xem xét thành tựu của bản thân, tìm tòi khôngmệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo những công trình mới mẻ, vượt trội bảnthân.1.2 Định nghĩa về ngôn ngữ Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của loài người,phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ nói vàngôn ngữ viết, trong thời đại hiện nay, nó là công cụ quan trọng nhất của sự trao đổi vănhoá giữa các dân tộc. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội, vàlà công cụ tư duy của con người.1.3 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa. Người ta đã nói rằng ngôn ngữ và văn tự là kết tinh của văn hóa dân tộc, nhờngôn ngữ và văn tự để được lưu truyền và trong tương lai, nền văn hóa cũng nhờ vàongôn ngữ để phát triển. Sự biến đổi và phát triển ngôn ngữ lại luôn luôn đi song song vớibiến đổi và phát triển văn hóa. Vậy muốn nghiên cứu sâu về văn hóa phải nghiên cứungôn ngữ, và tất nhiên muốn đi sâu vào ngôn ngữ phải chú tâm đến văn hóa.1.4 Khái niệm về thành ngữ, tục ngữ. -Thành ngữ là một cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa, nghĩa củachúng có tính hình tượng, gợi cảm. – Tục ngữ là những câu nói được đúc kết từ kinh nghiệm, luân lí, là những câu nóihoàn chỉnh, tục ngữ được coi như một tác phẩm văn học trọn vẹn bởi nó luôn mang bachức năng nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ.4CHƯƠNG 2 . TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG CA DAO,TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ.1. Truyền thống nhân hậu, đoàn kết.Có thể nói nhân hậu, đoàn kết là một trong những truyền thống quý báu nhất của dân tộcta. Khó có một dân tộc nào trên thế giới có ý thức dân tộc mạnh mẽ cùng truyền thốngđoàn kết như dân tộc ta.Trải qua 4000 năm lịch sử, dân tộc ta từ khi dựng nước đã phảigiữ nước do đó ý thức dân tộc luôn được đặt lên trên hết, điều này được thể hiện rõ néttrong văn hóa nước ta, mà biểu hiện của nó được thể hiện một cách rõ nét trong kho tangthành ngữ tục ngữ. Thành ngữ tục ngữ ca dao về tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái được thểhiện một cách rõ nét qua những câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao như:– Lá lành đùm lá rách : người có lòng giúp người khác trong cơn khó khăn. Hoạn nạn– Chết cả đống còn hơn sống một mình : tinh thần đoàn kết, sống chết có nhau.– Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ : tinh thần đoàn kết, đòng cam cộng khổ.– Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết : đề cao sức mạnh đoàn kết trong tập thể.– Đồng tâm hiệp lực ( đồng sức đồng lòng): cùng một lòng, cùng hợp sức để đạt mụctiêu chung– Thương người như thể thương thân: tinh thần nhân đạo cao cả, coi trọng giá trịcon người.– Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao– Bầu ơi thương lấy bí cùngTuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.– Nhiễu điều phủ lấy giá gươngNgười trong một nước thì thương nhau cùng. Chúng ta có lẽ không xa lạ gì với những câu tục ngữ, thành ngữ trên, ông cha tađã sử dụng những hình ảnh so sánh, ẩn dụ để thể hiện thông điệp của mình. Đây đượcxem như những lời răn dạy, những bài học mà ông cha ta đã đúc kết từ ngàn đời. Những“bầu”, những “bí” hay “lá lành”, “lá rách” đều mang ý nghĩa biểu tượng cho con người5Việt Nam, những đồng bào cùng chung sống trong mái nhà chung. Đất nước Việt Namlà một đất nước nhỏ, dân tộc Việt Nam là tổng hòa mối quan hệ của 54 dân tộc anhem .Nếu không có sự đoàn kết, tương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau thì dân tộc này,đất nước này làm sao có thể có được hòa bình êm ấm, tự do tự chủ. Thành ngữ, tục ngữ còn nói lên bài học về lòng nhân hậu vị tha.– Có trước có sau: ( Có thủy có chung): Khen người trước sao sau vậy, giữ vẹn tìnhnghĩa với người cũ.– Hiền như Bụt: Khen người nào rất hiền lành.– Lành như đất: Khen người nào rất hiền lành.– Ở hiền gặp lành: Ăn ở tốt với người khác thì lại có người đối xử tốt với mình.Khuyên sống hiền lành, nhân hậu thì sẽ gặp điều tốt đẹp may mắn.– Uống nước nhớ nguồn: Biết ơn người đã đem lại những điều tốt đẹp cho mình, sốngcó nghĩa có tình, thủy chung.– Gan vàng dạ sắt: Khen người chung thủy, không thay lòng đổi dạ.– Có trước có sau: ( Có thủy có chung): Khen người trước sao sau vậy, giữ vẹn tìnhnghĩa với người cũ.– Một miếng khi đói bằng một gói khi no: Khi người ta cần mà mình giúp thì việc ấycó giá trị hơn rất nhiều những gì khi mình cho mà mình cho người ta không cần.– Muôn người như một: Mọi người đều đồng ý như nhau, đoàn kết một lòng.– Nhường cơm sẻ áo: Nói lên tình cảm thân thiết giữa con người với nhau. Gúp đỡ, sansẻ cho nhau lúc gặp khó khăn hoạn nạn. Bên cạnh những thành ngữ mang ý nghĩa tốt cũng có không ít thành ngữ phê phánnhững thói xấu của một số người trong xã hội như :6– Con sâu bỏ rầu nồi canh: Một người làm bậy ảnh hưởng xấu đến cả tập thể.– Trâu buộc ghét trâu ăn: Nói những kẻ ghen ghét gièm pha người có quyền lợi hơnmình.2. Truyền thống trung thực , tự trọng.– Cây ngay không sợ chết đứng: Người ngay thẳng chẳng sợ sự gièm pha, bày đặt đểnói xấu hay chèn ép của kẻ ghen ghét. – Chết trong còn hơn sống đục: phương châm cao thượng của người biết tự trọng.– Chết vinh còn hơn sống nhục: đồng nghĩa với chết trong còn hơn sống đục.– Chết đứng còn hơn sống quỳ: đồng nghĩa với chết trong còn hơn sống đục.– Đói cho sạch, rách cho thơm: Dù đói khổ vẫn phải sống trong sạch, lương thiện.– Giấy rách phải giữ lấy lề: Dù nghèo đói, khó khăn vẫn phải giữ nền nếp.– Thẳng như ruột ngựa: Có lòng dạ ngay thẳng.– Tốt danh hơn lành áo: Danh dự thanh danh còn hơn cái vỏ bề ngoài.– Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng: Chê người vì một mối lợi nhỏ mà phẩm chất sasút.– Đục nước béo cò: phê phán kẻ cơ hội.3. Truyền thống biết ơn ,uống nước nhớ nguồn. Dân tộc Việt Nam luôn tự hào về truyền thống biết ơn, uống nước nhớ nguồn. Truyền thống ấy được thể hiện qua việc biết ơn, kính trọng đấng sinh thành, tôn trọng 7người có lòng giúp đỡ, dìu dắt, dạy bảo ta nên người. Truyền thống ấy được cha mẹ, ôngbà răn dạy ngay từ thuở còn trong nôi, theo thời gian, truyền thống ấy được bồi đắp, giữ gìn rồi trở thành quan niệm sống, lối suy nghĩ, trở thành văn hóa của cả một dân tộc. Từ xưa đến nay, tryền thống uống nước nhớ nguồn luôn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua nhiều đời, nhiều thế hệ và vẫn luôn vẹn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Tục ngữ, thành ngữ về biết ơn gia đình, tổ tiên và những người có lòng giúp đỡ mình:– Ăn quả nhớ người trồng cây: nhớ ơn tổ tiên, ông bà.– Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy: nhớ ơn ông bà cha mẹ và người thầy.– Uống nước nhớ nguồn: luôn ghi nhớ công ơn, tổ tiên, gốc rễ.– Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu.– Chim có tổ, người có tông: – Lá rụng về cội.– Ơn trả nghĩa đền : phải biết ơn, ghi nhớ công ơn, đền đáp những người đã giúp đỡ mình.– Ơn sâu nghĩa nặng : ghi nhớ công ơn những người đã giúp đỡ mình– Tiên học lễ, hậu học văn : trước hết phải biết đạo lí, học cách đối nhân xử thế rồi sau đó mới học kiến thức.– Kính lão, đắc thọ : Tôn trọng, yêu quý người già thì được sống lâu.– Kính già, già để tuổi cho.– Tối lửa tắt đèn : mối quan hệ thân thuộc giữa hàng xóm, giúp đỡ nhau khi hoạn nạn.Ca dao tục ngữ thể hiện lòng kính trọng người thầy.– Không thầy đố mày làm nên.– Tôn sư trọng đạo: kính trọng thầy và coi trọng những kiến thức, cái đạo của thầy truyền lại, theo nho giáo.– Nhất tự vi sư, bán tự vi sư : một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy.– Một chữ nên thầy: đồng nghĩa với nhất tự vi sư bán tự vi sư.– Trọng thầy mới được làm thầy: phải kính trọng thầy thì mới có thể nhận được sự 8kính trọng từ người khác.– Tầm sư học đạo: tìm thầy, tìm người giỏi để theo học.
Không chỉ là những lời răn dạy con người ta biết nghe theo điều hay lẽ phải, thành ngữ, tục ngữ còn phê phán lối sống bất nhân bất nghĩa như:– Gieo nhân nào gặt quả ấy: một người luôn làm thiện tích đức sẽ gặp thiện báo còn làm ác sẽ gặp quả ác báo.– Gieo gió gặt bão: làm việc xấu thì phải gánh lấy hậu quả.– Có trăng quên đèn: phê phán lối sống phụ bạc, thiếu tình nghĩa, có cái mới thì quay ra rẻ rúng, vứt bỏ cái cũ.– Có mới nới cũ : đồng nghĩa với có trăng quên đèn.4. Một số thành ngữ khác về phẩm chất con người Việt.– Có chí thì nên: có ý chí nghị lực thì sẽ có ngày thành công.– Có cứng mới đứng đầu gió: Phải có dũng khí mới đương đầu được với mọi khó khăntrắc trở.– Chân cứng đá mềm: ý nói sức lao động của con người chiến thắng mọi khó khăn– Có công mài sắt, có ngày nên kim: Khuyên nên kiên trì, nhẫn nại làm việc, nhất định sẽcó kết quả tốt đẹp.– Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo. Khuyên phải cố gắng vượt mọi khó khăn để hoànthành nhiệm vụ.-Gan vàng dạ sắt: Dũng cảm, gan dạ, không nao núng trước khó khăn nguy hiểm.– Lửa thử vàng, gian nan thử sức: Khó khăn là điều kiện thử thách và rèn luyện mới biếtcon người có nghị lực, tài năng.9– Nước chảy đá mòn: Kiên trì, nhẫn nại sẽ thành công. CHƯƠNG 3 : DẤU ẤN VĂN HÓA DÂN TỘC QUA Ý NGHĨA BIỂU TƯỢNG CỦATHÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VIỆT NAM. Để tìm hiểu được dấu ấn văn hóa trong thành ngữ Việt Nam, ta cần có một sự sosánh giữa thành ngữ Việt Nam và một số nước khác.1. Ảnh hưởng của nền văn minh lúa nước. Do ảnh hưởng từ nền văn minh lúa nước, nên tục ngữ thành ngữ trong kho tàngvăn học nước ta cũng thể hiện rõ ràng dấu ấn của cư dân nông nghiệp, coi trọng nhữnghình ảnh thiên nhiên như gió mưa, sông, nước,…Người Việt ta có câu ” gieo gió gặtbão” để thể hiện triết lí mang tính nhân quả, những người làm việc ác sẽ nhận lại hậuquả tương ứng, hay như câu tục ngữ có ý nghĩa tương tự ” gieo nhân nào, gặt quả ấy”.Hình ảnh ảnh mang tính biểu tượng ở đây là ” Gió” và “bão”, đây là hiện tượng thời tiếtđặc thù của cư dân sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó, người Philipines có câu nóitương tự ” Nếu gieo những múi tên thì bạn sẽ gặt ưu phiền”. Điều này cho thấy tuy nướcta và Philipines có điều kiện địa lý tương tự, cũng hứng chịu nghiều thiên tai bởi gió bãonhưng tư duy ngôn ngữ của hai dân tộc khác nhau dẫn tới chất liệu của ngôn ngữ cũngkhác. Người Anh diễn đạt câu này bằng những câu sau: “sow the wind and reap thewhirlwind” hay ” we reap as we sow” hay ” he. Who sows the wind, will reap thewhirlwind”. Chúng ta còn thể hiện sự khác biệt về đặc trưng văn hóa- dân tộc qua nhóm hìnhảnh về động vật và thực vật. Trong câu tục ngữ :” đục nước béo cò”, hình ảnh con cò“béo” được ăn no nê ở chỗ nước “đục” với nội dung phê phán những kẻ cơ hội. Cò làcon vật gần gũi với cư dân nông nghiệp, đặc biệt là cư dân với nền văn hóa lúa nước.Hình ảnh con cò trong ca dao còn biểu trưng cho người nông dân thấp cổ bé họng, lam10lũ, chịu khó. Đây là hình ảnh mang đặc trưng của con người Việt Nam nói chung và cưdân lúa nước nói riêng. Như đã nói, thực vật cũng là một khía cạnh, chất liệu thường gặptrong tục ngữ, thành ngữ Việt Nam. Câu tục ngữ ” ăn quả nhờ kẻ trồng cây” hay ” lárụng về cội” đều mang đặc trưng ấy. Nhiều từ ngữ liên quan đến quá trình canh tác nôngnghiệp cũng được sử dụng rộng rãi như “gieo”, “gặt” trong “gieo gió gặt bão”, hay“trồng”, trong câu trên… đều thể hiện rõ đặc trưng của cư dân nông nghiệp.2. Ảnh hưởng của lối tư duy cộng đồng .Cái nhìn của mối dân tộc về cộng đồng, cá nhân và vai trò của chúng trong việcđịnh hình tính cách, văn hóa của mỗi nơi mỗi khác. Người Việt Nam còn mang nặng tưtưởng cá nhân không thể làm nên việc lớn và đề cao sức mạnh đoàn kết của tập thể, điềunày thể hiện rõ nét truyền thống dân tộc, ta có thể lí giải Việt Nam là một nước nhỏ,luôn phải đối mặt với thù trong giặc ngoài do vậy sự đoàn kết gắn kết giữa dân tộc đượcđề cao. Về triết lí này, người Việt ta có câu: ” Một cây làm chẳng nên non”, ngườiRuanda lại có câu ” một cây không làm nên ngôi nhà”, Trái lại, Người Anh lại có câu“Một con chim nhạn không làm nên mùa hè”. Người Việt Nam dùng hình ảnh ” non” ,người Ruganda lại dùng hình ảnh ” nhà” để thể hiện sự thành công, trong khi đối vớiđảo quốc sương mù thì mùa hè mới là mùa của thành công và hi vọng.Nhưng thành ngữ của tiếng Anh lại không mấy phổ biến về sự đoàn kết cộngđồng.Vì con người Anh và các nước phương Tây coi trọng sự độc lập, tự do cá nhân , sựđộc lập của bản thân mối người mang tính hướng ngoại nên trong thành ngữ cũng khôngcó nhiều câu mang tính đoàn kết cộng đồng, tập thể như ở Việt Nam, và tính cộng đồngđoàn kết không phải là đặc trưng mang tính văn hóa như trong văn hóa Việt.3. Lối tư duy duy tâm trong quan hệ xã hội.11 So sánh với tục ngữ trong tiếng Anh thì tục ngữ thành ngữ tiếng Anh chỉ tập trungphản ánh mối quan hệ xã hội mà ít đề cập tới mối quan hệ giữa thiên nhiên và kinhnghiệm sản xuất, đó là sự biểu hiện của một dân tộc có nền công nghiệp sớm phát triển,ít phụ thuộc vào tự nhiên. Trái ngược với nước ta, từ xưa đến nay luôn dựa vào canh tácnông nghiệp,coi nông nghiệp là điều kiện kinh tế chủ đạo. Điều này thể hiện trong gốc văn hóa du mục, thành ngữ Anh thể hiện tư duy phântích trong nhận thức, duy lý trong đối xử và coi trọng sức mạnh trong xã hội của ngườiAnh (phân định rạch ròi chức năng của từng loại động vật qua cách gọi ngay trongthành ngữ,…) trong khi người Việt giữ trong mình triết lý âm dương từ trong máu thịt,coi trọng nhân quả, đây là sự ảnh hưởng to lớn từ đạo phật và đạo khổng qua hàng ngànnăm. (Ví dụ: gieo gió gặt bão, nhân nào quả ấy, kính lão đắc thọ…), sống trọng tình vàcoi trọng kinh nghiệm sự khéo léo qua những thành ngữ chỉ văn hóa nhận thức tư duycủa mình ( ví dụ tư tưởng trọng lão: sống lâu lên lão làng, kính lão đắc thọ…).Đặc điểm của cư dân nông nghiệp còn thể hiện ở tính trào lộng, dân dã trong thànhngữ tục ngữ trong Tiếng Việt,trong khi so sánh với những ngôn ngữ khác như TiếngAnh thì lại trang nghiêm, mực thước, gần với ngôn ngữ bác học.Vì khác nhau cơ bảntrong nhận thức nên cách ứng xử, cư xử với xã hội của hai dân tộc lại càng khác nhau,Việt Nam tế nhị, hiếu hòa, linh hoạt trong xưng hô, giao tiếp (ví dụ: xưng khiêm hô tôn,học ăn học nói học gói học mở,…); người Anh thẳng thắn , lịch sự (ví dụ: as stiff/straight as a ramrod, as straight as a die,…); dân Việt trọng nông nghiệp (thành ngữmiêu tả công việc làm nông áp đảo những thành ngữ có sử dụng từ trong công hay thủcông nghiệp), còn người Anh trọng công nghiệp . 12C. KẾT LUẬN Sự liên hệ, so sánh trên đã phản ánh rõ dấu ấn văn hoá in đậm trong tục ngữ củadân tộc đó. Người ta có thể tìm thấy nhiều mặt của đời sống xã hội được phản ánh trongtục ngữ. Người Đức có câu “Quốc gia nào, tục ngữ nấy” hay “Người ta có thể đánh giámột quốc gia qua phẩm tính tục ngữ của quốc gia đó”. Cái riêng này chính là dấu ấnvăn hoá – dân tộc. Điểm chung của tục ngữ là từ ngữ ít, ý nghĩa hay và hình ảnh đẹp.Thế nhưng, giữa tục ngữ các dân tộc vẫn tồn tại những nét dị biệt. Nét dị biệt thể hiện ởcách tổ chức cấu trúc hình thức và lựa chọn chất liệu để biểu đạt nội dung triết lí tươngđồng. Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Nam Á có nền nông nghiệplúa nước. Với tư cách là một loại hình văn học dân gian, tục ngữ Việt là tấm gương phảnánh kết quả tư duy, in đậm dấu ấn nền văn hoá nông nghiệp lúa nước, mang nét riêng sovới văn hoá của dân tộc khác. Tóm lại, có thể thấy chất liệu biểu trưng là một trongnhững nhân tố làm nên vẻ riêng và thể hiện đặc trưng văn hoá – dân tộc của tục ngữ cácnước.13TÀI LIỆU THAM KHẢO1 Ca dao Việt Nam về tình cảm gia đình. http://vi.wikiquote.org/wiki/Ca_dao_Vi%E1%BB%87t_Nam_v%E1%BB%81_t%C3%ACnh_c%E1%BA%A3m_gia_%C4%91%C3%ACnh.2. Hoàng Văn Hành, Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, Nxb Khoa Học Xã Hội, 20023. Hoành Văn Hành và nhóm biên soạn, Thành ngữ học tiếng Việt, Viện Khoa Học XãHội Việt Nam, 2004 4. Hoàng Văn Hành, Về bản chất của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, số1, 1976 . 5. PGS. TS Phan Mậu Cảnh , Đặc trưng văn hóa, cội nguồn văn hóa và sự thể hiệnchúng trong ca dao người Việt, 6. Ts. Nguyễn Văn Nở, Dấu ấn văn hóa- dân tộc qua chất liệu biểu trưng của tục ngữngười Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 3,2009.14
Cập nhật thông tin chi tiết về Thử Bàn Về Bản Sắc Dân Tộc Của Văn Hoá Việt Nam trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!