Tìm Hiểu Đôi Câu Ca Dao, Tục Ngữ Trên Quê Biển Bình Thuận…

Tìm hiểu đôi câu ca dao

Tìm hiểu đôi câu ca dao, tục ngữ trên quê biển Bình Thuận…

BT- Năm 1697, chúa Nguyễn Phúc Chu lập phủ Bình Thuận. Từ thuở ban đầu khai cơ lập nghiệp, vùng đất ấy đã mang tiếng dữ: “Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận”. Những người “Ngũ Quảng lưu dân”  vừa ra sức khai hoang trên vùng đất mới, vừa cộng cư và giao thoa văn hóa với cư dân bản địa, làm cho Bình Thuận ngày thêm đúng nghĩa thuận bình.

Ghe buồm Phan Thiết xưa (ảnh tư liệu).

Câu nói trên ngày một phôi phai, người ta lại nói về vùng đất mới: “Cơm Nai Rịa, cá Rí Rang” (cơm gạo thì Đồng Nai, Bà Rịa, còn cá mắm thì Phan Rí, Phan Rang – thuở  ấy Bình Thuận từ sông Phan Rang vào tới Bà Rịa, Đồng Nai). Thế là đoàn người lũ lượt vào khai phá phương Nam. Lâu ngày các câu ca dao tục ngữ trên vùng đất mới ra đời bởi đây là một nhu cầu không thể thiếu của cư dân đã tạo thành các giá trị văn hóa dân gian từ hàng trăm năm qua. Trong phạm vi bài viết ngắn này, chúng ta thử tìm hiểu đôi câu ca dao tục ngữ của quê biển Bình Thuận.

Nói về Bình Thuận, trước hết là phải nói về biển, bởi đây là vùng biển giàu cá mắm “nhứt nhì” trong cả nước. Ở phía Bắc tỉnh không chỉ có “cá Rí Rang” nói trên làm đại diện mà còn có: “Đá một đá văng Cà Ná cá nuốt”, quả thật, người ta nói xưa kia vùng Cà Ná thật nhiều cá. Còn cá ngon thì không đâu bằng đảo Phú Quý, với câu ca: “Bà già muốn ăn cá thu/Gã con xuống biển mù mù tăm tăm”. Câu ca nói lên đây là vùng biển có nhiều cá thu, mà ngày trước người ta gọi đảo Phú Quý là “Cù Lao Thu”, tất nhiên Phú Quý không chỉ có cá thu mà cá thu ở đây là đại diện cho các loài cá cao cấp đánh bắt bằng câu khơi của ngư dân Phú Quý như hồng, mú. đuối, ó, mập… Ở đây còn nói lên sự can trường của nhân dân trên đảo đã chọn nơi giữa biển cả “mù mù tăm tăm” làm nơi sinh sống. Không phải ngẫu nhiên mà nhà Nguyễn đặt cho tên Phú Quý, mà đó chính là niềm mơ ước của cư dân thuở ban đầu dựa vào biển cả chọn nơi này khai cơ lập nghiệp. Cũng chính từ biển cả đã tạo ra con người Phú Quý chơn chất, “ăn ngay, nói thẳng”. Còn nhớ chuyện, ngày 26 tháng 3 năm Tân Sửu – 1901, một tàu Công sứ Pháp tỉnh Bình Thuận bất thần ra Phú Quý bắt 50 tráng đinh chở về đất liền, các cụ ở đảo quyết làm một chuyến hải trình “đi kinh”, đi từ đảo Phú Quý ra kinh đô Huế để thỉnh cầu vua Thành Thái (1889 – 1907) chặn đứng việc bắt dân làm xâu và xin chước giảm sắc thuế đánh vào dân đảo vốn dĩ quá khổ. Chuyến đi kinh đó đã thành công, vua Thành Thái chấp thuận. Có thể nói các cụ ở đảo Phú Quý là “ông già Ba Tri” của Bình Thuận. Còn chuyện cô gái lấy chồng ra đảo, bởi vì “Dừa Tam Thanh uống nước trong xanh/Phải duyên em chọn nên đành phải theo”. Còn chàng trai vốn đã vô cùng chơn chất: “Chừng nào cho sóng bỏ gành/Cù lao bỏ biển anh mới đành xa em”.

Có một câu ca dao mà mọi người dân Phan Thiết và trong tỉnh đều biết, đó là câu: “Gỏi nào ngon bằng gỏi cá mai/ Trai nào lịch sự bằng trai lưới rùng/ Gió Nam thổi tạt Quán Thùng/ Bậu còn mơ tưởng bạn lưới rùng nữa không?”. Qua tìm hiểu ở những bậc cao niên, các cụ cho biết: Thuở trước nghề biển ở quê mình có 2 nghề chính là lưới rùng và mành chà, lưới rùng đánh áp lộng, nhiều nhất là cá cơm; mành chà đánh ở chà khơi nhiều nhất cá nục, cá cơm, đây là hai thứ cá làm nên nước mắm nổi tiếng quê mình, cá cơm thì nước mắm ngon, cá nục là nước mắm bình dân.

Lao động biển Phan Thiết xưa (ảnh tư liệu).

Gỏi cá mai thì ngon tuyệt, ai cũng biết. Nhưng trai lưới rùng sao mà lịch sự thì khó hiểu quá?! Theo tôi hiểu, phải chăng là lối tự trào cho vui khi thấy đặc điểm của nghề kéo lưới rùng là phải có cái đai, thuở ấy những người “làm quân làm tướng” mới được “đeo đai, đội mũ”, còn anh chỉ là anh kéo lưới rùng mà cũng có cái đai, coi cũng “lịch sự”. Đó thật là “tự trào cho vui”. Nói vui để dẫn vào chuyện nói thật: “Gió Nam thổi tạt Quán Thùng/Bậu còn mơ tưởng bạn lưới rùng nữa không?”. Trước hết nói về địa danh Quán Thùng, thuở trước bãi ngang phía Nam của vịnh Phan Thiết chạy dài từ Sở Cô Bác (Tú Luông nay là Đức Long) đến tận Mũi Điện (Hải đăng Kê Gà) là thủ phủ của lưới rùng. Các cụ cao niên kể lại thuở đó bãi dưới đó có rất nhiều cá, tới mùa (Nam) là lưới rùng chia nhau mà đánh, đánh theo con nước, nước lớn sáng thì đánh sáng, nước lớn chiều (tối) thì đánh chiều. Trung tâm điểm của bãi này là Quán Thùng tức trung tâm xã Tiến Thành ngày nay. Bởi thế mới có câu “Gió Nam thổi tạt Quán Thùng”.

Trở lại với câu “Bậu còn mơ tưởng bạn lưới rùng nữa không”. Không có anh chàng nào “đù” đến nỗi kể cái nghề kéo lưới rùng “nghèo khổ” của mình rồi hỏi cô gái còn mơ tưởng không!? Thật ra là họ đã hẹn hò phải lòng nhau, biết rõ nhau trong một đêm trăng nào đó ở Quán Thùng, để rồi: “Sáng trăng anh đánh cá ve/ Em núp bụi dứa tai nghe anh hò/ Hò lên ớ bạn hò lên/Có đứt em nối có quên em bày”. Chàng trai lưới rùng hỏi để vui, để “than” với cô gái vậy mà cô gái đã nhận lời đáp lại. Ngẫm đi ngẫm lại 4 câu ca này nghe chữ “đánh cá ve” thật hay, ve ở đây là “ve gái”, mà cũng từ thực tế cá ve thường áp lộng vào lúc nước lớn trăng mọc. Hay mà buồn. Nỗi buồn của một người “đi bạn” kéo lưới… Đó là trai lưới rùng, còn trai mành chà là những người rất giỏi biển, đi khơi nhưng cũng không khá gì hơn. Ngày trước các chàng trai xứ Quảng thường vào Bình Thuận đi “bạn chà” mà nghề chà chỉ đánh được cá vụ nam, cuối tháng 2 âm lịch thì sửa soạn chà lá, lưới cụ, làm lễ “Hạ nghệ” (xuống nghề), tháng 4 làm lễ “Cầu ngư đầu mùa”, tháng 6 làm lễ “Cầu ngư chính mùa”, rồi tháng 8 “Cầu ngư mãn mùa” ứng với thời tiết “Tháng giêng động dài/Tháng hai động tố (không đi biển được)/Tháng ba nồm rộ/Tháng tư nam non (đầu mùa)/Tháng năm có gió hợp Hòn/Tháng sáu thổi lòn hang Cú (chính mùa, có mưa ở ngoài biển vào và mưa trong đất liền ra, các sông mang nhiều phù sa ra biển, biển màu mỡ phát triển nhiều phiêu sinh vật, từng đàn cá ở phía Nam di chuyển lên biển Bình Thuận). Tháng 7, tháng 8 là mùa bão tố, tháng 9 bắt đầu trở bấc… Các chàng trai xứ Quảng và các cô gái làng chài Bình Thuận cất tiếng than: “Mãn mùa cá nục xa chà/Bạn thì xa thợ, anh đà xa em”. Năm nào gió thuận mưa hòa được mùa biển không nói, còn năm nào mưa không thuận gió không hòa, mất mùa biển, các ông chèo dọc giỏi nghề biển về xứ nghe vợ đưa con hát than: “Anh đi ghe anh đội cái nón ghe/Anh về ngoài Quảng anh che cây dù/Dù gì, dù lụa cánh dơi/Trong nhà hết gạo dù ơi hỡi dù…”.

Bây giờ xin nói về những câu ca, câu nói về “nước mắm”. Ở trên chúng ta thấy “Gỏi nào ngon bằng gỏi cá mai” chỉ là câu “mào đầu”, để bắt vô câu chính “Trai nào lịch sự bằng trai lưới rùng”. Trong ca dao thường như vậy, nhập đề lung khởi tỷ như câu “Nước mắm ngon chấm con cá liệt” thì không có liên quan gì đến “Em muốn có chồng nói thiệt anh nghe”. Vậy mà 2 câu được ghép lại, nghe ngọt ngào. Bởi con cá liệt thuộc loại “long mong liệt méo” song chỉ cần nấu “phơn phớt hành ớt” ra nước canh ngọt tuyệt vời, lại lừa xương cá liệt ra giẽ một miếng thịt chấm với nước mắm ngon dằm ớt cay thì trời ơi quả thật “nước mắm thắm cơm”. Rồi thì: “Nước mắm ngon “thượng thủ”/Chấm miếng đu đủ/Lẫn đẫn/lờ đờ/Em than với anh em còn dại còn khờ/Muốn làm dâu cha mẹ biết nhờ cậy ai?”. Thì còn “ai trồng khoai đất này”! Nhưng ở đây tôi chỉ xin nói đến miếng giò heo hầm đu đủ chấm với nước mắm ngon “thượng thủ”…

Đó là nước mắm từ cá nục, cá cơm, lại xứ Bình Thuận còn nổi tiếng với con cá mòi, tới mùa cá mòi nhiều vô kể, song đây là loại cá béo nhiều mỡ không làm nước mắm được, mà cho ra món đặc sản là “con mắm mòi”, muối mặn rồi chở ra Bắc, Trung bộ bán “đắt còn hơn tôm tươi”. Chúng ta đều biết Phú Yên cũng là xứ “cá mắm”, vậy mà: “Tiếng đồn con gái Phú Yên/Trai Bình Thuận cưới một thiên mắm mòi”. Thuở nhỏ tôi bị mấy ông anh lớn gạt cứ đọc theo: “Một con mèo đói ăn, một con cá mòi béo”, đọc tới 5 con mèo đói thì líu lưỡi… cảm giác như ăn canh chua hoặc kho măng cá mòi béo thiệt ngon nhưng cứ gặp xương dính lưỡi bởi cá mòi cũng là cá có nhiều xương, đến đỗi người ta thấy xứ này tới mùa đi đâu cũng gặp xác xương cá mòi chất đống, rồi ví von: “Chữ nghĩa, văn chương không bằng xương cá mòi”. Và câu này từ xưa tới nay cứ cãi nhau chưa ngã ngũ. Người thì nói, nói vậy để khoe xứ mình nhiều cá mòi, người thì nói, nói vậy thì cho rằng xứ mình không trọng văn chương chữ nghĩa hay sao!?. Chợt nhớ câu nói xưa: “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”… Hay là vậy?

Ngày nay nghề cá và những người đi biển chúng ta đã có bước tiến vượt bậc theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa với “thuyền to máy lớn”, đánh bắt xa bờ, quyết theo kịp các nước trong khu vực, trên một đơn vị thuyền có thuyền trưởng, máy trưởng và các bạn thuyền, ai cũng rành rẽ về tầm ngư, định vị, các thiết bị thông tin liên lạc tầm xa… trở thành người “có chữ nghĩa”. Đọc lại đôi câu ca dao, tục ngữ thuở ông cha chèo ghe đi biển, để biết ơn người xưa mà yêu biển hơn, quyết tâm giữ gìn chủ quyền biển đảo quê hương và làm giàu từ biển.

Ghi chép: VÕ NGỌC VĂN

Ca Dao Tục Ngữ Bình Định

‘Bình Định nón Gò Găng

Bún Song thần An Thái

Lụa Đậu tư Nhơn Ngãi

Xoài Tượng chín Hưng Long

Mặc ai mơ táo ước hồng

Tình quê em giữ một lòng trước sau.

Bình Định có hòn Vọng Phu

Có đầm Thị Nai có Cù Lao Xanh.

Em về Bình Định cùng anh

Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa.

1.Muốn ăn bánh ít lá gai

Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi.

2.Bình Định có núi Vọng Phu Có Đầm Thị Nại có Cù Lao xanh.

3.Công đau công uổng công thừa Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan.

4.Mẹ ơi đừng đánh con đau Để con đánh trống hát tuồng mẹ nghe.

5.Ai về Bịnh Định mà coi Con gái Bình Định cầm roi đi quyền.

6.Ai về Bình định thăm bà Ghé vô em gởi lạng trà Ô long. Trà Ô long nước trong vị ngọt Tình đôi mình như đọt mía lau chúng tôi đi bờ lở một mình Phất phơ chéo áo giống hình trò

Ba Trò Ba đi học trường xa

Cơm canh ai nấu mẹ già ai coi

8.Chẳng tham ruộng cả ao liền Tham vì cái bút cá nghiên anh đồ.

Tiếng đồn Bình Định tốt nhà Phú Yên tốt lúa, Khánh Hoà tốt trâu

.Công đâu công uổng công thừa Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan

.Em về Đập Đá quê cha Gò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chồng

13.Anh về Đập Đá , Gò găng Bỏ em kéo vải sáng trăng một mình Tiếng ai than khóc nỉ non Vợ chàng lính thú trèo hòn Cù Mông

14.Chiều chiều én liệng Truông Mây Cảm thương Chú Lía bị vây trong thành

15.Non Tây áo vải cờ đào Giúp dân dựng nước xiết bao công trình

16.Cây Me cũ, Bến Trầu xưa Dẫu không nên tình nghĩa cũng đón đưa cho trọn niềm

17.Ngó vô Linh Đỗng mây mờ Nhớ Mai nguyên soái dựng cờ đánh Tây

18.Hầm Hô cữ nước còn đầy Còn gương phấn dũng , còn ngày vinh quang

19.Bình Định có đá Vọng Phu Có đầm Thị Nại có Cù lao Xanh Lụa Phú Phong nên duyên nên nợ Nón Gò găng khắp chợ mến thương

20.Bên kia sông, quê anh An Thái Bên này sông, em gái An Vinh Thương nhau chung dạ chung tình Cầu cha mẹ ưng thuận cho hai đứa mình lấy nhau

21.Cưới nàng đôi nón Gò Găng Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn Ai về Tuy Phước ăn nem Ghé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm

22.Rượu ngon Trường Thuế mê li Gặp nem Chợ Huyện bỏ đi sao đành

23.Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Gi Sông xanh, núi cũng xanh rì Vào Nam, ra Bắc ai cũng đi con đường này Nghìn năm gương cũ còn đây Lòng ơi! Phải lo nung son sắt kẻo nữa đầy bể dâu – Cầu Đôi nằm cạnh Tháp Đôi Dễ chi nhân ngãi mà rời được nhau

24.Tháp kia còn đứng đủ đôi Cầu còn đủ cặp huống cho tôi với nường ( nàng) Suốt bốn mùa xuân, hạ, thu, đông Thiếp ngồi dệt vải chỉ mong bóng chàng Dừa xanh trên bến Tam Quan Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu Ôm đàn gảy khúc Cầu hoàng Thiếp xin gõ nhịp để chàng lựa dây Bao giờ rừng quế hết cây Dừa Tam Quan hết nước thì em đây mới hết tình Dừa xanh sừng sững giữa trời Đem thân mà hiến cho đời thuỷ chung

25.Muốn ăn bánh ít nhân mè Lấy chồng Hòa Đại đạp chè thâu đêm Muốn ăn bánh ít nhân tôm Lấy chồng Hòa Đại ăn cơm củ mì

26.Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di Sông xanh núi cũng xanh rì Vào Nam ra Bắc cũng đi đường này chúng tôi về Phù Mỹ nhắn nhe Nhắn chị bán chè sao vậy chẳng lên?

Anh về dưới vạn thăm nhà

Ghé vô em gởi lạng trà Ô Long

chúng tôi về Bình Định thăm cha Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em

29.Quy Nhơn có tháp Chòi Mòi Có đầm Thị Nại chạy dài biển đông

30.Khéo khen con tạo trớ trêu

Nắn nguyên Bãi Trứng nhớ tổ tiên là Âu Cơ

32.Ai về thăm cảnh An Khê

Sông Ba chồng nhớ vợ nhà Sông Côn

Ca Dao, Tục Ngữ, Hò Vè Bình Định

   

1. Ca Dao Tục Ngữ, Hò Vè Bình Định: Con Người và Lịch Sử

Văn học dân gian, một mảng không nhỏ trong nền văn học Việt Nam đã có từ lâu đời là dòng suối con ngọt lành đổ về dòng sông xanh mẹ văn học. Ca dao, tục ngữ, dân ca, hò vè lại là một mảng không nhỏ nữa trong văn học dân gian bao gồm: Thần thoại, Cổ tích, Truyện cười, Ngụ ngôn. Tục ngữ, ca dao, dân ca, hò vè là tiếng hát bình dị, mộc mạc, phong phú của cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Trong phần tổng kết quá trình sưu tầm văn học dân gian ở Bình Định (miền Trung), người viết xin trình bày vắn tắt với trích dẫn một phần nhỏ sưu tầm được từ xã Nhơn Hậu, An Nhơn (với 360 câu ca dao, 120 câu tục ngữ, hò vè). Bình Định giáp ranh giới với Phú Khánh (bao gồm hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên). Non sông với những lằn ranh thay đổi theo lịch sử. Con người nằm trong hoàn cảnh ly tán. Bởi vậy, dân gian hát ru: Ai về Bình Định thăm cha Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em. Dị bản: Ai về Bình Định quê ta Phú Yên quê chị, Khánh Hòa quê em. ”Mẹ”, ”Chị” và ”Em” được trùng phùng. Hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên nhập lại thành Phú Khánh còn ”Cha” thì nhập vào với dì ghẻ ”Quảng Ngãi” thành ra Tỉnh Nghĩa Bình. Mỗi địa danh đều có một nét đặc sắc riêng biệt của nó về lịch sử, thắng cảnh và văn học khó mà lẫn lộn.

I. Bình Định: Con người và lịch sử: Đất Bình Định xưa thuộc bộ Việt Thường – một trong mười lăm bộ Văn Lang. Bình Định gắn liền với thành Quy Nhơn (Hoài Nhơn năm 1602, thời Nguyễn Hoàng) và gắn liền cái tên với lịch sử lừng lẫy một thời: Thành Đồ Bàn (còn gọi là Vijara-Chà Bàn – Kinh đô của Chiêm Thành). Trải qua bao cuộc huyết chiến đẫm máu tàn khốc giữa Việt Nam và Chiêm Thành, giữa anh em Bắc – Nam, Trịnh – Nguyễn, giữa hai họ Nguyễn Ánh và Nguyễn Tây Sơn; thành Quy Nhơn bị phá bởi Nguyễn Ánh và được đổi tên là thành Bình Định vào năm 1799. Lịch sử Quy Nhơn – Bình Định được ghi thêm vào một thành ngữ ”Một Vương, hai Đế” để ám chỉ nhà Tây Sơn gồm Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ với các danh tướng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân… Bên cạnh đó, Bình Định lại có thêm Mai Xuân Thưởng và phong trào Cần Vương với Bùi Điền, Nguyễn Cang, Nguyễn Hoá… cùng Trần Quý Cáp, Trịnh Phong của Khánh Hòa ghi vào lịch sử hai tỉnh những trang sách vẻ vang. Bao nhiêu vết tích (đổ rồi xây), bao nhiêu sự nghiệp (lên và xuống), bao nhiêu máu xương, nước mắt (thù và mình) đã tạo cho mảnh đất Bình Định một nét hào hùng riêng biệt ít nơi nào có. Văn học đi cùng lịch sử. Văn học Bình Định với mảng văn học dân gian (phần ca dao, tục ngữ, hò vè, đối đáp) vẫn sinh sôi, nẩy nở từ bối cảnh hào hùng nhưng cũng nhuộm màu thê lương, đậm đà sự duyên dáng vốn có của ca dao, dân ca; ý nhị của hò vè và không mất cái thâm thúy, sâu sắc của tục ngữ. Mảng này gồm ba phần: Thắng cảnh, Hương vị đặc biệt và Lịch sử:

Người đẹp phải moi óc để biết do chính là vua Bảo Đại xây. Ăn bánh xèo xong, đố lịch sử cũng đã, người ta quay về với thi nhân: Em về Ghềnh Ráng, em có nhớ dáng thi nhân Tuổi đời lận đận, mạt vận là ai kia drậy cà? (Nguyên lời kể ”Tuổi đời lận đận, mạt vần là ai kia drậy cà ?” Người chép xin được đổi một từ ”mạt vần” thành ”mạt vận” cho hợp nghĩa với cuộc đời tàn phế thương đau của Hàn Mặc Tử). Mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hoà dời ra Ghềnh Ráng là một nơi người để người hâm mộ đi về chia xẻ, thương xót kiếp phế nhân của một tài hoa có số phận hẩm hiu. Quy Nhơn có thành quách lịch sử. Quy Nhơn có mộ địa thi nhân. Quy Nhơn còn là nơi của ”Bàn thành tứ kiệt” trong tục ngữ: ”Nhất Yến, nhì Hàn, tam Lan, tứ Quách” (na ná như ”Nhất dáng, nhì da, thứ ba là mốt”) để ám chỉ bốn thi nhân: Yến Lan, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn. Quy Nhơn từ dạo ấy đã nổi tiếng là thành phố của thi ca. Những con số thứ tự, người viết nghĩ không phải để xếp hạng mà chỉ là cho suông câu, suông miệng. Nếu có thể, người viết xin thêm: ”Nhất Yến, nhì Hàn, tam Lam, tứ Quách, ngũ Thanh” (đó là nhà thơ Thanh Thảo). Quy Nhơn, thành phố của thi ca, của nét đẹp thiên nhiên với những tấm lòng chân chất, quật cường. Quy Nhơn là chứng nhân lịch sử đưa vào Bình Định những trang lịch sử kinh hoàng, thảm khốc.  

1. Thắng cảnh: Vì đây là bài viết sưu tầm nên toàn hầu hết, người viết chỉ ghi lại những gì ”mắt thấy, tai nghe” những lời kể, những câu ca dao. Những câu ca này, phần lớn có nhiều dị bản (theo tính đặc thù riêng của mảng tục ngữ, ca dao, dân ca). Quy Nhơn có rất nhiều thắng cảnh mà ca dao ghi lại: Quy Nhơn có tháp Chòi Mòi Có đầm Thị Nại chạy dài biển đông. Hay ướt át hơn: Đứng trên Quy Nhơn nhìn lại bán đảo Phương Mai Cạnh đầm Thị Nại nhớ ai hôm nào? “Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?” như một điệp khúc không dành riêng cho Bình Định nhưng bán đảo Phương Mai hay đầm Thị Nại với nguồn thủy sản hấp dẫn thì lại là của riêng Bình Định mà chẳng nơi nào có. Đầm Thị Nại ”nhớ ai” không ai biết nhưng nỗi nhớ đó chính là nỗi nhớ của lịch sử. Nhớ ai? Là nhớ những người đã đổ máu giữa hai cuộc chiến do hai dòng họ Nguyễn với Nguyễn Vương từ Gia Định ra Diên Khánh, tiến quân ra Quy Nhơn qua cửa Thị Nại chăng? Người kể không chắc chắn còn người viết chỉ ”đoán già, đoán non”. Nhưng hai câu ca dao này thì rõ ràng hơn: Khéo khen con tạo trớ trêu Nắn nguyên Bãi Trứng nhớ tổ tiên là Âu Cơ. ”Bãi Trứng” đưa chúng ta về ”Sự tích trăm trứng” – cổ tích mà cũng như thần thoại về những người Việt Nam cùng cha, cùng mẹ ”con Rồng, cháu Tiên” trên đất Việt Nam nói riêng và đất Bình Định nói chung. Nhìn cảnh nhớ người, nhìn vật nhớ lịch sử, câu ca dao này có giá trị như một chứng nhân nguồn gốc tổ tiên. Quy Nhơn quả có địa điểm du lịch là ”Bãi Trứng”. Nó gồm hàng ngàn hòn đá xanh, tròn nhẵn được xếp đặt rất công phu và khéo léo bởi bàn tay thiên nhiên làm du khách có thể liên tưởng đến một ”Hòn chồng” ở Đồng Đế – Nha Trang. Nếu Bình Định có ”Bãi Trứng” là ”Hòn vợ” thì ở Khánh Hòa có ”Hòn chồng” ứng với cái câu: Bình Định nghĩa vợ. Phú Khánh tình chồng Quy Nhơn triền sóng vỗ lòng núi sông. ”Bãi Trứng” nằm trong khu du lịch Ghềnh Ráng và lọt trong ”Bãi tắm Hoàng hậu”. Con tạo thật khéo trớ trêu nhưng nếu tạo hóa đã nắn ra một ”Hòn vọng phu” trong nắng, trong mưa làm nhũng lòng bao nhiêu người nhớ về cổ tích, đã tạo ra một ”Hòn chồng” ngàn năm sóng xô thì tại sao không thể cho ra một hòn vợ là bãi trứng của bà Âu Cơ? Nào Bãi Tiên, nào Tháp Cánh Tiên, nào khu Quy Hòa… với từng con sóng vỗ miên man… …Vào Ghềnh Ráng nhớ lại nàng Nam Phương hoàng hậu giăng màn… tắm ở đây. Ý ca dao như bổ sung cho ”Bãi Trứng” nhưng nghe sao có chút gì đó mai mỉa. Té ra, người ta đang ”trách nhẹ” vị vua cuối cùng của Nguyễn triều là Bảo Đại đã học cách Đường Minh Hoàng phung phí của cải mà cúc cung cho ”người đẹp” trong lúc nước nhà loạn lạc ”một cổ hai tròng” là Nhật – Pháp trước năm 1945. Rồi sau đó, người bản xứ cũng quay về tâm tình mặn mà của quê hương: Ai về thăm cảnh An Khê Sông Ba chồng nhớ vợ nhà Sông Côn. Nét đặc trưng của ca dao viết về quê hương thường mở đầu: ”Ai” đầu câu rồi ghép: Ai đi? Ai về? để biểu đạt tình cảm dạt dào mong muốn có người chia xẻ. Tại sao gọi hai con sông trên là vợ, là chồng; những người bản xứ suy đoán: Có lẽ vì mối quan hệ thân thiết giữa hai con sông này thông vào nhau như duyên chồng vợ: Cù lao xanh thương anh ở đảo Sông Hà Giao dạo khúc tâm tình. Mong sao hai đứa tụi mình Như mây với nắng bóng hình có nhau. Sông Hà Giao cũng là tên của sông Côn nhưng vì sao có hai tên như vậy thì người Quy Nhơn cũng chịu. Thế nhưng có một điều, người ta chắc chắn rằng: Con sông Côn vợ này dịu dàng lắm. Cô ta không tác yêu, tác quái mới dạo được “khúc tâm tình” với những người ở đảo. Những Hầm Hô, Sa Khổng Lồ, Hòn Ngang, Hòn Trống, Hòn Chiên, Hố Rùa… đã tạo nên vẻ đẹp thiên nhiên mà người đến thăm một lần qua, nhớ mãi! Đất trời nơi đâu thế nào, con người ở đấy thế ấy. Nếu thiên nhiên đã hậu đãi người Quy Nhơn, đất Bình Định thì người Bình Định, dân Quy Nhơn chẳng thể bạc bẽo ở tình người. Tình người ngọt lịm trong hương vị Quy Nhơn.  2. Hương vị đặc biệt của xứ Rùa: Những đặc sản ở vùng quê biển, người ta không lạ nhưng có một vài món lạ ở xứ Rùa mà nhiều người chưa có diễm phúc nếm qua. Đó là những món bánh dún, bánh gõ bột mì, bánh tráng sữa… có ở nông thôn Bình Định. Những bánh ít, bánh rế, bánh tai vạc, kẹo đỗ, chanh ngào đường… cũng đi vào ca dao: Thương em vất vả với cái bánh mõ bột mì Nhưng em đừng nghĩ anh chỉ vì này nọ kia. Anh ”drìa” đến huyện Hoài Ân Kiếm trà ”Cam Khổ” chia ngọt bùi cùng em. (Người viết đổi ”về” thành ”drìa” cho đúng với âm tiếng nẫu). Kẹo đỗ, bánh mõ Bình Định, người viết bài được thử qua nhưng ”Trà Cam Khổ” với cam lai thì… cam đoan chả ai mời người sưu tầm văn học này uống một hớp để thử xem hương vị đắng, ngọt tới mức nào! Nhưng câu thành ngữ này là chìa khóa ”vừng mè ơi, mở cửa“: ”Trái đắng khổ qua, bạn trà Cam Khổ”. Đọc lên là biết ngay hương vị loại trà này: Đắng nghét. Cây trà này mọc từ Núi Chúa ở Hoài Ân. Người Bình Định đã uống trà đắng này mà ”cam khổ” để ”chia ngọt, bùi cùng em” là khẳng định một tấm chân tình hiếm có. Đàn ông, con trai Bình Định chịu đắng. Đàn bà, con gái Bình Định chịu roi: Trai Quảng Ngãi. Gái Bình Định Roi Thuận Truyền. Quyền An Thái. Hay: Ma Bình Thuận. Cọp Khánh Hòa Gió Tu Hoa. Góa Bình Định. Đọc lên, người ta ngấm ngầm hiểu đàn bà con gái Bình Định là ”dữ dằn” không thể chọc ghẹo. Nét dữ dằn ấy lại có tính chất lịch sử: Ai về Bình Định mà coi Con gái Bình Định cũng biết đi roi, đi quyền. Dị bản: Ai về Bình Định mà coi Con gái Bình Định bỏ roi, đi quyền. Hoặc: Ai về Bình Định mà coi Con gái Bình Định cưỡi voi diệt thù. Một nét căn bản khác nổi bật vẫn là sự cần cù với một mái gia đình chăm chỉ, đầm ấm: Chồng chài, vợ lưới, con câu Bà ngoại đi xúc, cháu dâu đi mò. Dừa xanh Tuy Phước, Gò Bồi Chài, lưới, câu, xúc, mò con cá Bống mủn ăn cùng nồi cơm niêu. Món đặc sản này có lẽ không ai nỡ lòng mà ăn! Hơn nữa, món bánh xèo từ Nha Trang đã vượt mấy cái đèo: Rù Rì, Ruột Tượng, Cổ Mã, Đèo Cả, Cù Mông để ra món bánh xèo Quy Nhơn vàng rực, dòn khấy chưa ăn mà nghe tiếng ”xèo” đã chảy nước miếng, ngon não nùng: Thương em thân phận bánh xèo Tìm em, anh vượt cái đèo Cù Mông. Từ Nha Trang qua mấy cái đèo ngoằn nghèo đến đèo Cù Mông là tới Quy Nhơn. Chữ ”xèo” âm nghe sao mà ”èo uột” gán cho thân phận phụ nữ từ cái ”Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương đến cái bánh xèo Quy Nhơn cũng ”ba chìm, bảy nổi”, xèo tới, xèo lui, cháy lên, cháy xuống. Chúng đúng với thân phận thấp hèn, xót xa trong ca dao: Thương em thân phận con rùa. Trên đình đội hạc, dưới đình đội hia” hay ”Thương em thân phận con chim. Chim bay biển Bắc, anh lại đi tìm biển Nam”. Những ví von, ẩn dụ này nghe quen tai hơn ”Thương em thân phận bánh xèo”. Nét độc đáo của cao dao Bình Định là chỗ khác người như thế! Người viết thích cái câu này hơn: Anh về dưới Giã hồi hôm Gánh phân bỏ ruộng, gió nồm bay lên. Giã cũng là Quy Nhơn. Hình ảnh chàng trai đồng quê ”tranh thủ” bón phân cho lúa vào ban đêm nói lên sự cần cù đáng quý. Nó toát lên hết nếp sống chăm chỉ làm ăn, siêng năng cày cấy với công việc đồng áng được phân chia đồng đều: ”Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”. Đây chính là hình ảnh đẹp nhất của người nông dân Việt Nam một thời tay lấm chân bùn, đầu tắt, mặt tối. Cái chơn chất của người Bình Định cũng rất lý trí qua những câu hò vè mà các cụ già ngồi hát: Hò ơ… Nếu giỏi giang thì cho thiếp hỏi chàng Ba năm ông Hậu hờ…,

Ba năm ông Hậu chớ đố chàng là ai? Dĩ nhiên, người đáp phải nắm chút ít kiến thức lịch sử. Nếu không, chàng bị cho là ”dốt bỏ xừ”. Trả lời xong, chàng đố lại: Hò ơ… Em về Ghềnh Ráng có rảnh, có rang Ghé ngang bãi tắm Hoàng hậu hờ…, ghé ngang bãi tắm Hoàng hậu, anh đố nàng ai xây?

3. Những dòng hò vè nhuộm sắc màu lịch sử: Bình Định có câu: ”Nguyễn Nhạc vi vương. Nguyễn Huệ vi tướng”. Câu này cũng giống như tương truyền, Nguyễn Trãi thông minh đã dùng mỡ bôi vào lá cho kiến đục ăn mà thành mấy chữ: ”Lê Lợi vi quân. Nguyễn Trãi vi thần” để tập hợp lực lượng thống nhất chống nhà Minh xâm lược. Câu ”Nguyễn Huệ vi tướng” là chưa chính xác vì Nguyễn Huệ có tướng làm vua: Quang Trung hoàng đế là vị vua tài giỏi về cầm binh thần tốc nhất trong lịch sử Việt Nam chứ không phải có số làm tướng. Hầu hết, những người ở Quy Nhơn nói chung và Nhơn Hậu – An Nhơn nói riêng đều tự hào là quê hương của Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ. Họ đều ca ngợi, khâm phục Nguyễn Huệ tài giỏi và ”trí, nhân” hơn người anh cả Nguyễn Nhạc. Họ ghét Nguyễn Ánh với sự trả thù man rợ đối với nhà Tây Sơn nhưng không ghét tướng Nguyễn Ánh là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Võ Tánh – em rễ phò mã, là đại tướng của Nguyễn Ánh vì giữ thành Quy Nhơn không nổi nên tự thiêu trên lầu Bát Giác, còn Ngô Tòng Châu phải uống thuốc độc tử tiết để cứu lấy hơn tám ngàn binh sĩ bị vây trong thành bởi kiện tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu. Người dân Bình Định cao cả với nghĩa cử cũng rất độc đáo là: Thông cảm và thương tiếc vô hạn cho những người trung liệt: Trung trinh thật đáng tướng hiền Cảm thương ông Hậu thủ thiền ba năm. Dị bản: Ngó lên ngọn tháp Cánh Tiên Hỏi thăm ông Hậu thủ thiền vì ai? Hay: Ngó lên hòn tháp Cánh Tiên Cảm thương ông Hậu thủ thiền ba năm. Câu hò ông Hậu là ai chính là Hậu tướng quân Tả tiền dinh chưởng cơ: Võ Tánh phò mã. Người viết còn được nghe một loạt bài vè về nữ tướng Tây Sơn Bùi Thị Xuân và vè chàng Lía nhưng có vẻ không hợp với sử sách nên không chép. Người viết còn nhớ một chàng Lía ngày xưa: Chiều chiều én liệng Truông Mây Cảm thương chú Liá bị vây trong thành. Dị bản: Chiều chiều én liệng Truông Mây Cảm thương chú lính bị vây trong thành. Ám chỉ quận He Nguyễn Hữu Cầu với bài vè: Nghe vẻ, nghè ve, nghe vè chàng Liá Miệng mồm lia lịa, chân đá tiá lia… Bài vè này như để chỉ sự lanh lợi của một kẻ ngang tàng, nổi dậy nhưng nó chưa đúng với Nguyễn Hữu Cầu. Trong lịch sử, nhân vật này hoạt động ở Nghệ An trở ra nên không dính dấp gì đến chàng Lía Truông Mây ở Bình Định cả. Một cuộc chiến tranh thảm khốc xảy ra ở Tây Sơn đã xoá sổ một triều đại Chiêm Thành thời Lê Thánh Tôn tại thành Đồ Bàn, để lại những câu ngậm ngùi như tiễn đưa một dân tộc ra đi vĩnh viễn: Đồ Bàn trống đã sang canh Nhất Vương, nhị Đế lừng danh một thời. như tiếc nuối cho thời vàng son rực rỡ mà ngắn ngủi của dân tộc Chàm và triều Tây Sơn Nguyễn Huệ! Tập thơ ”Điêu tàn” của Chế Lan Viên với những hồn ma phiêu bạt và khúc nhạc ”Hận Đồ Bàn” bất hủ của nhạc sĩ Xuân Tiên qua tiếng hát Tú Nhi (Chế Linh) đã ra đời trong sự xúc động tột đĩnh của thi nhân và nhạc sĩ khi tìm lại bóng ”Người xưa đâu mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu… Triền sóng xô, muôn tiếng vang trong lúc đêm trường về”! Đồ Bàn của Chàm. Phan Rang cũng của Chàm nên có chung đặc sản là món ”Bánh rế”: Bánh Rế kể lể chuyện đời Mời anh xơi để nhớ thời Bồng Nga. Thời Chế Bồng Nga huy hoàng đã qua. Một triều sáng chói Tây Sơn Nguyễn Huệ cũng lùi vào dĩ vãng. Nhất vương Nguyễn Lữ tam đệ – một tướng không được coi là dũng cảm. Nhị Đế kia là một Trung ương Hoàng Đế Nguyễn Nhạc, hoàng huynh và một Đế nữa là Quang Trung Hoàng Đế Nguyễn Huệ tài ba yểu mệnh, nhị đệ. Hai dòng họ Nguyễn tranh nhau chữ “Đế” ròng rã nối tiếp thời vua Lê, chúa Trịnh. Một nước không thể hai vua, một nhà làm sao hai chủ? Thế là trận chém giết giữa anh em, chú cháu, con dì mãi mấy thế kỷ. Tây Sơn ghi lại tiếng thở dài chung cho ”Nhất vương, nhị Đế”: Nhâm Tý, Quý Sửu, Mậu Thân Nhất vương, nhị Đế lần lần quy tiên. Dị bản: Nhâm Tý, Quý Sửu, Mậu Thân Nhất vương, nhị Đế mãn phần quy tiên. (Người viết đổi ”mãn phần” thành ”lần lần” hoặc “dần dần” vì từ ”mãn phần” với từ ”quy tiên” là từ đồng nghĩa, khác âm). Tây Sơn chấm hết, Quy Nhơn – Bình Định mở ra một huyền thoại lịch sử khác về người anh hùng chống Pháp dưới hịch ”Cần Vương” của vua Hàm Nghi (một nhà không phải “Nhị Đế” mà là “Tam Đế”: Kiến Phước – Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh): Nước mắt Phú Phong chảy qua Phú lạc Đầu rơi còn tạc tiếng ông Mai. Người anh hùng ấy là Mai Xuân Thưởng và tên ông đã để lại tên đường. Quy Nhơn, quê hương anh hùng vì đã sinh ra những người anh hùng, hào kiệt sống mãi với nghìn năm. II. Tình người gởi lại xứ Quy Nhơn:

Đất An Nhơn có truyền thống đánh giặc từ lâu đời. Con người An Nhơn nói riêng và Bình Định nó chung đã gắn bó với ruộng đồng với biển xanh làm nên lịch sử cho một ”xứ nẫu” có tâm tình dạt dào đến não ruột: Ai về nhắn với nẫu nguồn Măng tre trên anh gởi xuống, dưới cá chuồn em mang lên. Ca dao, hò vè, tục ngữ Bình Định chắc chắn sẽ còn nhiều khám phá mới mẻ hơn, đặc sắc hơn về con người và lịch sử ở đây. Mảng văn học này đã và sẽ bổ sung vào nền văn học dân gian Việt Nam ít nhiều giá trị trên hai mặt: Nội dung và Hình thức với tình người ấm áp đầy thương mến. 

Quy Nhơn, tháng 3/1983 Ngọc Thiên Hoa

(Viết tiếp những dòng hai mươi ba năm trước) Tôi đã trở về nơi đây sau hai mươi năm trời xa cách. Quy Nhơn thành phố biển vẫn đêm ngày đưa đón người đi xa. Thành phố đã đổi thịt thay da sầm uất hơn ngày nào nhưng tiếng sóng vỗ vào bờ vẫn dội vào lòng tôi những ngày xưa thân ái. Những con còng hai mươi năm trước ”chắc nay đã về già. Cuối trường cây hoa sứ một mình rụng từng hoa”. Già trong nỗi nhớ thương từng con đường Nguyễn Huệ, Lê Hồng Phong, Phan Bội Châu, Trần Phú… dài theo từng kỷ niệm. Mái trường phố biển ngày xưa hiền hòa, khiêm tốn nay tráng lệ, huy hoàng… trở thành nỗi khắc khoải trong tôi. Những hòn đá trứng nơi ”Bãi Trứng” trong tay tôi hình như cựa quậy… Mùa hè chia tay thoáng chốc hai mươi năm! Khu Ghềnh Ráng vẫn thân ái chào đón người xưa mà lòng người nghe như tiếng mưa rơi rụng trong lòng. Khu Quy Hòa vẫn lặng lẽ đón nhận những cuộc đời bạc phước như đã từng mở rọng vòng tay đón nhận một thi nhân Hàn. Ngôi mộ Hàn đơn sơ nhìn xuống Ghềnh nghe sóng hát mãi khúc Kinh Cầu! Tháp Cánh Tiên! Những ngọn tháp Chàm sừng sững, hiên ngang trong sương gió. Tôi chạm tay vào đó cầu xin được làm kẻ tiễn sau cùng! Dân tộc nào mất nước chẳng thương đau! Tôi cũng đã bước trên bờ thành một Kinh Đô tàn phế và lòng lâng lâng khi đi vào nhà Bảo tàng di tích Tây Sơn. Tôi đã quắc mắt nhìn vào quá khứ dụng hình tàn bạo của kẻ chiến thắng và cuối đầu lặng lẽ rơi nước mắt dưới chân vợ chồng người nữ tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu – Bùi Thị Xuân anh hùng. Bao la vẫn là biển. “Biển Quy Nhơn bọt sóng trắng Quy Hòa!”. Lịch sử đi qua… vô tình ném trả những kỷ niệm xa xăm còn in dấu vô hình! Quy Nhơn! Quê hương – tình yêu tuổi học trò và một thời tuổi trẻ. Những ai còn, ai mất vẫn là nỗi ngậm ngùi cho kẻ đi xa. Ai về Bình Định quê cha Phú Yên quê mẹ. Khánh Hòa quê em. Phú Khánh đã trả lại tên cho em. Nghĩa Bình cũng quay vể những ngày chưa tách tỉnh. Ai sẽ trả lại cho ta cái Hồn người đã mất từ những tháng ngày không êm ả để hồn ta chịu nhập về thân xác của mình! Quy Nhơn! ”Nơi đó không là nơi ta sinh ra. Nhưng nơi đó là nơi ta từng nghe thành phố thở. Đã rời xa nhưng sao ta vẫn thấy nhớ một đời. Quy Nhơn hỡi Người! Ta gởi lại tháng năm yêu”./.

Quy Nhơn, tháng 3/1983 Lisle, tháng 3//06 Ngọc Thiên Hoa Chân thành cám ơn tới: – Các bác xã Nhơn Hậu – An Nhơn, Bình Định đã cung cấp phần ca dao, tục ngữ, hò vè, đối đáp. – Nhà truyền thống Tây Sơn, Quy Nhơn. – Kính cám ơn sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Xuân Nhân, thầy Huỳnh Văn Tới (Khoa Ngữ Văn ĐHSPQN) phụ trách phần Văn học dân gian VN năm 1983. Tư liệu tham khảo có sử dụng: – Việt Nam sử lược (Trần Trọng Kim, Nxb VHTT – 1999). – Việt Nam quê hương Bình Định mến yêu (vietshare.com, quehuong.org).

 Xin trân trọng cám ơn.

Thơ thằng Lía

(Tục gọi Dương Doan Văn Lía – Cử Hoành Sơn soạn)

Ngàn năm dưới bóng thái dương, Biết bao là sự lạ thường đáng ghi, Noi nghề hàng mặc bấy nay, Một pho dị sự vắn dài chép ra. Trước là giải muộn ngâm nga, Sau nêu gương nọ đặng mà soi chung. Xưa kia có một phú ông, Vợ chồng chuyên một nghề nông nuôi mình, Bấy lâu loan phụng hòa minh, Xóm làng kiêng nể tánh tình thiện lương. Tuy là sành sỏi ruộng nương, Ông bà xấu số gặp đường chẳng may, Thuở trước cũng chẳng thua ai, Tiền dư bạc sẵn tháng ngày thung dung, Ruộng vườn khai khẩn khắp cùng, Thôn lân đều thảy có lòng bợ nâng. Đến nay nhằm buổi lao lung, Ruộng nương thất phát vô cùng thảm thương, Tháng ngày khổ hại trăm đường, Bảy năm chịu sự tai ương nguy nàn, Bấm gan cam chịu gian nan, Vợ chồng đau đớn đoạn tràng thiết tha. Lần hồi ngày lụn tháng qua, Nghèo nàn túng tíu gẫm đà thói quen, Thét rồi cũng chẳng than phiền, Cắn răng mà chịu đảo điên qua hồi. Lão mụ tuổi đã lớn rồi, Vợ bốn mươi chẵn chồng thời bốn ba, Đêm ngày lo tính gần xa, Chẳng con kế tự thật là đáng lo, Choanh ngoảnh chồng vợ đơn cô, Tuổi già sức yếu biết nhờ cậy ai? Muộn màng tuổi lớn trễ chầy, Còn chi mong việc nghén thai nữa rồi! Lão rằng: “Đáng trách hận trời, Chẳng hay ổng ghét chi tôi chăng là ? Có đâu khiến việc xót xa, Thình lình chịu nỗi cửa nhà suy vi Đang cơn giàu có ai bì, Bỗng đâu sanh việc gian nguy lần lần. Bạc tiền thôi cũng chẳng cần, Chỉ không con cái muôn phần xót đau. Hiềm nay đầu bạc tuổi cao, Gần sa miệng lỗ ai đâu cậy nhờ? Xiết bao ảo não lòng tơ, Xiết bao thảm đạm âu lo ưu phiền.” Mụ rằng: Ông ráng dằn yên, Hết lòng cầu khẩn hoàng thiên xem nào! Tấc thành viễn thấu trời cao, Phúc hồng nhỏ xuống may đâu biết chừng.” Vợ chồng bàn luận đục trong, Cả hai lão mụ thành lòng vái van: “Nếu may nhờ phước Thiên Hoàng, Cho sanh con trẻ mới an sở nguyền, Chúng ta đều thảy đức hiền, Bấy lâu giữ dạ rất nên nhơn từ. Thành tâm phải động lòng trời, Khẩn may xem thử đây rồi ra sao?” Mụ rằng: “Non nưóc ca dao, Bấy lâu đồn đãi miễu nào trên non, Bất kì ai đến cầu con, Thảy đều đắc nguyện tiếng đồn không sai, Để tôi dò đến miễu này, Khẩn cầu van vái sau này xem sao?” Lão rằng: “Mụ khá lo âu, Nhang đèn sắm sửa ngõ hầu dời chơn, Đường đây lên tới đầu non, Gian nguy hiểm trở có hơn dặm tràng Bền lòng chớ quản gian nan, Ráng lên miễu thánh vái van khẩn cầu” Mụ vâng sửa soạn trước sau, Nhưng thiếu tiền bạc khó âu vô cùng, Lão rằng: “Còn cái nồi đồng, Đem lại anh cả ngõ phòng bán đi. Cũng không nên tiếc làm gì, Để chẳng dùng tới để chi trong nhà!” Lão ông đốc hối mụ bà, Cực bằng chẳng đã mới là nghe theo, Lòng mụ buồn biết bao nhiêu, Nhưng chồng đã định phải chiều ý ông. Mụ vào xách cái nồi đồng, Đến nhà ông cả đục trong giãi bày: “Nay tôi thưa thật anh hay, Chúng tôi nghèo khó tháng ngày khổ nguy, Túng bần chẳng nói làm chi, Hiềm không con cái sau đây tuyệt dòng. Tôi vì lo lắng họ chồng, Cho nên buồn bã trong lòng nào an, Sợ khi già yếu gian nan, Không con hiu quạnh gia đàng hôm mai Cho nên thảm đạm bi ai, Vái van cầu khẩn cao dày xin con. Nghe người đồn ở trên non, Có miễu linh hiển lòng son rất đành. Nay tôi toan đến miễu linh, Đặng dưng hết tấm dạ thành vái van Hiềm không tiền sắm đèn nhang, Thật là trong dạ xốn xang vô cùng. Của xưa còn cái nồi đồng, Nên đem theo đó chỉ mong đồng tiền. Xin anh mở dạ đức hiền, Làm ơn mua giúp rất nên ơn dày.” Ông cả nghe mấy lời này, Cười rằng: “Quả thật chằng ai lạ lùng, Nghe qua cảm động bấy lòng, Giúp tiền cho đó chớ không mua nồi.” Nói năng hòa nhã tươi cười, Lấy trao một lượng khúc nôi phân liền: “Lòng tôi thương kẻ đức hiền, Giúp cho đó thỏa lòng nguyền đấy thôi, Chớ không chi sá cái nồi, Thôi khá lấy bạc phản hồi cho xong” Mụ nghe tỏ rõ đục trong, Cám tình cám nghĩa ròng ròng lụy rơi, Cúi chào trỗi bước chơn lui, Trong lòng luống những ngậm ngùi nào an. Bươn bả về tới gia trang, Cùng chồng thuật rõ mọi đàng trước sau Lão nghe cảm bấy nghĩa sâu, Khen lòng anh cả xiết bao hữu tình Vợ chồng bàn bạc hắc minh, Mụ bèn quảy gói thượng trình bôn ba. Nhang đèn một gói kia là, Miễu linh đến đó đặng mà cầu con. Thiên hạ lên xuống trên non, Thật là tập nập tiếng đồn không sai. Lòng mụ mừng rỡ nỗi may, Nhìn xem phong cảnh chốn này rất ưng. Nếu không linh hiển vô cùng, Lẽ đâu thiên hạ đến đông thế này? Chắc là hiển hách chẳng sai, Cho nên người mới lên đây khẩn nguyền. Mụ lão lắc ống được liền, Lạy thần lạy thánh cầu nguyền đã xong, Cầm xăm vào thẳng liêu trong, Cậy thầy đoán thử cho thông đuôi đầu. Thầy xem xăm nọ giây lâu, Chậm rãi giải rõ âm hao chánh tà: “Xăm này ta đoán sâu xa, Ấy thật là bà có ý cầu con. Khá nên tích đức tu nhơn, Thiên tùng nhơn nguyện chẳng còn lo chi, Làm đoan làm phước từ đây, Sau bà sẽ đặng con trai nối dòng.” Lão bà rõ thấu đục trong, Rất nên hớn hở toại lòng biết bao Công đức vội vã tay trao, Lật đật từ giã cúi chào trở ra, Phăng phăng trỗi bước về nhà, Vì mừng quên lửng đàng xa nhọc nhằn. Trọn ngày lao nhọc khó khăn, Về đến gia nội hân hoan vô cùng, Đuôi đầu thuật lại cùng ông, Mấy lời thần dạy vợ chồng bàn nhau, Tương lai tuy chửa biết sao, Nhưng nay nghe vậy dễ nào chẳng vui. Lão rằng: “Mong ở Phật Trời, Cho sanh một trẻ nối đời về sau, Kẻo mà đầu bạc tuổi cao, Mà không con cái lòng nào lại an.” Trót đêm vui vẻ luận bàn, Từ đây chờ đợi lo toan làm lành. Thu sang hè đến chóng lanh, Ba năm chẳng thấy trong mình nghén thai, Lão mụ buồn bã bi ai, Lời thần vô hiệu ngày nay mới tường. Bà rằng: “Vô phước lạ thường, Nay đà tuyệt vọng dạ buồn xiết bao, Ai nấy am tự khẩn cầu, Thảy đều thỏa dạ có đâu như mình.” Lão rằng: Thôi hãy cam đành, Số trời định vậy thảm tình ích chi!” Mụ lão chẳng ngớt sầu bi, Hằng đêm van vái chẳng này nhọc tâm, Lần hồi cho đến bốn năm, Tưởng đâu tuyệt tự đành cam với phần, Chẳng ngờ thọ kết nhâm thần, Thình lình có nghén thỏa tâm vô cùng. Mụ bèn thuật lại cùng chồng, Nỗi mình có nghén toại lòng xiết bao. Nghe qua lão dễ tin nào, Cho đến bốn tháng về sau mới tàng. Thật mụ có nghén rõ ràng, Bây giờ chi xiết hân hoan thỏa tình. Rằng: “Trời phật cũng thương mình, Cho nên mới nhỏ phước lành cho ta, Chờ khi nở nhụy khai hoa, Dầu nam hay nữ cũng là mừng vui.” Ngày qua tháng lại lần hồi, Đã đúng mười tháng khác đời hơn ai, Mười tháng thêm đúng mười ngày, Mới là sanh đặng một trai thỏa lòng. Bà rằng: “Thỏa nguyện lòng son, Nay tôi với lão chẳng còn thở than, Tuy là con kẻ bần hàn, Nhưng xem chẳng khác bạc vàng báu châu, Đặt tên phải chọn tiếng nào, Cho không tổn đức ta hầu đặt con.” Lão ngồi ngẫm nghĩ nguồn cơn, Vui cười bày tỏ thiệt hơn sạ tình: “Văn Lía đặt tên con mình, Chẳng hay mụ nó có đành cùng chăng?” Mụ vui mừng rỡ đáp rằng: “Tự ông chọn lựa há ngăn mà phòng!” Đặt tên Văn Lía vừa lòng, Lão mụ nuôi dưỡng vô cùng tưng tiêu, Từ mai cho đến ban chiều, Thay phiên bồng ẵm chắt chiu thỏa lòng. Thằng Lía chẳng đẹp chẳng không, Mặt mày đề đạm giống ông hơn bà, Lại thêm săn chặt thịt da, Càng ngày càng lớn nay đà bốn xuân. Vợ chồng tuy chịu khổ bần, Nhưng có thằng Lía trăm phần đặng vui. Lão già cực nhọc vô hồi, Làm thuê làm mướn cho người nuôi thân. Mụ thì hôm sớm gian truân, Hái rau bắt ốc ngày lần tháng qua. Mấy thu lão cũng đã già, Văn Lía mười tuổi lão đà quy tiên, Mụ già chi xiết thảm phiền, Khi chồng tạ thế bạc tiền vốn không, Thật là nhiều nỗi cực lòng, Đưa ma tuần tự vô cùng lo âu Cút côi trong lúc thảm sầu, Xóm làng thương xót lẽ nào bỏ qua. Thảy đều giúp đỡ lão bà, Mãn khi tang chế cực ba năm tràng, Mẹ con rõ thiệt gian nan, Chòi tranh vách hé trăm đàng khổ nguy. Nhìn con chi xiết ai bi, Vì chưng thằng Lía lạ kì hơn ai, Tánh tình rắn mắt quả tay, Con nít khắp hết xóm nầy đều kiêng. Tánh nó quả thật chẳng hiền, Thường hay sanh sự rất nên cộc cằn Nhưng nó lòng hiếu vô ngần, Nhờ mẹ rầy mắng mới ngăn bớt chàng. Văn Lía đánh hết bạn trang, Đứa nào cũng sợ chẳng thằng nào không, Thằng Lía đã nổi tiếng hung, Xóm làng biết mặt nên không mến chàng. Thường ngày du hí ngoài đàng, Chơi đình phá miễu hung hoang vô cùng Mẹ già răn dạy hết lòng, Song tánh Văn Lía dữ hung chẳng chừa. Mụ lão chi xiết xót chua, Tấc lòng lo lắng sớm trưa ưu phiền: Trong nhà chẳng trự bạc tiền, Bình bồng thằng Lía rất nên hoang đàng. Cùng con hết nỗi thở than, Hăm he răn dạy mọi đàng phải chăng Văn Lía ngỗ nghịch vô ngần, Có mặt còn sợ nhược bằng không thôi. Lão bà hiền đức vô hồi, Xóm làng lớn nhỏ mọi người nể kiêng Nhưng bị thằng Lía chẳng hiền, Thành ra thiên hạ cũng phiền bà luôn. Văn Lía ngày tối đứng đường, Đánh người hiếp chúng lề thường dữ thay. Mụ lão kêu Lía giãi bày: “Sao con chẳng đổi chẳng thay tánh tình, Mẹ đây tánh rất hiền lành, Sao con hung dữ bất bình dại ngây? Khuyên con tự hối từ rày, Nếu mà cứ vậy sau này khổ thân. Mẹ nay già yếu trăm phần, Còn đây nào biết lánh trần nay mai! Nếu con hung tợn vầy hoài, Xóm làng người ghét sau này nhờ ai? Con ơi, mẹ nói con hay, Con tua khá sớm đổi ngay tánh tình.” Thằng Lía thưa lại hắc minh: “Mẹ chớ có nhọc lòng thành lo toan, Tuy con còn nhỏ cơ hàn, Ngày sau khôn lớn tầm đàng nuôi thân. Xóm làng thương ghét há cần, Chí con toan tính mọi phần đã xong: Một mai con trẻ lớn khôn, Con sẽ có thế vô cùng hiển vinh.” Nghe qua khẩu khiếu con mình, Mụ bà có ý giựt mình phân qua: “Con đừng tính việc cao xa, Sự đời trước mắt kia mà không hay Tài ba chi cái thằng mày, Tấm thân dốt nát sau này khó khăn Sợ làm chẳng đủ mà ăn, Tính chi vinh hiển oai vang thêm buồn.” Thưa rằng: “Vốn mẹ chưa tường, Thiếu chi kẻ dốt toại đường hiển vinh Ở đời phải biết sức mình, Họ có ăn học thông minh họ nhờ, Con tuy dốt nát không lo, Con làm theo dốt đặng cho họ tường!” Thấy con văn nói khác thường, Mụ lão trong dạ lo buồn nào an, Nghĩ mình xấu phước rõ ràng, Sanh ra con trẻ ngang tàng ương thay! Văn Lía tánh lạ ai tày, Tuy là hung dữ lâu nay tiếng đồn, Nhưng mà hiếu thảo ai hơn, Nhiều gương trông thấy vẫn còn nhớ ghi. Hành hung đang lúc ra oai, Hoặc đánh, hoặc chửi, hoặc rầy cùng ai. Dầu trời nó chẳng sợ thay, Nói chi làng xóm làm oai nó vì Chết sống nó chẳng kể gì, Hễ là nói đánh tức thì ra tay. Dầu ai thịnh nộ la rầy, Nó chẳng kiêng sợ một ai đâu là, Ai biết chạy đến mụ bà, Hễ Lía thấy mặt mẹ già thì kiêng. Dầu cho đang dữ cũng hiền, Trong lòng khiếp sợ rất nên kinh hoàng. Thằng Lía tâm tánh dọc ngang, Mẹ già buồn bã lo toan vô cùng. Ngày nọ thằng Lía buồn lòng, Đi khắp làng xóm ngỏ phòng giải khuây. Nó vì dang nắng tối ngày, Cho nên mày mặt chơn tay đen hù, Thật là ham việc vui chơi, Lía mười lăm tuổi vô hồi dại ngây. Lía ra cho tới làng ngoài, Gặp con chú Xã cả hai vui vầy. Thằng Lía tánh sẵn hay gây, Giành chơi sao đó ra tay đánh người, Đánh con chú Xã thằng Tư, Lỗ đầu phun máu vô hồi gớm ghê. Thằng Tư khóc lóc thảm thê, Bon bon chạy về phòng méc với cha. Chú Xã tức giận thay là, Thấy con bị bịnh xót xa tấm lòng. Vội vàng trỗi bước thẳng xông, Đến nhà thằng Lía hành hung vang dầy. Mụ già nào rõ vụ này, Mềm mỏng hỏi lại cho hay sự tình: “Chuyện chi Xã phải bất bình? Xin Xã phân lại đành rành thấp cao. Tôi đây có lỗi chi sao, Cho nên Xã giận đuôi đầu khá phân?” Xã nghe êm thuận phân trần: “Mụ thiệt không lỗi trăm phần hiền lương. Việc đó tôi cũng hãn tường, Thuở nay khen mụ vẹn đường đức nhân. Con mụ hung dữ nhiều lần, Thằng Lía ngang dọc chẳng cần kể ai Con tôi nó đánh thế này, Lỗ đầu phun máu mặt trầy thấy không? Thật mụ xấu phước vô cùng, Sanh con dường ấy mang gông có ngày! Sao mụ không đánh dạy rầy, Để cho thằng Lía quá tay dữ dằn? Nó thật ngang dọc vô ngần, Sao mụ không đánh dạy răn cho chừa?” Não nề nào dám hơn thua, Mụ bà trong dạ xót chua vô cùng, Hai hàng nước mắt ròng ròng, Thưa lại cùng Xã đục trong sạ tình : “Thân già thiểu phước gia đình, Sanh con hung tợn thất tình bi ai, Nó đâu đếm kể la rầy, Phải nào thả lỏng thường ngày dạy răn, Nhưng nó quen tánh dữ dằn, Hoang đàng khó nổi đón ngăn được nào. Xin Xã thương tưởng tình nhau, Bỏ qua vụ nọ biết sao bây giờ! Đêm ngày thảm đạm âu lo, Sanh con cũng tưởng cậy nhờ về sau Chẳng dè bạc mạng làm sao, Thằng Lía thật chẳng khác nào quỷ yêu. Đau lòng kể biết bao nhiêu, Xin Xã lượng thứ mọi điều bỏ qua. Thân này tuổi tác đã già, Nay mai xuống lỗ thật là chẳng hay, Sanh con ngỗ nghịch nước này, Lòng già đau đớn đắng cay vô cùng.” Dứt lời nước mắt ròng ròng, Làm cho chú Xã động lòng thương tâm, Ngẩn ngơ giây lát rồi phân: “Thôi mụ mựa chớ buồn thầm sầu riêng, Bớt điều thảm đạm ưu phiền, Hơi đâu chua xót chớ nên âu sầu, Hư nên do ở trời cao, Thật bà xấu phước biết sao bây giờ Thấy bà tóc bạc phơ phơ, Khiến tôi thương tưởng xót xa phận bà Nghiệt oan kiếp trước của bà, Mới sanh thằng Lía trong nhà vầy đây. May là bà gặp tôi đây, Phải gặp người khác thế này khó an Vậy bà khá ráng dạy răn, Dạy cho nó bỏ hung hăng với người. Thôi khuyên bà chớ ngậm ngùi, Không lẽ tôi nói nặng lời bà đâu, Nghĩ tình cố cựu lân giao, Dẫu con phản bộ biết sao bây giờ” Mụ già chi xiết âu lo, Tấm lòng thổn thức ngẩn ngơ thảm sầu Thằng Lía gia nội bước vào, Thấy mẹ buồn bã xiết bao lo lường Ân cần hỏi lại mọi đường: “Chuyện chi mà mẹ thảm buồn xin phân?” Mẹ già sầu thảm trăm phần, La rằng: “Con thật chẳng tuân theo lời, Mẹ nay tuổi đã già rồi, Chỉ có con đó nhờ hồi ốm đau Cửa nhà túng trước hụt sau, Giúp vùa sao chẳng lo âu chuyện gì? Sao không kiếm chước đỡ nguy, Hoang đàng chi địa kể chi mẹ già. Con không suy xét sâu xa, Ra đường gây họa thật là vô lương Đánh con chú Xã quá ương, Người đến mắng vốn trăm đường xấu xa. Thật mày gieo họa cho ta, Quả nhà vô phước mới là sanh mi.” Sụt sùi giọt lụy lâm li, Làm cho thẳng Lía xiết chi đau lòng, Lạy mẹ thưa lại đục trong: “Xin mẹ chớ có nhọc lòng lo âu, Con biết xét chớ không đâu, Nhưng con còn nhỏ biết sao bây giờ Xin mẹ bớt thảm lòng tơ, Con xin nghe mẹ đặng cho vui lòng Tánh con không phải dữ hung, Song le con trẻ vốn không nhịn người Thà là con chết thì thôi, Còn để họ hiếp nhớp đời chịu đâu!” Nghe con ngổ ngạnh lòng đau, Mụ rầy: “Con thật xiết bao dại khờ Mình đây đang lúc thất cơ, Muôn điều phải nhịn để lo sự mình Chớ nên ỷ sức đua tranh, Nghèo nàn há dễ chống kình lợi ai Mẹ sanh có một mình mày, Nếu con sanh sự chẳng may còn gì? Mấy lời mẹ dạy khá ghi, Chớ nên gây gổ làm chi với người. Đang cơn nghèo khó vô hồi, Trăm điều nhẫn nhịn ở đời mới an Từ rày con khá lo toan, Kiếm việc làm lụng hung hoang ích gì” Văn Lía hối hận đang khi, Cúi đầu lạy mẹ bước đi ra ngoài, Trong lòng chi xiết ai hoài, Lời răn dạy đó từ đây ghi lòng Vừa đi vừa xét đục trong: “Phương chi làm lụng ngỏ phòng nuôi thân? Thật là khốn bấy chữ bần, Làm cho ta phải khổ tâm với mày Xiết bao đau đớn đắng cay, Làm sao nuôi mẹ tháng ngày cho qua.” Văn Lía suy xét gần xa, Vừa đi ngang trước cửa nhà Hương Thân, Thình lình chó vện sủa rân, Làm cho Văn Lía kinh tâm hãi hùng Thằng Lía định tĩnh tinh thần, Cúi lượm cục đá đề phòng hộ thân. Chó vện hung tợn muôn phần, Nhảy a táp Lía, Lía gần nguy nan, Lía bèn lách trái gọn gàng, Cầm đá liệng đại ngỏ toan giữ mình. Con chó bị liệng chẳng kinh, Quyết rượt theo Lía tỏ tình hung hăng Văn Lía chẳng nói chẳng rằng, Lượm cục đá khác chống ngăn hộ mình Liệng chó trúng giữa tam tinh, Chó kia vỡ óc đã đành thác oan. Văn Lía vừa mới đặng an, Nhưng nỗi chó chết lo toan trong lòng, Vốn nó cũng biết nào không, Hương Thân là kẻ dữ hung hơn người Liệng con chó đã thác rồi, Thằng Lía sợ tội chơn dời bâng khuâng, Trong lòng lo liệu trăm phần, Hương thân theo kịp khổ thân dễ nào. Văn Lía thơ thẩn bước mau, Bồi hồi chưa biết đi đâu lánh mình, Thình lình bị thộp hãi kinh. Ngó ngoái lại nhìn là chú Hương Thân! Hương Thân mặt giận hầm hầm, Nạt vang: “Mầy thật lắm phần hung hoang! Mày liệng chó chết rõ ràng, Sao mày lớn mật to gan quá vầy? Mày phải đền lại cho tao, Bằng không mày phải nguy tai bây giờ!” Thằng Lía suy xét lai do, Chó đâu đền lại âu lo vô cùng, Nhẹ lời thưa lại đục trong, Hết lời năn nỉ ngỏ phòng xin dung: “Vốn tôi chẳng phải dữ hung, Bởi chó ấy điên chớ không phải hiền, Thấy tôi nó nhảy chụp liền, Trong cơn rối loạn rất nên kinh hoàng, Mau chơn bỏ chạy vội vàng, Nó theo kế cận nguy nan thay là Xin chú xét lại gần xa, Tôi mà liệng nó chẳng qua buộc lòng, Ai ai cũng biết nào không, Con chó của chú dữ hung vô cùng Tôi lỡ trong lúc rối lòng, Liệng dọa nó sợ ngỏ phòng lánh đi, Chẳng dè nó lại chết đi, Thật tôi quá rủi muốn chi nỗi này” Hương Thân thấy nói dông dài, Dến cho thằng Lía bạt tay nói rằng: “Thật mày khôn quỷ vô ngần, Xảo lanh lỗ miệng nói năng nhiều lời Chó tao nay đã thác rồi, Lần này tao thứ sau thời khó dung.” Dứt lời trở bước thẳng xông, Thằng Lía trong dạ vui mừng xiết bao. Hương Thân không phải hiền đâu, Nhưng người đã xét trước sau cạn rồi: “Thằng Lía nghèo khó vô hồi, Dầu mà đền nó uổng lời uổng công, Nó không một trự một đồng, Đóng gông đóng nỏ gẫm không ích gì Văn Lía mừng rỡ xiết chi, Thoát qua tai nạn khác gì lên mây, Ra đi từ lúc ban mai, Đến chiều bụng đói trở ngay về nhà. Mẹ già thấy trẻ hỏi qua: “Đi đâu con nói mẹ già đặng hay? Đi đâu đi trọn cả ngày, Mẹ già trông đợi ai hoài xót xa!” Văn Lía bị rủi vừa qua, Trong lòng thảm đạm thiết tha vô cùng, Thưa: “Con lo lắng chẳng không, Muốn đi tìm việc ngỏ phòng làm ăn, Nhưng mà con rủi vô ngần, Tìm không ra chuyện khó khăn thay là.” Mẹ già bày tỏ gần xa: “Con ôi! Nhìn lại trong nhà nguy nan Làm sao thân phận đặng an, Làm sao đỡ dạ nghĩ càng xót đau. Mẹ nay đầu bạc tuổi cao, Thật chẳng còn có sức nào nuôi con Nay con tuổi đã lớn khôn, Lo làm nuôi mẹ đỡ cơn túng cùng. Mẹ nay đang lúc đói lòng, Chẳng còn một trự một đồng thảm thay Mẹ chịu nhịn đói ngày nay, Chỉ ăn có một củ khoai đỡ lòng.” Lời mẹ như xói tâm trung Khiến cho Văn Lía não nùng thiết tha Rưng rưng lụy ứa thưa qua: “Xin mẹ an dạ ở nhà chờ con” Dứt lời trỗi bước dời chơn, Mẹ già vội vã kêu con hỏi rằng: “Đi đâu con khá bày tàng, Cho mẹ biết chốn ngỏ an tấc lòng? Văn Lía thưa lại đục trong: “Con đi chưa tính trong lòng đi đâu.” Mẹ già căn đặn trước sau: “Con nghe lời mẹ thấp cao chỉ bày, Tuy là nghèo túng nỗi này, Nhưng phải giữ dạ sạch ngay cho toàn, Chớ nên vì buổi nguy nan, Mà làm những việc tham gian của ngựời. Dầu cho có thác chịu thôi, Chớ những điều quấy trọn đời lánh xa” Văn Lía lạy mẹ thưa qua: “Xin mẹ an dạ con đà gắn ghi.” Bồi hồi vội bước chơn đi, Trong lòng buòn bã đoạn tràng thiết tha, Bỗng nghe văng vẳng nẻo xa, Tiếng người cười nói thật là rộn rang, Văn Lía bước đến vội vàng, Thấy nhà phú hộ vẫn đang vui mừng, Đám cưới thiên hạ quá đông, Uống ăn rần rộ vô cùng thỏa vui Ngậm ngùi suy xét khúc nôi: “Nhà này giàu có ắt ngưòi đức nhân, Âu ta vào đó nhờ thân, Cầu người thương xót thi ân đỡ mình.” Phú ông giàu có gia đình, Song le chằng đặng hiền lành đức nhân, Thật người ích kỉ muôn phần, Lại thêm có tánh khi nhân thay là. Tuy là giàu chẳng ai qua, Song việc bố thí ai mà nhờ đâu! Thôn lân quanh quẩn bấy lâu, Người người trông thấy sang giàu nể kiêng, Nhưng thấy chẳng đặng đức hiền, Cho nên ai nấy để phiền dạ riêng Văn Lía nào rõ sạ duyên, Tưởng đâu giàu có đức hiền như ai Họ hàng ăn uống đông dầy, Văn Lía vội vã bước ngay vào nhà, Bầy chó rộn rực tủa ra, Nhảy chòm bấu sủa rất là hung hăng. Văn Lía kinh sợ vô ngần, Tới lui chẳng tiện khó khăn trăm phần, Chó mực cắn tét ống quần, Làm cho Văn Lía kinh tâm sảng hoàng. Phú hộ trông thấy rõ ràng, Bưóc ra la chó nạt vang hỏi rằng: “Thằng này lớn mật to gan, Đi đâu mau khá bày tàng thấp cao? Chuyện chi mày tới nhà tao, Ăn bận rách rưới khác đâu ăn mày!” Văn Lía thưa lại lời này: “Tấm thân cùng khổ nguy tai vô cùng, Nghe đồn lượng cả phú ông, Đến xin cứu vớt mở lòng đoái thương. Tôi nay đang lúc tai ương, Mẹ già con nhỏ trăm đường gian nan, Cút côi thân phận cơ hàn, Thật là túng bấn trăm đàng xót xa. Tội nghiệp mẹ góa ở nhà, Mấy ngày chịu đói rất là đau thương Thân hèn đi khắp tứ phương, Kiếm nơi ở đợ mong đường nuôi thân, Đã đi rảo khắp thôn lân, Chẳng ai chịu mướn muôn phần nguy nan. Xin ông thương kẻ bần hàn, Ra tay tế độ ơn mang trọn đời.” Nghe qua cặn kẽ mấy lời, Phú hộ nhích miệng mỉm cười phân qua: “Mau mau mày khá đi ra, Chẳng nên đứng ở trong nhà tao lâu, Thân mày rách trước tét sau, Ai mà chịu mướn mày đâu mà phòng! Khá tầm nơi khác cho xong, Chớ nên đứng đó khó lòng chẳng chơi.” Văn Lía lụy ngọc nhỏ rơi: “Cúi nhờ mở lượng thương tôi nguy nàn, Nhà ông tột bực cao sang, Lại đang ăn tiệc rõ ràng hơn ai, Cơm thừa cá cặn thiếu chi, Ông đổ cũng vậy giúp đây no lòng. Xin ông thương kẻ túng cùng, Bố thí làm phước để phòng về sau” Đáp lời trổ giọng gắt gao: “Cơm thừa cá cặn dễ đâu cho mày, Chó tao lớn nhỏ một bầy, Cho chó chẳng đủ lại ai cho mày! Mau mau khá bước đi ngay, Chớ đừng đứng đó nói nhây làm gì Có khôn thì khá mau đi, Nhược bằng đứng đó khổ nguy bây giờ!” Văn Lía nghe rõ lai do, Trong lòng tức tối ngẩn ngơ bất bình: “Lẽ nào tàn nhẫn cho đành, Chẳng thương kẻ khó như mình nguy nan! Thật là con chó nhà sang, Hơn người nghèo khổ rõ ràng nào sai, Ngậm ngùi đau đớn chua cay, Mùi cơm rượu thịt phất bay ngọt ngào, Khiến lòng thèm lạc biết bao, Thèm chảy nước miếng khó âu tách vời” Phú hộ tức giận nạt bồi: “Biểu mày mau khá chơn dời khỏi đây! Sao còn đứng nói chi nhây, Hay là sổ mạng của mầy khiến nguy! Tại mày chẳng chịu sớm đi, Thôi mày chớ trách làm gì nghe không?” Bồi hồi tức tối tràn hông, Văn Lía ngơ ngẩn dằn lòng làm thinh, Xung gan chi xiết bất bình, Há nào dám nói sự tình nỗi chi. Phú hộ xít chó tức thì, Một bầy chó dữ thừa khi hiếp người, Chạy ra làm dữ vô hồi, Con chồm con sủa xem thôi kinh hoàng, Văn Lía sảng sốt kinh hoàng, Bỏ chạy ra ngõ tìm đàng lánh thân. Bào hao chó dữ muôn phần, Rượt theo Văn Lía sủa rân náo làng. Văn Lía chi xiết kinh mang, Chun vào bụi rậm bên đàng lánh thân. Phú hộ thấy vậy cười rân, Bèn tróc bầy chó vào sân tức thì Văn Lía phách tán hồn phi, Ngồi không cục cựa xiết chi kinh hoàng, Ngồi trong bụi rậm thở than, Đâu dè nhằm ổ kiến vàng tuôn ra, Đỏ au sa số hằng hà, Cắn chàng bấn loạn nhảy ra kêu trời, Phủi lia dông chạy tách vời, May sao bầy chó vô rồi cũng an. Não nề dạ ngọc xốn xang, Chạy thôi mệt đuối nghĩ càng xót đau, Trách người tàn nhẫn độc sâu, Chẳng lòng thương tưởng chút nào kẻ nguy: “Cơm thừa để đổ ích gì, Hoặc giả cho chó thôi thì uổng thay! Chớ chi họ giúp mình đây, Đem về cho mẹ ngày nay đỡ lòng, Mình ăn chút đỉnh cũng xong, Cớ sao cho chó mà không cho mình?” Đói lòng mỏi cẳng bực mình, Oán ông Phú hộ bất bình đắng cay: “Nếu họ chẳng xét ta đây, Ta cũng thù họ từ này về sau” Rối trí chẳng biết làm sao, Đặng mà nuôi mẹ xót đau tấc lòng, Mồ hôi nhỏ giọt ròng ròng, Tay chơn mỏi rụng vô cùng thiết tha Chẳng dám trở bước về nhà, Về nhà thấy mẹ đói mà sao an! Nhưng vì đi đã khắp làng, Vô phương hết kế biết toan lẽ nào? Bây giờ còn biết đi dâu, Đánh liều về đại biết sao bây giờ! Văn Lía chi xiết sầu lo, Ngập ngừng chơn bươc lòng tơ thảm sầu, Hai hàng lụy ngọc thấm bâu, Nhìn trời ngó đất xót đau trăm phần. Làu làu chói rạng trăng rằm, Bốn bề sáng sủa bâng khuâng tấc lòng, Tính về gia nội cho xong, Dầu đi đâu nữa gẫm không ích gì! Vừa đi vừa xét vừa suy, Ngang nhà Hương Quản cớ gì dừng chơn. Chú Hương với mấy đứa con, Xem trăng thưởng cảnh lòng son vui mừng Văn Lía đã đến nước cùng, Đề chừng Hương Quản có lòng hiền lương, Đánh liều vào đó bày tường, Cầu xin giúp đỡ kẻ đương nguy nàn Bạo gan chơn bước vội vàng, Vào thưa Hương quản mọi đàng thủy chung, Kể qua những nỗi lao lung, Kể qua những nỗi khốn cùng nguy nan . Chú Hương nghe rõ mọi đàng, Nhìn xem kĩ lại quả thằng Lía đây Chú Hương mói hỏi lời rày: “Đi đâu khuya khoắc như vầy hỡi mi? Ban ngày sao lại chẳng đi, Hay mày gian giảo ý chi chăng là?” Văn Lía lời mới thưa qua: “Cả ngày đi khắp gần xa xóm làng, Thân này quả thật khốn nàn, Chẳng ai cứu giúp trăm đàng rất nguy.” Chú Hương thương kẻ hàn vi, Rằng: “Mày nói vậy dễ gì mà tin…” Mới nói chưa dứt sự tình, Thím Hương trong cửa ứng thinh đuổi nà: “Thẳng này chẳng phải lạ xa, Vốn tôi biết nó rất là dữ hung! Khá mau đuổi nó cho xong, Đừng để nó đứng ở trong nhà mình!” Đáp lời có chút nhơn tình: “Dữ mà chẳng dữ với mình thì thôi, Hồi chiều cơm nguội còn dư, Cơn này giúp nó qua hồi làm ơn.” Thím rằng “Cơm nguội tuy còn, Nhưng chẳng cho nó nào nhơn ngãi gì! Tôi biểu mau đuổi nó đi, Đừng để nó đứng nói nhây nhiều lời.” Chú Hương sợ vợ hơn trời, Chẳng dám cãi vợ bồi hồi đuổi đi Văn Lía tức tối xiết chi, Đỡ lòng mừng hụt ngậm ngùi đắng cay: “Nước đời sâu độc thế này, Họ có thể giúp chớ nào không đâu Nhưng mà họ tính làm sao, Thà để họ đổ dễ đâu cho mình! Biết bao nông nỗi bất bình, Lòng người nham hiểm chẳng lành chi đâu. Sông biển dò đặng cạn sâu, Nhơn tình hiếm hóc dễ nào dò xong Đương hồi ta chửa lớn khôn, Ham điều giành giựt tranh hơn hoang đàng, Háo danh đánh lộn rộn ràng, Chẳng cho người hiếp họ rằng dữ hung Còn họ ác độc vô cùng, Nào ai trách họ họ không xét lường!” Văn Lía tức giận phi thường, Nó đà nghĩ cạn mọi đường gần xa Thầm rằng: “Thiên hạ ghét ta, Thiên hạ tàn nhẫn cùng là độc sâu, Ta thề đây sắp về sau, Ta thù thiên hạ dễ nào lạt phai. Họ không thương xót ta đây, Ta cũng ghét họ từ rày sắp lên, Họ làm ta rất đau phiền, Họ thật tàn nhẫn huyên thiên bất bình; Ghi lòng đến tuổi trưởng thành, Ta sẽ báo hận há đành bỏ qua, Ta thù ghét hết người ta, Có dịp hại họ ắt là chẳng dung” Oán hờn chất chứa đầy lòng, Vừa đi vừa xét đục trong nỗi mình. Rê chơn gần đến lều tranh, Nhớ trực mẹ đói lòng thành xót xa, Nghĩ thầm: “Chắc mẹ trông ta, Trông ta về nhà đỡ đói một khi. Trong nhà mẹ đói nằm lì, Nhưng ta chẳng có món gì biết sao? Nếu mà mình bước đại vào, Sợ mẹ mừng hụt càng đau đớn lòng Văn Lía lụy ngọc ròng ròng, Đứng sau chòi rách vô cùng thiết tha, Nghe mẹ rên xiết trong nhà, Rằng: “Sao thằng Lía con ta không về? Lòng ta đang đói trăm bề, Đêm nay đói nữa chẳng hề sống đâu” Mẹ già than thở âu sầu, Làm cho Văn Lía tâm bào héo don, Ối thôi buồn có chi hơn, Âu sầu thảm đạm lòng son vô cùng. Xiết bao nhiều nỗi não nùng, Chòi tranh chẳng dám dời chơn bước vào. Bồi hồi dạ ngọc xót đau, Nước cờ gần bí biết sao bây giờ! Nhớ lời mẹ dặn căn do, Tham lam chớ khá, giữ cho vẹn toàn; Nhưng mà trong lúc gian nan, Làm sao giữ đặng con đàng chánh ngay Chớ chi nghèo đến nước này, Mà trời cho chết toại thay tấc tình, Có chết âu mới trọn lành, Nhược bằng chưa chết thân mình biết sao? Tuy mẹ căn dặn trước sau, Trong lòng ghi nhớ dễ nào dám quên Song le trong buổi đảo điên, Cam đành trái mẹ mới yên thân mình Dốc lòng cố giữ lòng lành, Mà trời chẳng giúp phải đành gian tham, Văn Lía tính đã cùng đàng, Thăm nhà phú hộ vội vàng đến nơi, Bầy chó đã ngủ hết rồi, Tuốt ra chuồng vịt đề vời sợ chi Trong lòng đói khát đang khi, Dầu chết chẳng sợ sợ gì chó sao! Chuồng vịt Văn Lía chun vào, Núm hai cổ vịt thoát mau ra về, Trong lòng mừng rỡ trăm bề, Bây giờ thơ thới chẳng hề lo chi Chòi tranh vào đến tức thì, Lão bà trông thấy nan tri xa gần. Văn Lía lời mới tỏ phân: “Có cậu Hương Ấp đức nhân vô cùng, Thấy con khốn hại lao lung, Hỏi con đã rõ đục trong sạ tình Lời con bày tỏ đành rành, Người mới thương tình bắt vịt cho con” Mẹ già nào rõ thiệt hơn, Tin theo lời trẻ chẳng còn ngại nghi, Xúm nhau làm vịt một khi, Xong xuôi ăn uống đỡ khi nguy nàn, Đỡ lòng mừng rỡ trăm phần, Thoát tai chết đói nghĩ càng mừng vui. Từ đây tật xấu mang rồi, Văn Lía trộm cắp của người nuôi thân, Tánh quen khó bỏ trăm phần, Mẹ già nghi dạ tỏ trần cản ngăn; Nhưng Lía chẳng thế kiếm ăn, Cứ việc trộm cấp làm nhăn vô cùng. Mẹ già buồn bã tấc lòng, Rầy la biểu Lía mựa đừng gian tham, Kiếm người ở mướn làm ăn, Chớ nên trộm cấp nguy nan có ngày. Văn Lía thưa lại lời này: “Số mẹ chưa có thấu hay thế tình, Con đây cũng muốn làm lành, Ngặt vì thiên hạ bất bình lắm thay. Họ không xót tưởng con đây, Họ không chịu mướn ngày nay đã cùng. Con đi hỏi khắp nào không, Nghiệt cay ai nấy chẳng lòng tưởng thương. Ngày nay con đã cùng đưòng, Thật con nay đã vô phương nuôi mình Xin mẹ chớ khá bất bình, Của họ dư chẳng giúp mình cơn nguy, Của họ dư để làm chi, Mình xin chằng đặng lấy gì nuôi thân? Gian tham tuy xấu muôn phần, Song bởi họ chẳng khứng tâm giúp mình Lẽ nào ngồi bó tay nhìn, Làm sao nuôi đặng thân hình thì thôi Vả con đây oán thù người, Ngàn năm vẫn nhớ thâm cừu không quên.” Mẹ già nghe hãn sạ duyên, Tấc lòng thảm đạm ưu phiền nào an Văn Lía cố oán cả làng, Vì không cứu nó lúc đang hiểm nghèo, Thù kia chứa biết bao nhiêu, Thề không xao lãng sớm chiều gắn ghi. Ngày kia Văn Lía đang đi, Nhớ mẹ đang lúc khổ nguy đói lòng, Âu là phải tính cho xong, Há để mẹ đói mà không đau lòng Thói quen Văn Lía thường dùng, Bắt gà trộm vịt ngỏ phòng đỡ nguy, Chẳng dè Lía rủi một khi, Bị người thấy đặng xiết chi kinh hoàng Văn Lía tuy thật lẹ làng, Vừa toan tẩu thoát xóm làng tuôn ra Chiếc thân nguy hiểm thay là, Chủ nhà bắt đặng kéo ra giữa làng Chủ nhà Hương Quản rõ ràng, Hương Quản buộc gắt nguy nan vô cùng, Làng đem Văn Lía đóng gông, Hội tề nhóm lại om sòm hỏi han Hương Thân trổ giọng nạt vang: “Lía mày là đứa hung hoang làng này! Sao mày gan dạ lắm thay, Nhè nhà Hương Quản mà mày gian tham?” Lía rằng: “Tội thật đành cam, Nhưng vì cảnh ngộ nguy nan buộc mình.” Làng rằng: “Mày chớ nói lanh, Làm ăn chẳng muốn lại đành tà gian, Thật mày tội nặng trăm đàng, Phen này khó nỗi đặng an đâu là Sao không ở mướn người ta, Lấy tiền nuôi dưỡng mẹ già cho an? Mày cũng no ấm rõ ràng, Mẹ cũng được chỗ dựa nương tháng ngày. Vốn mày làm biếng nào sai, Thôi thôi chớ nói vắn dài làm chi” Văn Lía thưa lại tức thì: “Mấy ông nói ức nan tri xa gần, Tôi đây bao quản cực thân, Chẳng biết mấy lần đi hỏi làm ăn Nhưng mà khốn hại vô ngần, Chẳng ai chịu mướn khó khăn vô cùng.” Làng nghe nổi giận đùng đùng, Rằng: “Mày gian ác mựa đừng dối quanh. Trùm đâu mau khá phạt hành, Đánh sao cho nó thật kinh mà chừa Văn Lía chưa kịp tỏ thưa, Bị thằng trùm đánh chẳng vừa chi đâu. Cắn răng mà chịu biết sao, Da tan thịt nát xót đau vô cùng, Thét rồi lụy nhỏ ròng ròng, Văn Lía than thở não nùng xiết bao. Xóm làng đang lúc bàn nhau, Hương Sư đi trễ bước vào hỏi qua: “Chuyện chi đánh trẻ kêu la Khá tua phân lại gần xa mọi đàng?” Hương Sư quyền thế trong làng, Lại thêm hiền đức rõ ràng ai qua. Văn Lía khóc lóc kêu la, Thưa lại các việc gần xa đuôi đầu. Hương Sư nghe rõ âm hao, Truyền mở Văn Lía cho mau chớ chầy “Một thằng con nít thơ ngây, Chuyện chi mà đánh thế này nhẫn tâm!” Tỏ cùng hương chức xa gần: “Các ông quả thật nhẫn tâm thay là! Nó rất có hiếu mẹ già, Không tiền nuôi mẹ sanh ra kế cùng. Sao không suy xét đục trong, Mấy ai biết nhục mà không giữ mình? Bởi chưng cơn túng gia đình, Lại thêm đang tuổi xuân xanh biết gì! Nó mà gian ác nỗi này, Là cơn nguy khốn chẳng ai giúp giùm. Nó cũng biết xét nào không, Đem thân ở mướn khắp cùng ngoài trong, Mà cũng chẳng kẻ có lòng, Chẳng chịu mướn, nó lâm vòng hiếm nguy, Cơn túng chẳng biết làm chi, Sanh ra gian ác có gì lạ đâu!” Nghe lời biện bạch lý sâu, Các chức đều thảy nhìn nhau bất bình, Nhưng mà họ chỉ làm thinh, Vì chưng là lẽ công minh tỏ trần. Văn Lía thoát nạn cám ân, Trong lòng thơ thới vui mừng xiết bao, Bươn bả bước lại cúi đầu, Lạy người bốn lạy ngõ hầu đáp ơn. Hương Sư bèn tỏ thiệt hơn: “Từ nay bỏ tánh chớ còn gian tham” Văn Lía khép nép bày tàng: “Hiềm vì chẳng có chuyện làm nuôi thân, Thật là khốn hại muôn phần, Tôi đây cũng rất khổ tâm thay là” Mấy lời thành thật thiết tha, Hương Sư suy xét phân qua như vầy “Ta đây đành dạ mướn mày, Nhưng mà mày ráng đổi thay tánh tình.” Lía nghe thỏa dạ ưng đành, Thề nguyền thay đổi theo lành lánh gian Hương Sư trỗi bước vội vàng, Văn Lía theo dõi gia đàng đến nơi, Tiền mướn đâu đó tính rồi, Bạc trao cho Lía rất vui vô cùng Cầm bạc chi xiết vui mừng, Về nhà cùng mẹ đục trong giãi bày. Thuật qua các việc vắn dài, Mẹ già toại chí từ này khỏi lo. Mừng con có chốn ấm no, Phận mình cũng khỏi nguy cơ túng cùng Giấy tờ thuê mướn làm xong, Hương Sư biểu Lía ra đồng chăn trâu, Chẳng biểu làm chuyện khác đâu, Chăn trâu hôm sớm miễn sao vẹn phần. Văn Lía bao quản gian truân Đáp ơn làm phước làm nhơn cứu mình, Mai chiều trọn tấm lòng thành Chẳng dám sai sót phận mình chi đâu Hằng ngày chỉ việc chăn trâu, Ngoài đồng rộng rãi trăm phần toại vui, Thật là thỏa chí thảnh thơi, Mục đồng bè bạn hôm mai chung cùng. Có hơn hai chục mục đồng, Từ ngày biết Lía có lòng nể kiêng. Văn Lía tâm tánh chẳng hiền, Lại thêm sức mạnh rất nên lạ lùng, Chưa đầy mười sáu thu đông, Sức mạnh người lớn tưởng không sánh bì. Thằng sao tâm tánh lạ kỳ, Chẳng chịu ai hiếp nhiều khi sanh rầy. Thường lề ngày tháng ở ngoài, Cho trâu ăn cỏ ruộng này ruộng kia, Ngày kia nhìn thấy dưới khe, Gốc cây cá lóc nằm kề một bên, Phút đâu vùng cái nhảy lên, Rớt xuống cá đã nằm trên ruộng rồi. Văn Lía thấy vậy vui cười, Khen con cá lóc vô hồi tài ba: “Chớ chi cá lóc dạy ta, Dạy ta miếng đó thật là mang ơn” Mục đồng xúm lại hỏi đon: “Lía nhìn chi đó dừng chơn đứng hoài?” Lía rằng: “Cá lóc rất hay, Nó vùng một cái thật tài vô song Dưới khe sâu thật vô cùng, Một cái chỉ vùng nhảy khỏi lên trên” Mục đồng nghe rõ sạ duyên, Có đứa bày giải hư nên sạ tình: “Con cá nó cũng như mình, Tập lâu ắt được chẳng tin hãy làm Văn Lía bèn hỏi cho tàng, Làm sao lập thế bày đàng nhảy cao?” Mục đồng bày tỏ trước sau: “Cứ đào cái lỗ ban đầu cạn thôi, Mình tập nhảy đặng khỏi rồi, Thì đào sâu nữa lần hồi sẽ nên” Văn Lía nghe hãn sạ duyên, Tấc lòng thơ thới rất nên thỏa đành, Mấy lời gẫm xét đành rành. Chàng quyết chí tập cho mình nhảy cao. Mục đồng xúm xít cùng nhau, Văn Lía bèn biểu khá đào lỗ sâu Mấy đứa há dám cãi đâu, Vưng lời xúm xít cùng nhau đào liền Văn Lía xuống đó nhảy lên, Cứ làm như vậy rất nên gọn gàng. Kiên gan vững chí trăm đàng, Cứ vậy mà tập vẹn toàn một năm. Lần lần nhảy giỏi trăm phần, Lỗ nọ đào lần càng bữa càng sâu. Chẳng những Lía nhảy khỏi đầu, Nhảy còn qua khỏi hàng rào thiệt cao. Nghề chi năng luyện năng trau, Thét rồi cũng giỏi dễ nào đơn sai! Nghề nhảy Văn Lía ai tày, Nóc nhà nhảy khỏi ai ai cũng nhường, Mục đồng xem thấy hãn tường, Thảy đều lánh sợ dễ thường dám qua. Văn Lía toại dạ thay là, Học nghề cá lóc ai mà đám đương! Khắp cùng đồng nội ruộng mương, Mục đồng đều thảy kính nhường Lía ta. Ngày kia Lía tỏ gần xa: “Mình đây đủ mặt thảy là hai mươi, Chia ra một phía mười người, Giả đò đánh giặc chơi vui cho đành.” Thằng Mướp mười bảy xuân xanh, Lớn hơn các đứa vóc hình cũng to, Nghe Lía bày tỏ căn do, Mướp liền ứng chịu lựa người chia hai Xong xuôi hai phía ra tay, Cùng nhau đánh giặc toại thay tấc lòng Cùng nhau đánh giặc giữa đồng, Rượt qua rượt lại vô cùng vầy vui. Nửa ngày đánh giặc nhau chơi, Đến rốt cuộc rồi bên Lía thắng hơn. Chơi vui thỏa bấy lòng son, Mục đồng chơi vậy chẳng còn chơi chi. Văn Lía cũng toại lắm thay, Cuộc chơi thích chí chi tày nữa đâu. Sáu tháng cứ vậy chơi nhau, Nhưng mà chẳng xảy việc nào nguy nan. Ngày nọ Văn Lía bày tàng, Kêu mục đồng lại nghe chàng chỉ phân: “Đánh giặc vui vẻ trăm phần, Song le chưa đủ thỏa tâm đành lòng Có việc vui vẻ vô cùng, Để tao bày giải đục trong sạ tình. Tao có đi xem hát đình, Thấy rõ hát bội đành rành không sai: Trong lúc vua bị nịnh vây, Thật là vui vẻ toại thay tấc lòng Vậy ta mau hiệp nhau cùng, Ta làm y vậy thỏa lòng chẳng sai” Mục đồng nghe rõ vắn dài, Đành lòng ưng thuận chẳng ai bất bình. Văn Lía bèn tỏ hắc minh: “Để tao làm Chúa bây đành hay không? Thằng Mướp to lớn vô cùng, Để nó làm nịnh ắt xong chớ gì! Nhưng tao giao trước lời này, Làm vua phải để lâu ngày mới vây, Chớ chẳng phải mới lên ngai, Mà bị nịnh rượt chẳng hay đâu là! Thằng Mướp, thằng Bí, thằng Cà, Đều theo phe nịnh gian tà bất trung. Thằng Ổi, thằng Khế, thằng Hồng, Phò vua trọn dạ tròn lòng trung ngay Bao nhiêu còn lại phải vầy: Làm quan làm tướng tao sai vưng lời” Văn Lía truyền lịnh xong xuôi, Mục đồng hết thảy đều vui thỏa lòng. Thằng Mướp bèn tỏ đục trong: “Chơi vầy ở tại giữa đồng không vui, Vào trong miễu nọ mà chơi, Vậy âu mới giống việc đời phải không?” Văn Lía nghe hãn thủy chung, Rất nên đành dạ toại lòng phán qua: “Lời bàn rất đẹp lòng ta, Trâu ta khá cột đặng mà đi chơi” Mục đồng nghe rõ khúc nôi, Trâu đều thảy cột xong xuôi mọi đàng, Cùng nhau sau trước một đoàn, Kéo vào miễu nọ ngỏ toan vui vầy. Đến nơi đứng dưới gốc cây, Xúm nhau bàn luận vắn dài thấp cao. Văn Lía bèn tỏ âm hao: “Làm Vua phải ngự ngai cao mới là, Có ngai như ở trào ca, Tụi bây lo đẹp lòng ta bây giờ.” Thằng Mướp có tánh đôi co, Chau mày phân lại đặng cho Lía tàng: “Làm gì mình có ngai vàng? Mày khéo bày chuyện khó toan vô cùng! Ngồi đại dưới đất cho xong, Làm ngai khó nỗi thật không thể làm.” Văn Lía thấy cãi lịnh troàn, Nạt rằng: “Trẫm đã chỉ troàn cãi sao! Làm ngai có khó chi đâu, Vào rừng thì có vốn nào khó chi.” Nghe Văn Lía nói dị kì, Thằng Mướp hỏi lại nằn nì gần xa: “Ngai đâu ở chốn rừng già, Mi khá bày giải cho ta đặng tường?” Trái tai Văn Lía đâu nhường, Mắng rằng: “Mầy thật ngu bường con trâu! Ngai kia ở chốn rừng sâu, Ấy tao nói ý cớ sao không tàng? Đốn cây làm cái ngai vàng, Cột lại như thể cái thang khó gì Làm cho giống ở trào nghi, Chớ nên cãi lịnh diên trì dang ca.” Thằng Mướp bị quở bị la, Chẳng dám cãi nữa dần dà tỏ phân: “Lịnh trên dạy dưới phải vâng, Chúng ta mau khá dời chân đi liền.” Mục đồng nghe có lịnh truyền, Đồng nhau, trỗi bước rất nên trọn lòng, Vào rừng chằng quản gai chông, Đốn cây cột lại đã xong mọi đàng. Đem ra miễu nọ đã an, Làm cái ngai giả vẹn toàn trước sau. Văn Lía mừng rỡ xiết bao, Nghiêm nghị lên thẳng ngai cao mà ngồi, Bâng khuâng tấc dạ rất vui, Tỉ mình như đã trị ngôi thỏa lòng. Thằng Mướp liền nói bông lông: “Như vầy quả thật vô cùng cao sang!” Văn Lía bèn tỏ mọi đàng: “Từ đây y thửa lịnh troàn chớ sai” Các đứa phân lại vắn dài: “Cúi vưng nghe lịnh từ này về sau.” Văn Lía phỉ chí xiết bao, Tỉ mình thật chẳng khác nào như vua. Từ đây tối sớm chiều trưa, Làm vua Văn Lía rất vừa lòng thay, Mỗi ngày ngồi ở trên ngai, Mục đồng ngồi dưới vui vầy trào ca. Văn Lía ngang dọc thay là, Mục đồng đều sợ ai mà chẳng kiêng, Bày chơi nhiều việc chẳng nên, Làm vua làm chúa oai quyền vang rân. Hằng ngày chơi trước miễu thần, Mục đồng cùng Lía trăm phần vầy vui. Ngày kia Văn Lía trên ngôi, Nhìn xem xuống dưới đủ người trước sau, Thằng Mướp chẳng biết đi đâu, Ngày nay vắng mặt cớ nào chẳng thông? Văn Lía han hỏi đục trong: “Mướp sao vắng mặt nó không đến chầu? Tội nó luật phải chém đầu, Thật tội rất lớn dễ nào thứ dung Mục đồng quỳ tấu song song: “Ắt là thằng Mướp trái lòng chi đây, Cùng ta chằng chịu vui vầy, Không chừng có chuyện bữa nay ở nhà.” Văn Lía bèn tỏ gần xa: “Thằng Mướp nó chẳng phục ta không chừng! Chờ nó lai đáo trào trung, Đặng ta hỏi lại đục trong cho tường Ví bằng nó chẳng chịu nhường, Cùng ta thử sức đối đương thử tài: Nếu nó thắng được ta đây, Thì ta đây sẽ nhường ngai Mướp liền.” Còn đang bày tỏ sạ duyên, Bỗng thằng Mướp đến đứng bên kia là. Thằng Lía bèn hỏi gần xa: “Sao mày lai đáo trào ca trễ vầy? Khá tua bày tỏ vắn dài, Đặng ta rõ thấu cho hay sự tình?” Thẳng Mướp trổ giọng bất bình: “Chơi vầy thật chẳng công minh chút nào! Tài chi mày ngự ngai cao? Lẽ thì phải để cho tao ngai này Bởi tao lớn tuổi hơn mày Mày còn nhỏ tuổi lại tài cán chi?” Thằng Lía nghe đã tường tri, Trong lòng nổi giận tức thì phân qua: “Nếu mày muốn chiếm ngôi ta, Cùng ta thử sức mới là công minh, Nếu mi thiếu sức chống kình, Thì là mi phải chia đành nhường ngai Thường ngày tùng phục ta đây, Ta kêu phải dạ ta sai vưng lời. Cứ việc thử sức mà chơi, Đặng cho biết rõ ai tài hơn ai?” Thằng Mướp đáp lại vắn dài: “Nếu đặng như vậy ta đây đành lòng.” Thằng Lía tức giận trong lòng, Kế mưu sắp sẵn đục trong ai tàng? Lía ta phân lại rõ ràng: “Thử tài thử sức nghĩ càng quá hay, Nhưng ta nghĩ đặng việc này, Còn thêm thú vị chẳng sai đâu là Thẳng Mướp giả kẻ gian tà, Nịnh thần thí chúa đặng mà đoạt ngôi, Sẵn dịp đó rất là vui, Cho ta thử sức đặng coi thế nào?” Còn lắm chuyện ngộ biết bao, Hãy xem luôn tiếp cuốn sau rõ tường.

Tục Ngữ, Ca Dao Địa Danh Ninh Bình (Lv Thạc Sĩ)

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊNTRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

BÙI CÔNG ĐOẠT

TỤC NGỮ, CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨNGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2023

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊNTRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

BÙI CÔNG ĐOẠT

TỤC NGỮ, CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNHChuyên ngành: Văn học Việt NamMã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨNGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Huế

Thái Nguyên – 2023LỜI CAM ĐOANTôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệutrích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đềutrung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.Thái Nguyên, tháng 4 năm 2023Tác giả luận văn

Bùi Công Đoạt

LỜI CẢM ƠNĐể hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơnBan Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trựctiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướngdẫn PGS. TS. Nguyễn Thị Huế đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thờigian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúpđỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.Thái Nguyên, tháng 4 năm 2023Tác giả luận văn

Bùi Công Đoạt

MỤC LỤCMỞ ĐẦU ………………………………………………………………………………………….. 11. Tính cấp thiết của đề tài ………………………………………………………………….. 12. Tổng quan vấn đề nghiên cứu …………………………………………………………… 23. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu …………………………………………………….. 34. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ………………………………………………. 4

5. Phạm vi nghiên cứu …………………………………………………………………………. 56. Cấu trúc của luận văn ………………………………………………………………………. 57. Đóng góp của luận văn …………………………………………………………………….. 6NỘI DUNG……………………………………………………………………………………….. 7Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUANĐẾN ĐỀ TÀI ……………………………………………………………………………………. 71.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, đời sống văn hóa,con người Ninh Bình …………………………………………………………………………… 71.2. Đời sống văn hóa, con người Ninh Bình …………………………………………. 101.3. Khái niệm Tục ngữ, Ca dao, Địa danh …………………………………………….. 151.4. Văn học dân gian Ninh Bình và tục ngữ, ca dao Ninh Bình ……………….. 181.5. Tục ngữ, ca dao Ninh Bình …………………………………………………………… 20Tiểu kết chương 1……………………………………………………………………………….. 23Chương 2: TỤC NGỮ, CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNH VỀ MẢNHĐẤT CON NGƯỜI VÀ SẢN VẬT ……………………………………………………. 252.1. Tục ngữ, ca dao địa danh về đất Ninh Bình …………………………………….. 252.2. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về người Ninh Bình …………………. 312.3. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu sản vật, nghề nghiệpvà phong tục. …………………………………………………………………………………….. 392.4. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu về phong tục, lễ hội …… 49Tiểu kết chương 2……………………………………………………………………………….. 53

Chương 3: TỤC NGỮ CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNH VỀ KINHNGHIỆM SẢN XUẤT, QUAN HỆ XÃ HỘI……………………………………………. 553.1.Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về kinh nghiệm sản xuất ……………. 553.2. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về các quan hệ xã hội ……………….. 613.3. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tinh thần lạc quan,Yêu đời …………………………………………………………………………………………….. 80Tiểu kết chương 3……………………………………………………………………………….. 82KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………. 84TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………. 86PHỤ LỤC ………………………………………………………………………………………… 90

MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài (Lý do chọn đề tài)Có thể nói rằng Văn học dân gian là một phần không thể tách rời nền vănhọc dân tộc . Ra đời rất sớm (từ khi con người chưa có chữ viết) bộ phận văn họcnày đã góp phần nuôi dưỡng, vun đắp nền văn học Việt Nam. Trong dòng chảycủa lịch sử, văn học dân gian Ninh Bình đặc biệt là tục ngữ, ca dao đã là nhữngmạch nguồn trong mát nuôi dưỡng tâm hồn biết bao người con Ninh Bình để rồi“Ăn đâu, làm đâu” mọi người con Ninh Bình đều hướng về quê hương, nguồn cộivới tấm lòng thành kính, tri ân và khát vọng cống hiến xây dựng quê hương NinhBình ngày càng văn minh, giầu đẹp.Tìm hiểu địa danh qua tục ngữ, ca dao Ninh Bình giúp chúng ta hiểu thêmvề diện mạo và đặc trưng của Văn học dân gian Ninh Bình nói chung và tục ngữ,ca dao Ninh Bình nói riêng. Ninh Bình, mảnh đất ngàn năm văn hiến mà ở đó mỗitên làng, tên xã, mỗi ngọn núi, dòng sông đều mang “bóng dáng ông cha”, mang“dáng hình xứ sở” được ghi lại qua những câu tục ngữ, ca dao để rồi trường tồncùng quê hương, đất nước.Đến với Ninh Bình hôm nay, chúng ta cảm nhận về một vùng quê đangtừng ngày thay đổi trong xu thế đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, có nhiều địa danhmới xuất hiện và không ít những địa danh cũ mất đi hoặc thay đổi tên gọi. Tìmhiểu những địa danh của Ninh Bình qua những câu tục ngữ, ca dao sẽ giúp chúngta bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hóa vô cùng quí báu của cha ông, để từ đóchúng ta thêm tự hào và thấy được trách nhiệm của mình trong việc quảng bá, gìngiữ kho tàng tục ngữ, ca dao Ninh Bình cho thế hệ mai sau.Từ những mong muốn trên, tôi chọn đề tài luận văn của mình là: “Tục ngữ,ca dao địa danh Ninh Bình”. Hy vọng rằng công trình là sự hệ thống những câutục ngữ, ca dao có nói tới những địa danh của tỉnh Ninh Bình với những tên gọi,sự tích đầy thú vị, gợi mở cho giáo viên và học sinh Ninh Bình trong quá trìnhtiếp nhận tục ngữ, ca dao địa phương (Ngữ văn lớp 7). Luận văn cũng là món quànhỏ mà người viết tri ân quê hương Ninh Bình yêu dấu.

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu2.1.Việc sưu tầm và giới thiệu tục ngữ, ca dao nói chung đã được tiến hành từ lâu(thế kỷ XVIII). Đó là công trình Nam phong giải trào của Trần Danh Án, NgôHạo Phu, Trần Doãn Giác, soạn vào năm 1788 – 1789 đến nửa thế kỷ XIX; Tụcngữ, cổ ngữ gia ngôn của Huỳnh Tịnh Của, xuất bản năm 1897; Việt Nam phongsử của Nguyễn Văn Mại, soạn năm 1914; Tục ngữ và cách ngôn của Hàn TháiDương, 1920; An Nam tục ngữ của Vũ Như Lâm và Nguyễn Đa Gia, 1933; Phonggiao, ca dao, phương ngôn, tục ngữ của Nguyễn Văn Chiểu, năm 1936; Ngạn ngữphong dao của nguyễn Can Mộng, 1941; Đặc biệt là công trình Tục ngữ phongdao của Nguyễn Văn Ngọc (Nhà xuất bản Vĩnh Hưng Long), 1928, đã có tới 6500 câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao, được sưu tầm và giới thiệu. Tuy nhiên côngtrình này chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu.Từ sau năm 1975 việc sưu tầm và giới thiệu tục ngữ, ca dao, dân ca đã cónhững thuận lợi hơn, thời kỳ này phải kể tới công trình của Vũ Ngọc Phan đó làcuốn Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, (Xuất bản lần đầu năm 1955 đến nay đãtái bản nhiều lần). Công trình là một tập hợp tương đối đầy đủ và hệ thống tụcngữ, ca dao, dân ca Việt Nam ở cả ba miền đất nước. Ở ấn phẩm này tác giả đãsưu tầm và giới thiệu được một số câu ca dao Ninh Bình về những địa danh nổitiếng như núi Phi Diên (núi Cánh Diều), cửa biển Thần Phù (nay thuộc xã YênLâm, Yên Mô)…Trong khoảng gần 30 năm trở lại đây các nhà nghiên cứu đã tập trungnghiên cứu tục ngữ, ca dao theo chuyên đề, đáng chú ý là các công trình nghiêncứu sau:– Tục ngữ Việt Nam cấu trúc và thi pháp của Nguyễn Thái Hòa, Nhà xuấtbản Khoa học xã hội, năm 1997…– Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam của Phan Thị Đào, Nhà xuất bảnThuận Hóa, năm 1999– Tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu chuỗi theo mô hình cấu trúc củaTriều Nguyên, Nhà xuất bản Thuận Hóa, năm 2003

– Thi pháp ca dao, do Nguyễn Xuân Kính chủ biên, Nhà xuất bản Đại họcQuốc gia Hà Nội năm 20062.2. Giới thiệu về tục ngữ, ca dao Ninh Bình cho đến nay còn có ở trong các côngtrình của Ninh Bình: Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình, do Trương Đình Tưởngchủ biên, Nhà xuất bản Thế giới, năm 2004;Địa chí Ninh Bình, do Tỉnh ủy Ninh Bình – Viện khoa học xã hội ViệtNam chịu trách nhiệm nội dung, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, năm 2010;Chùa Dầu di tích lịch sử văn hóa, do Thích Minh Đức, Lã Đăng Bật chủbiên, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, năm 2008;Tục ngữ ca dao, dân ca Yên Mô, do Trần Đình Hồng chủ biên, Nhà xuấtbản vãn hóa thông tin, nãm 2012. Bên cạnh ðó còn có các tác giả: Đặng Hữu Vân,Phạm Thị Ánh Nguyệt, biên tập phần tục ngữ, ca dao giảng dạy trong chươngtrình ngữ văn địa phương trong các trường THCS tỉnh Ninh Bình.Tất cả những công trình trên là những tài liệu quí báu, định hướng cho tôi cóđược cái nhìn sâu sắc về địa danh Ninh Bình qua những câu tục ngữ, ca dao. Tuynhiên một số công trình nghiên cứu trên chỉ giới thiệu tục ngữ, ca dao Ninh Bình quadư địa chí, hoặc nghiên cứu tục ngữ, ca dao Ninh Bình trong dòng chảy của văn họcdân gian nói chung, hoặc nghiên cứu tục ngữ, ca dao của một huyện, một vùng, nênchưa có được cái nhìn thật khái quát, đầy đủ về tục ngữ, ca dao Ninh Bình đặc biệtlà những câu tục ngữ, ca dao gắn với các địa danh trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Từ lýdo đó tôi mạnh dạn chọn đề tài Tục ngữ, ca dao về địa danh Ninh Bình, nhằm nốidài những nghiên cứu về tục ngữ ca dao Ninh Bình đặc biệt là tìm hiểu những địadanh của tỉnh được nhắc tới trong tục ngữ, ca dao, những tên gọi, sự tích, ý nghĩa củamỗi địa danh đều có sức hấp dẫn riêng mà mỗi người con Ninh Bình nhất là thế hệtrẻ cần phải hiểu biết và gìn giữ.3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu3.1. Đối tượng nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu trong luận văn này là tục ngữ, ca dao về địa danhNinh Bình, trong đó tập trung làm rõ một số vấn đề sau:

7. Đóng góp của luận văn– Luận văn lần đầu tiên là một tập hợp những câu tục ngữ, những bài ca daovề địa danh Ninh Bình.– Luận văn lần đầu tiên đi sâu tìm hiểu nội dung phản ánh, giá trị và ý nghĩatên gọi của mỗi địa danh trong các câu tục ngữ, ca dao của Ninh Bình. Qua đógiúp chúng ta thấy được một phần diện mạo của văn hóa dân gian Ninh Bình, thấyđược vẻ đẹp tiềm ẩn trong mỗi cảnh vật nơi đây, và đặc biệt là chúng ta cảm nhậnđược tâm hồn tình cảm của mỗi người con Ninh Bình đối với quê hương, đất nước.– Luận văn góp phần cung cấp tài liệu cho giáo viên và học sinh tỉnh NinhBình nói riêng và các địa phương khác nói chung trong các tiết Ngữ văn địaphương.

NỘI DUNG

Khí hậu: Ninh Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, chịu ảnhhưởng của khí hậu ven biển. Thời tiết trong năm chia làm hai mùa khá rõ: mùakhô từ tháng 11-12 năm trước đến tháng 4 năm sau; mùa mưa từ tháng 5 đến tháng10. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt từ 1.860 – 1.950 mm nhưng phân bốkhông đều, tập trung 70% lượng mưa vào mùa hạ.Dân cư: Dân số Ninh Bình tính đến năm 2023 là 952 509 người, đại bộ phậndân cư Ninh Bình là dân tộc Kinh và có khoảng 20 000 người là đồng bào dân tộc ítngười, chủ yếu là dân tộc Mường sinh sống ở một số xã miền núi huyện Nho Quan.Có hai tôn giao chính: phật giáo và công giáo. Phật giáo chiếm khoảng 5,18% vàcông giáo chiếm 16,3% dân số (chủ yếu ở huyện Kim Sơn)Ninh Bình là nơi những dấu tích của con người tồn tại từ hàng vạn năm trởvề trước vẫn còn lưu lại; là cố đô Hoa Lư một thời sáng chói, như một minh chứngvề một vùng đất cổ “địa linh, nhân kiệt”. Truyền thống, hiện đại luôn hoà quyệnvới nhau để làm nên một Ninh Bình giàu bản sắc văn hoá, giàu truyền thống yêunước và cách mạng, là cội nguồn sức mạnh của người dân Ninh Bình trong khángchiến chống giặc ngoại xâm cũng như trong thời kỳ hội nhập và phát triển cùngđất nước.Về tài nguyên thiên nhiên, đây là mảnh đất có rất nhiều tiềm năng và thếmạnh, cụ thể:Đất đai: Ninh Bình có tổng diện tích đất tự nhiên là 139.011 ha. Trong đóđất cho sản xuất nông nghiệp là 61.959 ha (chiếm 44,57%). Các loại đất phù sađược bồi và phù sa không được bồi tạo điều kiện cho nuôi trồng thuỷ sản và câycông nghiệp; đất phù sa cũ chua, nghèo…thích hợp cho thâm canh lúa, hoa màu;đất feranit thích hợp phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp, cây dược liệu.Sinh vật: Ninh Bình có thảm thực vật rừng phong phú, tập trung ở vườnQuốc gia Cúc Phương. Rừng Cúc Phương thuộc loại rừng mưa nhiệt đới điển hìnhvới cấu trúc thảm thực vật nhiều tầng, phong phú về thành phần loài. Một số loàithực vật điển hình là Chò xanh, cây Lê, cây Chân chim…Động vật ở đây cũng

rất phong phú. Hiện đã phát hiện 233 loài động vật có xương sống, nhiều loàichim và 24 bộ côn trùng trong số 30 bộ côn trùng thường gặp ở nước ta.Tài nguyên khoáng sản: Ninh Bình có nhiều loại khoáng sản nhưng đángkể nhất là đá vôi với diện tích 1,2 vạn ha, trữ lượng hàng chục tỷ mét khối và hàngchục triệu tấn đôlômit, chất lượng tốt. Đây là nguồn nguyên liệu lớn cho sản xuấtvật liệu xây dựng. Ngoài ra, đất sét phân bố rải rác ở các vùng đồi núi thấp dùngđể sản xuất gạch ngói và là nguyên liệu cho ngành đúc. Than bùn có trữ lượng2triệu tấn/năm dùng để sản xuất phân vi sinh. Nước suối Kênh Gà, Nước khoángCúc Phương cũng là những nguồn lợi lớn trong việc chữa bệnh và phát triển dulịch…[57; 1,2; 12]1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hộiNhững lĩnh vực kinh tế lợi thế: Trong những năm tới, các ngành côngnghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ như: Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng,đặc biệt là xi măng, đá, gạch sẽ phát triển, trở thành khâu đột phá đưa nền kinh tếNinh Bình tăng tốc và ưu tiên hàng đầu cho ngành sản xuất xi măng.Phát triển đa dạng các ngành kinh tế thuỷ sản, trong đó nuôi thuỷ, hải sảnlà trọng tâm được coi là một khâu đột phá của ngành nông nghiệp và nền kinh tếcủa tỉnh.Với các khu du lịch và danh lam thắng cảnh nổi tiếng, đặc biệt là các khu:Cố đô Hoa Lư, Tam Cốc – Bích Động, Bái Đính – Tràng An…là thế mạnh củatỉnh trong phát triển du lịch.Tiềm năng du lịch: Sự kì thú của thiên nhiên với những danh lam thắngcảnh đẹp, đa dạng như: Vườn Quốc gia Cúc Phương, khu hang động Tam CốcBích Động, khu Địch Lộng Vân Long, khu du lịch Tràng An – Bái Đính…cùngvới tài nguyên nhân văn như: Cố đô Hoa Lư, quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm,chùa Non Nước, phòng tuyến Tam Điệp- Biện Sơn…tạo điều kiện cho Ninh Bìnhphát triển những tuyến du lịch hấp dẫn, đưa tỉnh nhà trở thành địa bàn du lịch quantrọng của vùng đồng bằng Bắc bộ và cả nước.

Non nước Ninh Bình kỳ thú, nên thơ, lại nằm ở cửa ngõ đồng bằng Bắc bộvà dải lãnh thổ miền Trung, nên từ xa xưa là nơi gặp gỡ giao thoa của ba nền vănhoá lớn của đất nước. Nhân dân Ninh Bình vừa tiếp thu những nét tinh hoa vănhoá của các vùng, miền khác trong nước, tạo dựng nên sắc thái văn hoá NinhBình phong phú đa dạng lại có những nét đặc sắc riêng biệt.Nghiên cứu và tìm hiểu về văn hoá Ninh Bình, chúng ta nhận thấy: vùngđất này có nhiều điều hấp dẫn, thú vị. Nhiều phong tục, tập quán, truyền thống tốtđẹp của cộng đồng người Việt được con người Ninh Bình tiếp thu và sáng tạo.Mỗi ngọn núi, dòng sông, mỗi thôn xã, làng bản…đều âm vang những huyền tích,huyền thoại. Quá khứ, hiện tại, trí tưởng tượng của người lao động và hiện thựclịch sử đan xen vào nhau, tạo nên bản sử thi hùng tráng của dải đất cuối sông, đầunúi, dải đất đã được mệnh danh là “cổ họng”, là “yết hầu” của Bắc – Nam này.[57; 3; 13]1.2. Đời sống văn hóa, con người Ninh Bình1.2.1. Ninh Bình – nơi in đậm dấu ấn văn hoá của cư dân Việt cổDấu vết khảo cổ học: Ninh Bình là vùng đất có con người cư trú từ rất sớm.Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trầm tích có xương răng đười ươi và các độngvật trên cạn ở Núi Ba (Tam Điệp) thuộc sơ kỳ đồ đá cũ, cách ta khoảng ba mươivạn năm; ở Thung Lang (Tam Điệp) có niên đại cách ta khoảng ba mươi nghìnnăm; động ngưòi xưa (Cúc Phương) có di chỉ cư trú của con người thời văn hoáHoà Bình cách ta khoảng 7.580 + 100 năm. Di chỉ của con người văn hoá HoàBình còn tìm thấy ở một số hang động ở Tam Điệp, Nho Quan. Sau thời kỳ vănhoá Hoà Bình, các nhà khảo cổ cho rằng, vùng đồng bằng ven biển Thanh Hoá,Ninh Bình là nơi định cư của con ngưòi thời đại đồ đá mới Việt Nam. Di chỉ ĐồngVườn (Yên Thành, Yên Mô) đã được định niên đại muộn hơn di chỉ Gò Trũng (dichỉ Gò Trũng có niên đại C14: 4700 + 50 năm cách ngày nay). Cư dân cổ di chỉĐồng Vườn đã phát triển lên cư dân cổ di chỉ Mán Bạc (Yên Thành, Yên Mô) ởgiai đoạn văn hoá đồ đồng từ cuối Phùng Nguyên đến đầu Đồng Đậu, cách đây3.300 – 3700 năm.

1.2.2. Ninh Bình – ” văn hoá mới” của cư dân ven biểnNinh Bình là một trong những tỉnh điển hình về sự mở rộng không gianvăn hoá Việt xuống biển Đông. Trong quá trình kiến tạo địa chất, biển lùi dần tạora đồng bằng vùng hạ lưu sông Đáy. Con người tiến dần ra chiếm lĩnh vùng đồngbằng ven biển và tạo ra những trung tâm văn hóa như Hoa Lư, sau là kinh đô củacả nước trong 42 năm (968-1010). Vùng ven sông Vân sau là trung tâm của đạo,trấn, rồi tỉnh Ninh Bình. Dấu ấn về biển còn in đậm trên đất Ninh Bình. Nhữngđịa danh: cửa biển Phúc Thành (thành phố Ninh Bình), cửa biển Đại An (nay làngã ba Độc Bộ), nơi tiếp giáp giữa yên Khánh và Nghĩa Hưng (Nam Định), cửabiển Con Mèo (Yên Thành, Yên Mô), cửa Biển Thần Phù (Yên Lâm, Yên Mô)làm cho chúng ta có cảm tưởng một thời biển còn ở đâu đây. Cùng với các địadanh về các cửa biển là các con đê lịch sử như đê Hồng Đức (1471), đê Hồng Lĩnh(1773) do Nguyễn Nghiễm – thân phụ Nguyễn Du đắp, đê Đường Quan(1830), đêHồng Ân (1899), đê Hoàng Trực (1927), đê Văn Hải (1933-1934), đê Bình MinhI (1959-1960), đê Bình Minh II (1981). Cho đến nay, Ninh Bình vẫn tiến ra biểnmỗi năm gần 100m. Như vậy, từ ngàn xưa, ngưòi dân Ninh Bình đã hướng rabiển, khát vọng chinh phục biển, đón nhận các luồng dân cư, các yếu tố văn hoátừ Bắc vào Nam, từ biển vào. Kinh tế biển còn in đậm các di chỉ văn hoá thời kỳđồ đồng. Cho đến nay, kinh tế biển còn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tếcủa tỉnh. Khai thác kinh tế biển như nghề đánh bắt cá biển, nuôi tôm sú, tôm rảo,nuôi cua…vẫn là hướng phát triển quan trọng. Cùng với phát triển kinh tế tỉnhNinh Bình cũng rất chú trọng đến công tác đảm bảo an ninh quốc phòng cũng nhưmôi trường sinh thái biển để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của nền kinh tếquan trọng này.1.2 3. Hệ thống di tích văn hoá, lịch sử và những danh lam thắng cảnh nổi tiếngcủa Ninh BìnhTrước khi đi sâu tìm hiểu giới thiệu về tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bìnhchúng tôi muốn giới thiệu về hệ thống di tích lịch sử văn hóa những danh lam

thắng cảnh nổi tiếng của Ninh Bình để độc giả hình dung ra một Ninh Bình “Địalinh nhân kiệt”.Ninh Bình cùng với Hạ Long là 2 đỉnh cạnh đáy của tam giác châu thổ sôngHồng với địa hình Karst được các biến đổi địa chất theo thời gian và phù sa bồiđắp tạo cho Ninh Bình một “Hạ Long trên cạn” với vô số các hang động, đầm hồngập nước có giá trị phát triển du lịch. Ninh Bình, vùng đất “địa linh” là nơi chứanhững vật báu của trời”(Nguyễn Tử Mẫn), nơi hội tụ đầy đủ các yếu tố của mộtViệt Nam thu nhỏ: có rừng, núi, sông, với các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốcgia, khu dự trữ sinh quyển thế giới, khu du lịch quốc gia…Nói đến Ninh Bình là nói đến một mảnh đất có mật độ dày đặc các di tíchvăn hoá – lịch sử. Theo thống kê, Ninh Bình có 795 di tích lịch sử, văn hoá với225 ngôi chùa, 242 đình làng…Ngoài ra còn có 280 nhà thờ, trong đó có 73 nhàthờ giáo xứ, 207 nhà thờ họ.1.2.3.1. Những di tích lịch sử, văn hoáNinh Bình có khu di tích lịch sử văn hoá cố đô Hoa Lư được công nhận làdi tích đặc biệt quan trọng cấp quốc gia, với 47 di tích trong đó nổi bật là: Đềnthờ vua Đinh Tiên Hoàng, lăng mộ vua Đinh; đền thờ và lăng mộ vua Lê ĐạiHành; nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ; đền thờ công chúa Phất Kim; miếuthờ công chúa Phù Dung; đền Trần Quý Minh; phủ Khổng; phủ Đột; động HoaSơn; động Hoa Lư; núi Mã Tiên; bia Cầu Dền; sông Sào Khê; đền Vực Vông…Khu văn hoá tâm linh núi chùa Bái Đính với chùa Bái Đính cổ (có đền thánhNguyễn Minh Không, các hang động thờ Mẫu, thờ Phật, thờ thần Núi…) và khuchùa Bái Đính mới với 5 toà lớn dọc theo sườn núi. Bảo tháp với chiều cao 100m, 13 tầng, có thang máy và 72 bậc leo, là nơi trưng bày xá lợi Phật từ Ấn Độcũng là một điểm nhấn của khu du lịch tâm linh này.Quần thể nhà thờ Phát Diệm là kỳ quan Thiên chúa giáo, một công trìnhkiến trúc có một không hai ở Việt Nam. Các công trình kiến trúc nguy nga, tránglệ nhưng hài hoà giữa truyền thống và hiện đại bao gồm: Ao hồ, Phương Đình,nhà thờ lớn và 4 nhà thờ ở 2 bên, 3 hang đá nhân tạo. Nhà thờ đá Phát Diệm được

thiết kế độc đáo, thể hiện sự giao hòa giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo, cũng lànét kết hợp văn hóa Đông – Tây đậm nét nhất.Các di tích văn hoá khác như phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn; đồn GiánKhẩu; các đền thờ: Trương Hán Siêu, Nguyễn Công Trứ, Triệu Quang Phục, LýQuốc Sư, đền Thái Vi, cửa Thần Phù, Cố Viên Lầu…Các di tích tâm linh Nho giáo: Chùa Bích Động, chùa Nhất Trụ, chùa ĐồngĐắc, chùa Địch Lộng, chùa Bàn Long, chùa Bái Đính, chùa Non Nước…Các di tích lịch sử, cách mạng: Khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu, núi NonNước, di tích chiến dịch Hà Nam Ninh…1.2.3.2. Những danh lam thắng cảnh nổi tiếngKhu du lịch vườn Quốc gia Cúc Phương với các loại hình: sinh thái, môitrường, nghiên cứu khoa học, đa dạng sinh học, khảo cổ học, đêm lửa trại và tìmhiểu văn hoá Mường…Khu du lịch Tam Cốc- Bích động với nhiều tuyến du thuyền trên sông vớicác điểm hang động, di tích lịch sử.Khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long với các loại hình du lịch trên đầm sinhthái cảnh quan ngập nước.Khu dự trữ sinh quyển đồng bằng sông Hồng với du lịch sinh thái đồng quêvà cảnh quan ven biển.Các ngọn núi và các hang động đẹp như: núi Ngọc Mỹ Nhân, núi Non Nước(núi Thuý), núi Kỳ Lân, động Địch Lộng, động Vân Trình, động Mã Tiên, độngBích Động, động Tam Giao, động Thiên Tôn, động Tiên, động Sinh Dược lànhững điểm hấp dẫn khách du lịch với thời gian tham quan ngắn.Các hồ nước tự nhiên: Hồ Kỳ Lân, hồ Đồng Chương, Hồ Yên Quang phùhợp với loại hình du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần; hồ Yên Thắng, hồ Đồng thái còncó thêm loại hình du lịch thể thao.Các di tích lịch sử- văn hoá và những danh lam thắng cảnh nổi tiếng trênchính là món quà của thiên nhiên ban tặng cho mảnh đất này. Các di tích văn hóahữu thể và phi vật thể ấy đã làm nên nét đặc sắc văn hoá Ninh Bình.

Ninh Bình còn là vùng đất có vị trí chiến lược trong suốt hàng ngàn nămdựng nước, giữ nước của dân tộc. Các cuộc hành quân thần tốc vào Nam hay raBắc vẫn âm vang trên mặt đất này. Đây còn là vùng đất rút lui chiến lược để vàoThanh Hoá của tướng Đô Dương (thời Hai Bà Trưng). Đất phát tích của Đinh BộLĩnh, là kinh đô của cả nước trong suốt 42 năm. Đất Ninh Bình ken dày vết chânlịch sử. Kinh đô Hoa Lư với ngót nửa thế kỷ của hai vương triều Đinh – Lê dựngnền độc lập chính thống. Nơi hoạch định kế sách và phát xuất các đạo hùng binhnăm 981 – 982 phá Tống, bình Chiêm. Lê Đại Hành đã kiến tạo võ công oanh liệttrong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Hoa Lư cũng là nơi khai sinhra vương triều Lý với áng văn “Chiếu dời đô” lịch sử.Một yếu tố khác vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ làm nên diệnmạo đa dạng, phong phú của văn hoá Ninh Bình, đó là sự lưu lại dấu vết văn hoácủa các “tao nhân mặc khách” khi qua vùng sơn thanh, thuỷ tú này. Bao đế vương,công hầu, khanh tướng danh nhân văn hoá lớn về đây, xếp gương, đề bút, sôngnúi hoá thành thi ca! Chỉ nói riêng núi Thuý đã có trên 30 bài thơ, văn khắc vàovà còn đến hàng trăm bài thơ vịnh cảnh của các danh nhân qua các triều đại: TrầnAnh Tông, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông,Phạm Huy ích, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Cao Bá Quát, Nguyễn khuyến, PhạmVăn Nghị…Nhân cách bác học và phẩm cách văn hoá lớn của các danh nhân đóđã thấm đẫm vào tầng văn hoá địa phương, được nhân dân tiếp thu, sáng tạo làmgiàu thêm sắc thái văn hoá Ninh Bình.Đất Ninh Bình không chỉ là “địa linh” mà còn là nơi “nhân kiệt”. Biết baodanh nhân, danh tướng, danh sỹ sinh ra trên mảnh đất này! Khí thiêng sông núiquê hương đã hun đúc nên họ. Thời nào Ninh Bình cũng có những nhân tài như:anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh, các danh tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, TrịnhTú, Lưu Cơ, hoàng hậu Dương Vân Nga, Quốc sư Nguyễn Minh Không, nhà thơTrương Hán Siêu, bảng nhãn Vũ Duy Thanh, tiến sĩ Ninh Tốn, nhà văn hóa VũPhạm Khải, Phạm Thận Duật…Có thể nói, yếu tố “địa linh”,”nhân kiệt”là nhân

tố quan trọng và chủ yếu nhất làm nên gương mặt lịch sử – văn hoá Ninh Bìnhqua các thời đại.1.3. Khái niệm Tục ngữ, Ca dao, Địa danh1.3.1. Khái niệm về tục ngữTục ngữ là một thể loại văn học dân gian hình thành, phát triển và tồn tạitrong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân.Về nội dung: Tục ngữ thường phản ánh những kinh nghiệm về lao độngsản xuất, ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội, hoặc thể hiện triết lý dân giancủa nhân dân. Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sảnxuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác, theo nhà văn hóaVũ Ngọc Phan trong cuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” (Xuất bản lần đầunăm 1955 đến nay đã tái bản nhiều lần) thì ” Tục ngữ là một câu tự nó đã diến đạttrọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý, một công lý, có khinó là một sự phê phán”[01; 37; 08TLTK]. Như vậy có thể thấy tục ngữ mang tínhtrí tuệ cao, bởi nó đúc rút những kinh nghiệm, những điều quan sát được trong tựnhiên, xã hội, con người, những tri thức từ thực tiễn lao động sản xuất. Được ứngdụng và kiểm nghiệm nên tục ngữ rất gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày củanhân dân.Về hình thức: Tục ngữ là những câu nói hoàn chỉnh, được diễn đạt bằngngôn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữlà văn học nói dân gian nên thường được nhân dân vận dụng trong đời sống sinhhoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói và khuyênrăn. Theo Nguyễn Thị Bích Hà trong cuốn Giáo trình văn học dân gian ViệtNam, cũng đã đưa ra nhận xét “Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn cóvần, có nhịp, có hình ảnh” [02; 16; 16TLTK]. Như vậy có thể thấy tục ngữ lànhững câu hoàn chỉnh, có vần, dễ nhớ, dễ thuộc, đặc điểm này giúp chúng ta dễdàng phân biệt tục ngữ với thành ngữ. Bởi cũng theo tác giả Vũ Ngọc Phan trongcuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” “Về hình thức ngữ pháp mỗi thành ngữchỉ là một nhóm từ, chưa phải một câu hoàn chỉnh” “[03; 37; 08TLTK]. Từ những

đặc điểm trên chúng ta có thể thấy tục ngữ là một thể loại văn học dân gian rất dễnhớ, dễ vận dụng, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân,Giữa hình thức và nội dung tục ngữ cũng có sự gắn bó chặt chẽ, một câutục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúckết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hìnhtượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp sosánh, nhân hóa, ẩn dụ…Đa số tục ngữ đều có vần, gồm 2 loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắtnhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơca… Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tụcngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán,nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán. Các kiểu suy luận:liên hệ tương đồng, liên hệ không tương đồng, liên hệ tương phản, đối lập, liên hệphụ thuộc hoặc liên hệ nhân quả.1.3.2. Khái niệm ca daoNếu như tục ngữ là một thể loại văn học dân gian ra đời trước ca dao, thiênvề tổng kết những kinh nghiệm về tự nhiên, xã hội thì ca dao lại thiên về đời sốngtình cảm của con người. Như vậy có thể thấy ca dao ra đời khi đời sống xã hộicủa con người đã phức tạp hơn. Không chỉ biểu hiện đời sống vật chất, đời sốngtình cảm ca dao còn thể hiện ý thức của con người trong lao động sản xuất, cải tạothiên nhiên, kinh tế xã hội và tinh thần đấu tranh chống lại áp bức, cường quyền,những thói hư tật xấu trong xã hội…Về cơ bản ca dao thể hiện mối quan hệ giữacon người với con người trong xã hội, mối quan hệ giữa con người với tựnhiên…nên ca dao bao giờ cũng thể hiện cái nhìn chủ quan của con người với thếgiới khách quan, đó là cái tôi trữ tình mà chúng ta rất dễ nhận ra qua những sángtác dân gian này.Là thể loại văn học dân gian tồn tại bằng phương thức truyền miệng ca daođã được nhiều thế hệ lưu truyền với những dị bản khác nhau. Tuy nhiên ca daovẫn giữ được nét mộc mạc, giản dị trong cách thể hiện. Chúng ta có thể bắt gặp

Quán cháo -Tam Điệp (đền Quán Cháo gắn liền với sự tích tiên nữ dâng cháo choquân lính Tây Sơn trước giờ xung trận), Cầu Lim- cầu bắc qua sông Vân ở trungtâm thành phố Ninh Bình (chuyện kể khi xưa cầu được bắc bằng gỗ lim, tên gọinày còn mãi đến nay)…1.4. Văn học dân gian Ninh Bình và tục ngữ, ca dao Ninh Bình1.4.1. Khái quát về văn học dân gian Ninh Bình1.4.1.1. Thể loại tự sựThần thoạiThần thoại Ninh Bình tập hợp những chuyện kể dân gian về các vị thần,các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, sư tổ của nghề; phản ánhquan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con người…Thần thoại Ninh Bình bị truyền thuyết hóa, biến tướng trong phật thoại, tiênthoại, truyện cố tích…Thần thoại tiêu biểu và phổ biến nhất ở Ninh Bình là thần thoại về ôngKhổng Lồ (Nguyễn Minh Không 1066 – 1141)Truyền thuyếtTruyền thuyết Ninh Bình kể lại tích các nhân vật lịch sử, giải thích cácnguồn gốc, các phong vật địa phương theo quan niệm, tưởng tượng của người dân.Truyền thuyết dân gian Ninh Bình mang dấu ấn về vùng đất và con ngườiNinh Bình.Truyện truyền thuyết Ninh Bình ghi đậm công tích của người Ninh Bìnhtrong việc khai khẩn đất hoang, lập làng, lập ấp… và đặc biệt là truyền thuyết vềcác vị vua.Cổ tíchTruyện cổ tích Ninh Bình phản ánh những xung đột, mâu thuẫn trong giađình và xã hội.Truyện cổ tích Ninh Bình thể hiện ước mơ về một cuộc sống ấm no, hạnhphúc của nhân dân.

Truyện cổ tích Ninh Bình phản ánh triết lý sống, đạo lý làm người và ướcmơ công lý của nhân dân.Truyện cườiTruyện cười Ninh Bình là hình thức giải trí, đem lại tiếng cười vui trongcuộc sống thường ngày.Phê phán những thói hư, tật xấu của con người, lên án các ác, đả kích giaicấp thống trị trong xã hội phong kiến.Truyện thơTruyện thơ Ninh Bình mang tính tự sự kể về một sự kiện, một hiện tượngxã hội như Ký sự nhật trình, Kim Sơn sự tích Doanh điền ca…Truyện thơ viết về đề tài lịch sử, danh nhân văn hóa, nhân vật lịch sử:Truyện Đinh Tiên Hoàng diễn ca, Thánh Nguyễn…1.4.1.2. Thể loại trữ tình và luận lýCa dao, dân ca: Ca dao, dân ca Ninh Bình giản dị, chất phác như đất vàngười Ninh Bình, phản ánh đời sống, tình cảm, tâm hồn của người dân Ninh Bình.Tục ngữ: có tính chất đúc kết kinh nghiệm về con người, về lao động sảnxuất, đấu tranh xã hội, thiên nhiên, về những sản vật của địa phương Ninh Bình.1.4.1.3. Khái quát về đặc trưng, đặc điểm của văn học dân gian Ninh BìnhLà một bộ phận không thể tách rời của văn học dân tộc, văn học dân gianNinh Bình cũng có đầy đủ những đặc điểm chung của văn học dân gian. Tuy nhiênđược ra đời và phát triển gắn liền với những sinh hoạt văn hóa làng xã của cư dânnông nghiệp với đa dạng địa hình nên văn học dân gian Ninh Bình cũng mangmàu sắc địa phương khá rõ nét đó là:* Tính đa dân tộc của văn học dân gian Ninh BìnhNinh Bình có hai dân tộc chính là người Kinh và người Mường. Tộc ngườiMường sinh sống chủ yếu ở một số xã vùng núi huyện Nho Quan như: ThạchBình, Xích Thổ, Yên Quang, Văn Phương, Phú Long, Kỳ Phú, Cúc Phương,Quảng Lạc…Tộc người Kinh chiếm đa phần, phân bố ở các huyện, thành phố cònlại trong tỉnh. Chính vì vậy văn học của người Kinh chiếm số lượng lớn với nhiều

Sắc Thái Văn Hóa Quảng Bình Trong Ca Dao, Tục Ngữ

Quảng Bình là một tỉnh có đặc điểm sinh thái đa dạng: biển, rừng, đồng bằng đã tạo cho vùng đất này có nhiều cảnh quan tươi đẹp: vừa hùng vĩ vừa nên thơ, nhiều sản vật độc đáo phong phú, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển cả ba đặc trưng văn hoá: văn hoá núi, văn hoá đồng bằng và văn hoá biển.

Trước hết, điều kiện địa lí và môi trường tự nhiên đóng vai trò quan trọng để hình thành nên phẩm chất con người Quảng Bình. Đồng bằng nhỏ hẹp, núi non hiểm trở, nắng nóng, mưa nhiều, thiên tai…Ở Quảng Bình khi nói tới việc cách trở, khó khăn về mặt không gian, nhân dân thường dùng hình ảnh “truông”. Truông là một đặc điểm địa chất của vùng đất này. Truông là một nơi khó qua lại:

Eo truông cách trở khó qua, Tam Đa là một, Đại Hoà là hai.

Về mặt lịch sử, xã hội, trong quá khứ, Quảng Bình là khu vực chiến tranh, nội chiến, bị phân ranh, chia cắt. Khi cuộc nội chiến Trịnh -Nguyễn nổ ra, sông Gianh trở thành giới tuyến phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đi qua nơi đây như thử thách lòng dũng cảm, trí thông minh của con người:

Khôn ngoan qua cửa Thanh Hà, Đố ai có cánh bay qua luỹ Thầy.

Cửa Thanh Hà là cửa sông Gianh, Luỹ Thầy là thành luỹ do Đào Duy Từ xây dựng ở Đồng Hới để phòng thủ ngăn chặn hướng tiến công của quân Đàng Ngoài: ” Thứ nhất thì sợ luỹ Thầy, Thứ nhì sợ lầy Võ Xá”.

Môi trường khắc nghiệt rèn luyện cho con người Quảng Bình nhiều đức tính quý báu: lao động cần cù, chịu đựng gian khổ. Bên cạnh đó, sự thâm nghiêm của núi rừng, sự hùng vĩ của biển cả tạo cho con người nơi đây khí chất khẳng khái, mạnh mẽ. Dấu ấn thiên nhiên in dấu lên tâm hồn họ, tạo cho họ tính cách vừa hào phóng lại vừa khắt khe, vừa âu lo lại vừa hồn nhiên…Trong quá trình dựng nước, Quảng Bình là tỉnh có một số phận lịch sử khá đặc biệt. Thời cổ đại, đây là nơi diễn ra các cuộc chiến giữa Âu Lạc và Lâm Ấp chống Trung Hoa. Thời trung đại, là mảnh đất giao tranh của Chăm và Việt, của Đàng trong và Đàng ngoài. Về sau này là mảnh đất chịu nhiều bom đạm của giặc Pháp, giặc Mỹ. Đau thương và gian khó đã thấm vào từng tấc đất và con người nơi đây. Hoàn cảnh ấy khiến cho con người Quảng Bình có một khả năng đối phó cao, một tinh thần yêu nước và một ý chí sắt đá.

Lễ hội cầu ngư

Một nhân tố cuối cùng tác động lên sự hình thành phẩm chất con người Quảng Bình đó là môi trường văn hoá. Quảng Bình là nơi pha trộn của nhiều luồng văn hoá khác nhau: văn hoá Đàng Trong, Đàng Ngoài, văn hoá Phú Xuân, văn hoá Trung Hoa, văn hoá Chăm Pa…Tính chất pha trộn này hình thành nên tính cách dễ hoà nhập của con người nơi đây.

Nhân dân Quảng Bình từ xưa đã có truyền thống hiếu học và học giỏi. Có thể kể số tên tuổi tiêu biểu như: học giả Dương Văn An, Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Hàm Ninh, Nguyễn Phạm Tuân, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử… Nhiều làng quê văn vật có từ lâu đời như: Sơn – Hà – Cảnh – Thổ / Văn – Võ – Cổ – Kim. Nơi đây dồn tụ được khí thiêng sông núi để rồi sản sinh ra những danh nhân, những anh hùng của vùng đất “địa linh nhân kiệt”:

Chữ rằng nhân kiệt địa linh, Đất chung khí tốt mới sinh anh hiền.

Tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Bình là tín ngưỡng đa thần. Chất âm tính của văn hoá nông nghiệp dẫn đến hệ quả trong quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng nữ và tín ngưỡng Nữ thần chiếm ưu thế:

Bà vô mười bảy tháng tư,

Vạn lo lập lễ cầu ngư lưới nghề .

Thần linh dù được thờ ở đình làng hay các đền, các miếu đều được nhân dân và chính quyền hương thôn chăm lo, nhắc nhở nhau thờ phụng quanh năm:

Chớ thấy miếu rách bỏ thờ, Bỏ miếu không thờ tội lắm ai ơi.

Tục thờ vong linh ở Quảng Bình là thờ linh hồn ông bà, cha mẹ, những người thân trong gia đình. Ca dao Quảng Bình có câu:

Đạp xe lấy nước lên đồng, Lập lăng thờ mẹ ẵm bồng khi xưa.

Lễ hội mang tính chất tâm linh, giải trí nhưng chứa đựng tư tưởng nhân văn sâu sắc. Ở Quảng Bình có hội bơi trải trên sông Nhật Lệ và sông Kiến Giang theo lệ ” lục niên canh độ “:

Kẻ Giàu có quán Đình Thanh, Kẻ Hạc ta có ba đình ba voi. Mười tám kéo thuyền xuống bơi, Mười chín giã bánh, hai mươi rước thần.

Bên cạnh lễ hội bơi thuyền ở đây còn có nhiều sinh hoạt văn hoá khác:

Người về nhớ trống Kẻ Sen Nhớ chuông Kẻ Hạc nhớ kèn Thiệu Yên

Bài chòi là một trò chơi văn nghệ. Để động viên, cổ vũ, khích lệ tinh thần người ta đặt lời vận động chơi bài chòi:

Đầu năm bói toán đâu xa, Bài chòi một hội biết là rủi may.

Người Quảng Bình qua nhiều thế hệ đã hình thành nên phong tục ăn, mặc mang đậm dấu ấn của mảnh đất này. Phong tục ẩm thực Quảng Bình đi vào ca dao, tục ngữ: ” Ăn chắc mặc bền”, “Ăn cay uống đắng”, “Ăn ít no lâu, ăn nhiều tức bụng”, …Thức ăn chủ đạo vẫn là rau củ: ” Tối ăn rau đi ngủ, sáng ăn củ đi làm”. Bữa ăn nào có cơm cá đối với họ là một bữa ăn ngon và sang trọng. Người ta khuyên bảo nhau cách ứng xử: ” Ăn nhai, nói kĩ”, “Ăn bớt đọi, nói bớt lời”, “Đừng ăn cháo đá bát”, “Đừng bao giờ ăn gian nói dối”, …Ăn phải biết lo toan, tính toán: ” Ăn củ môn bữa mai, để củ khoai bữa mốt”. Ăn bao giờ cũng gắn liền với làm, ăn để mà làm, “ăn làm” chứ không phải “ăn chơi”: ” Ăn cơm cho no, chèo đò Phú Trịch”, hay:

Muốn ăn mật vô rú Trèn, Muốn xơi ốc đực phải lên thác Đài.

Món ăn thể hiện bức tranh sản vật của vùng quê, là sản phẩm của quá trình lao động. Món ăn trở thành đặc sản của mỗi vùng quê Quảng Bình:

Ai lên Tuy đợi thì lên, Bún thịt chợ Tréo chớ quên mang về.

Món ăn trở thành niềm tự hào, thành nỗi nhớ của người con khi đi xa:

Mặt trời đã gác ngọn chông, Đi mô cũng nhớ nồi hông cơm bồi.

Chế biến món ăn là cả một công trình nghệ thuật. Tục ngữ Quảng Bình nói đến nghệ thuật nấu nướng: ” Cá bống kho tiêu, Cá thiều kho ngọt. Nghệ thuật chế biến thức ăn của nhân dân Quảng Bình chủ yếu thể hiện ở các món ăn chế biến từ cá. Có lẽ đây là do sở thích và thói quen ăn uống của họ:

– Cá dở thì hấp hành tươi, Cá ngứa thêm nấm, cá buôi thêm ngò. – Cá thiều mà nấu măng chua, Một chút canh thừa cũng chớ bỏ đi. – Muối mè rang với ruốc khô, Có chết xuống mồ cũng dậy mà ăn.

Ăn gắn liền với nói, với giao tiếp và ứng xử: ” Ăn đúng bữa, nói lựa lời”, khuyên răn, nhắc nhở nhau khi nói năng cần phải tìm ngôn ngữ đúng đắn, phù hợp. Người ta phê phán những kẻ khi ăn không tưởng đến ai nhưng làm thì nhờ mọi người giúp đỡ: ” Ăn cúi trôốc, đẩy nôốc kêu làng”.

Trong các ngày Tết thì món ăn của người Quảng Bình là những món ăn truyền thống:

Tết về câu đối bánh chưng, Chẳng ham giò chả chỉ ưng Ngứa, Xoè.

Trong ngày Tết, ở Quảng Bình không thiếu hai thứ cổ truyền của dân tộc: ” câu đối đỏ”,”bánh chưng xanh“. Họ không cần những món ngon như giò, chả mà chỉ thích những món bình dân. “Ngứa, xoè” là hai loại cá có nhiều ở vùng biển Quảng Bình. Thức uống của người Quảng Bình là nước chè xanh. Chè xanh là một thứ nước uống bổ dưỡng: ” Nước chè xanh vừa lành vừa mát”. Người Quảng Bình ai cũng biết đến vùng đất chè Tuyên Hoá:

Ai lên Tuyên Hoá quê mình, Chè xanh mật ngọt thắm tình nước non.

Cũng có câu ca dao ví sự ngọt mát của nước chè với tình yêu, sự hoà hợp của vợ chồng trong cuộc sống:

Nước trong pha với chè tàu, Lấy chồng Đồng Phú không giàu cũng vui.

Trong các bữa cỗ, bữa tiệc, họ còn uống rượu. Uống rượu cũng là dịp để giao tiếp, bày tỏ sự thân tình. Quảng Bình nổi tiếng với: ” Sò nghêu Quán Hàu, Rượu dâu Thuận Lý”.

Nghề trồng lúa là nghề chủ đạo. Huyện Lệ Thuỷ có cánh đồng màu mỡ, phù sa bồi đắp hàng năm nên được coi là vựa lúa thứ hai của xứ Đàng Trong: ” Thứ nhất Đồng Nai, thứ nhì hai huyện “. Có bài ca dao đã ca ngợi sự trù phú của mảnh đất này:

Lệ Thuỷ gạo trắng nước trong, Ai về Lệ Thuỷ thong dong con người.

Một bài ca dao khác cũng ca ngợi sự ấm no nhờ nghề trồng lúa:

Hoàng Cương ăn tấm cũng no, Đông viên có thóc bán cho Kẻ Hoàng.

Người Quảng Bình còn biết nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc: “Muốn giàu nuôi cá, Muốn khấm khá nuôi heo”. Họ còn biết tận dụng môi trường tự nhiên để phục vụ nhu cầu cuộc sống: “Trong làng đi tranh đi củi, Ngoài nghề đi dũi đi câu”.

Quảng Bình với đường bờ biển dài, với nhiều loại tôm cá, cư dân ven biển đã sớm biết khai thác, đánh bắt nguồn hải sản này. Nghề đánh bắt cá sớm trở thành nghề chính ở đây. Họ biết đóng thuyền, thả lưới, vào lộng ra khơi để khai thác món quà mà thiên nhiên ban tặng:

Tháng bảy nước phảy lên bờ, Sắn rớ, sắm đáy đợi chờ làm ăn.

Ngoài nghề nông và nghề đi biển, Quảng Bình còn có một số nghề thủ công truyền thống như đan chiếu, làm nón: ” Chiếu cói An Xá, nón lá Quy Hậu”. Bên cạnh đó việc buôn bán cũng rất phát triển. Chợ ở Quảng Bình được biết đến nhiều nhất là chợ Ba Đồn:

Ba Đồn là chợ xưa nay, Tụ nhân tụ hoá mười ngày một phiên.

Chợ không chỉ là nơi trao đổi, buôn bán hàng hoá mà còn là nơi gặp gỡ, giao lưu tình cảm :

Chợ Sạt một tháng ba phiên, Không đi thì nhớ lời nguyền bạn quen.

Trong đời sống tinh thần, con người sống thiên về tình cảm, quý trọng nề nếp gia phong. Con cái luôn có ý thức chăm lo, phụng dưỡng cha mẹ:

Ba đồng một khứa cá buôi, Cũng mua cho được mà nuôi mẹ già.

Tình cảm gia đình là thiêng liêng, đặc biệt nhạy cảm là mối quan hệ giữa nàng dâu với mẹ chồng:

Mẹ già là mẹ của anh, Ăn cơm có cá, có canh rau bầu. Hạt gạo lúa dâu xót hai đầu cho trắng, Tôm phơi một nắng bóc vỏ nấu canh, Múc nước trong xanh để mẹ già tắm mát…

Đối với quan hệ xã hội, người lớn luôn khiêm nhường trong ứng xử, sống hài hoà, không gây hiềm khích với làng trên xóm dưới:

Nhịn chắc (nhau) một chút cho xinh Ai sợ chi mình, mình sợ chi ai

Lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Quảng Bình tuy không ngọt ngào như các vùng khác nhưng nó ẩn chứa sự chân tình, cởi mở. Ngay từ thuở còn thơ cha mẹ đã dạy con cái cách ăn nói sao cho lễ phép: ” Gọi thì dạ, bảo thì vâng”. Hoặc là: ” Nói thì thưa trước, dạ sau”… Cha ông truyền dạy cho con cháu cách ăn ở, nói năng sao cho hoà thuận trong nhà, ngoài ngõ. Dần dần hình thành nên một phong tục trong ứng xử có thể thấy rõ trong câu ca: ” Rây (dây) chùn khó đứt”. Họ coi sự hoà thuận làm yêu cầu đầu tiên trong giao tiếp. Hoà thuận trong lời ăn, tiếng nói để giữ mối quan hệ bằng hữu bền chặt.

Phong tục tập quán của người Quảng Bình vừa mang dấu ấn đồng bằng nông nghiệp vừa pha trộn với văn hoá núi rừng và biển cả. Ăn thì ham chắc, mặc thì ham bền, ở thì giản dị, giao thiệp thì chân thật và mến khách. Tình cảm chân tình, hiếu nghĩa. Nét đẹp của tín ngưỡng thể hiện ở sự tôn kính, biết ơn. Sống trong khó khăn, chiến tranh nên nghèo khó cứ đeo đẳng con người vùng đất này nhưng họ vẫn không hề nhụt chí, phiền não mà luôn ham sống, yêu đời, chấp nhận thử thách để vượt lên.

Qua ca dao, tục ngữ, văn hoá dân gian Quảng Bình đã thể hiện một dấu nhấn khá đậm nét của người Việt ở miền Trung, đóng góp một nét phong cách văn hoá của đất này với khu vực văn hoá Bắc miền Trung nói riêng và văn hoá vùng miền Trung nói chung. Đây là một vấn đề nghiên cứu khá thú vị nhưng rất khó khăn. Những gì đã trình bày trong bài viết này là rất nhỏ so với một nền văn hoá Quảng Bình đa dạng. Chắc rằng vào một dịp khác có điều kiện thuận lợi, chúng tôi sẽ đầu tư nghiên cứu kĩ hơn.

(Theo chúng tôi