Ca Dao Tục Ngữ Về Món Ăn Hà Nội / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Dtdecopark.edu.vn

Thơ, Ca Dao Tục Ngữ Về Hà Nội

Thơ, ca dao tục ngữ về Hà Nội

Thăng Long Hà Nội đô thành Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ Cố đô rồi lại tân đô Ngàn năm văn vật bây giờ là đây.

*

Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn Hỏi ai gây dựng nên non nước này?

*

Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

*

Ai qua phố Nhổn, phố La Dừng chân ăn miếng chả pha thơm giòn

*

Gắng công kén hộ cốm Vòng Kén chồng Bạch Hạc cho lòng ai vui.

*

Nhác trông lên chốn kinh đô Kìa đền Quán Thánh, nọ hồ Hoàn Gươm.

*

Làng tôi có lũy tre xanh Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng Bên bờ vải nhãn hai hàng Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.

*

Đường về xứ bắc xa xa Có về Hà Nội với ta thì về Đường thủy thì tiện thuyền bè Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang

*

Bao giờ lấp ngã ba Chanh Để ta gánh đá xây thành Cổ Loa.

*

Thanh Trì có bánh cuốn ngon Có gò Ngũ Nhạc, có con sông Hồng Thanh Trì cảnh đẹp người đông Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.

*

Sông Tô nước chảy trong ngần Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa Thon thon hai mũi chèo hoa Lướt đi lướt lại như là bướm bay.

*

The La, lĩnh Bưởi, sồi Phùng Lụa vân Vạn Phúc, nhiễu vùng Mỗ bên.

*

Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm Cá rô đầm Sét, sâm cầm hồ Tây

*

Ổi Quảng Bá, cá hồ Tây Hàng Đào tơ lụa làm say lòng người.

*

Lụa này là lụa Cổ Đô Chính tông lụa cống các cô ưa dùng.

*

Ai về đến huyện Đông Anh Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục Vương Cổ Loa hình ốc khác thường Trải bao năm tháng, nẻo đường còn đây.

*

Nhong nhong ngựa Ông đã về Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa Ông ăn.

*

Rủ nhau chơi khắp Long thành Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai. Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Bài, Hàng Khay Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn Phố Mới, Phúc Kiến, Hàng Than Hàng Mã, Hàng Mắm, Hàng Than, Hàng Đồng Hàng Muối, Hàng Nón, Cầu Đông Hàng Hòm, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Bè Hàng Thùng, Hàng Bát, Hàng Tre Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà Quanh đi đến phố Hàng Da Trải xem phường phố thật là cũng xinh Phồn hoa thứ nhất Long Thành Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền.

Nguồn: Maxreading

Món Ngon Hà Thành Trong Ca Dao, Tục Ngữ

Thủ đô Hà Nội từ lâu đã được bạn bè trong nước và quốc tế biết đến là mảnh đất nghìn năm văn hiến. Là nơi hội tụ, kết tinh, lan tỏa những món ăn ngon của mọi miền đất nước. Người Hà Nội tinh tế, tài hoa đã chắt lọc của ngon, vật lạ về đây, tạo nên một dấu ấn văn hóa ẩm thực rất riêng. Và không có gì quá ngạc nhiên, khi dấu ấn ẩm thực Hà Thành được tái hiện trong kho tàng văn học dân gian của người Việt qua những câu ca dao, tục ngữ vô cùng gần gũi, bình dị.

Thật hiếm nơi nào có nhiều tên phố, tên đường, tên làng gắn liền với những cái tên gợi “hồn ăn uống” như Hà Nội. Nào phố Chả Cá, Hàng Cháo, nào cốm làng Vòng, nào bưởi Phú Diễn, bánh cuốn Thanh Trì… Trải qua bao thăng trầm, biến cố của thời gian, nhiều tên phố, tên làng chỉ cần nghe đến là người ta đã liên tưởng tới những món ăn đặc trưng của nơi đó và món ngon Hà Nội cứ thế đi vào ca dao tục ngữ với bao gần gũi, trìu mến.

Cứ mỗi độ thu về Hà Nội lại nồng nàn hương cốm. Từ lâu cốm là loại quà đặc trưng của Hà Nội và được đông đảo người dân Thủ đô yêu thích. Cốm mang trong mình hương vị riêng của Hà Nội, từng hạt cốm dẻo thơm được gói trong lá sen, ăn cùng chuối trứng cuốc tạo nên một hương vị mà bất kỳ ai đã thưởng thức qua rồi cũng sẽ nhớ mãi.

“Cốm Vòng thơm mãi bàn tay

Đi xa Hà Nội nhớ ngày cốm thơm”

“Thanh Trì có bánh cuốn ngon,

Có gò ngũ Nhạc, có con sông Hồng”

“Bún ngon, bún mát Tứ Kỳ

Pháp Vân cua ốc đồn thì chẳng ngoa”

“Ai qua phố Nhổn, phố Lai,

Dừng chân ăn miếng chả Đài thơm ngon”

Còn trong những ngày thường thì người sành ăn lại tìm đến đặc sản cá rô Đầm Sét, nổi tiếng thịt thơm, ngon, béo, từng trở thành sản vật tiến vua, chúa:

“Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm

Cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây”

Tương truyền rằng đầm Sét vốn là khúc sông Kim Ngưu trước kia có nối với Hồ Tây, khi nước chảy qua làng Sét thuộc xã Thịnh Liệt, Thanh Trì bị cạn lại thành một dải đầm lớn. Vào độ cuối thu khi lúa chín vàng rực trên những cánh đồng cũng là lúc cá rô căng tròn, béo vàng nhất trong năm và thịt cá có vị đậm, thơm ngon lạ kỳ. Cá rô có thể chế biến thành nhiều món ngon: cá rô rán, cá rô kho om, cá rô hấp cơm nếp… Tuy nhiên ngon và đưa cơm nhất vẫn là món canh rau cải cá rô dân dã nhưng vô cùng hấp dẫn, thanh mát, bổ dưỡng.

Ngoài những món ăn nổi tiếng, mảnh đất Hà thành còn mang trong mình nhiều sản vật tưởng chừng như rất mộc mạc thân quen và đời thường nhưng cũng mang đậm hương sắc thôn quê:

“Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét

Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm, cá rô đầm Sét, sâm cầm hồ Tây.

Ổi Định Công, nhãn lồng làng Quang, vàng làng Tó, kéo vó Xóm Văn

Bằng vải, Bằng dưa, Linh cua, Tứ bún

Rau cải làng Tiếu chấm nước điếu cũng ngon

Cam canh, hồng Diến, cốm Vòng

Bán mít chợ Đông, bán hồng chợ Tây, bán mây chợ Huyện, bán quyến chợ Đào

Diêm quả đào, thuốc lào làng Nhót

Lĩnh Bưởi, lụa La, thêu hoa Ngũ Xã

Cỗ Dương Đanh, hành làng Nội, hội làng Lam, tàn làng Quán, hương án làng Đề”

 Ẩm thực và nét văn hóa ẩm thực của người Hà Thành đã đi sâu vào đời sống con người, cũng như đi sâu vào những chất liệu dân gian như ca dao, tục ngữ…. một cách nhẹ nhàng, thân thuộc và thấm đượm tình cảm. Những câu ca dao, tục ngữ không chỉ lột tả được sự thi vị của món ngon Hà Thành mà còn là một tư liệu quý báu truyền lại cho nhiều thế hệ về sau để lưu giữ và lấy đó làm cốt lõi, bảo tồn và xây dựng nền văn hóa của Thủ đô ngày một phát triển hơn.

Quỳnh Trang

Câu Ca Dao, Tục Ngữ Hay Về Ăn Uống, Món Ăn, Ăn Nói, Ăn Mặc

Tổng hợp những câu ca dao, tục ngữ hay về ăn uống, món ăn, ăn nói, ăn mặc

Câu ca dao, tục ngữ nào hay về ăn uống, món ăn, ăn nói, ăn mặc?

Như các bạn đã biết ca dao, tục ngữ không những là tiếng nói chứa đựng tâm tư, tình cảm của người lao động mà còn là những kho tàng kinh nghiệm sống quý giá của muôn đời. Khi chúng ta tìm hiểu kỹ về ca dao, tục ngữ thì chúng ta càng cảm phục cha ông, càng thấm thía những lời dạy được truyền từ đời này qua đời khác mà luôn luôn giữ nguyên giá trị của nó trong sự nghiệp xây dựng con người mới hiện nay. Và bài viết này vforum sẽ gửi đến các bạn những Câu ca dao, tục ngữ hay vềăn uống, món ăn, ăn nói, ăn mặc? Sau đây hãy cùng vforum tìm hiểu nhé.

Câu ca dao, tục ngữ hay về ăn uống, món ăn, ăn nói, ăn mặc 1.

Ăn chậm, nhai kỹ, no lâu Ăn nhanh, chóng đói, lại đau dạ dày

Nghĩa đen về mặt sinh học của câu thành ngữ này là khi nhai càng kĩ thì hiệu suất tiêu hóa càng cao, cơ thể hấp thụ được nhiều chất dinh dưỡng hơn nên no lâu hơn.

2..

Muốn cho ngũ tạng được yên Bớt ăn mấy miếng, nhịn thèm hơn đau

Câu ca dao cho biết ý nghĩa là không nên ăn nhiều những thứ không tốt cho sức khỏe, mặc dù nó có ngon nhưng bớt ăn mấy miếng để giữ sức khỏe, nhịn thèm hơn là ăn vào rồi đổ bệnh.

3.

Râu tôm nấu với ruột bầu, Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon

Hai câu ca dao trên nói về lòng chung thủy của những đôi vợ chồng lao động nghèo khó nhưng vẫn hạnh phúc, dù bữa ăn chỉ là với món Râu tôm ruột bầu. Râu tôm ruột bầu chỉ là những thứ bỏ đi, nhưng lại là một giá trị lớn cho những người lao động nghèo khó. Nghèo nhưng họ vẫn hạnh phúc với món cơm bình dân.

4.

Ăn cơm không rau như đau không thuốc

Câu nói của các cụ ngày xưa đã cho thấy, rau quan trọng thế nào trong bữa cơm thường ngày. Tuy nhiên thực tế cho thấy, các bữa ăn trong gia đình hiện đại ngày nay đang thiếu cân bằng dinh dưỡng với rau xanh chỉ bởi một điều, ai cũng bận rộn, cứ nghĩ ăn uống qua loa cho no bụng, đáp ứng nhu cầu calo, tạo ra năng lượng để tập trung làm việc là sai hoàn toàn nhé

5.

Ăn cơm có canh như tu hành có bạn

Câu tục ngữ này dùng để chỉ cho sự quan trọng của bạn cùng tu hành. Bạn đồng tu sẽ giúp mình tinh tấn hơn, nâng đỡ mình đứng dậy khi lầm lỗi, bảo hộ thân tâm mình trong sự tu tập và đời sống. Việc so sánh như “ăn cơm có canh” như vậy nhằm nhấn mạnh hơn về tình bạn

6.

Ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy Ăn cơm với cáy thì ngáy o o…

Ăn cơm với cáy (một thứ cua nhỏ ở bể) là khi nhà còn nghèo; ăn cơm với thịt bò là lúc đã giầu có. Câu này ý nói nghèo chưa hẳn đã khổ, giầu có chưa hẳn đã là sung sướng, giàu nghèo đều có niềm vui và nỗi buồn.

7.

Ăn thịt bò không tỏi Như ăn gỏi không rau mơ

Câu này dùng hình những hình ảnh thức ăn để phản ánh lên cách ăn uống không đúng cách, thiếu những gia vị sẽ làm món ăn không còn hấp dẫn nữa.

8.

Ăn tôm cấu đầu, ăn trầu nhả bã

Câu tục ngự này có ý nghĩa là ăn tôm thì nhớ bỏ đầu đi cũng như ăn trầu thì nhớ nhả bã ra vì đó đều là những thứ chẳng béo bổ gì.

9.

Thương chồng nấu cháo le le Nấu canh hoa lý, nấu chè hột sen.

Hoa thiên lý đã đi vào thơ ca, nhạc họa như một loài hoa mộc mạc, giản dị mà nồng nàn. Câu này có hàm ý là người phụ nữ khi về làm vợ, lại bày tỏ tình cảm một cách thực tế hơn, khi lấy hoa thiên chế biến món ngon để giữ lấy tình yêu của người đàn ông.

10.

Rau cải nấu với cá rô Gừng thêm một lát, cho cô giữ chồng.

Câu ca dao có hàm ý là người phụ nữ nấu món cá rôi cùng với rau cải và thêm vào một vài lát gừng để chồng thưởng thức thấy thích và yêu thương.

11.

Học ăn, học nói, học gói, học mở

Câu tục ngữ này nói về những điều cơ bản trong cuộc sống mà con người ta phải học để có được cách ăn ở, giao tiếp, cách đối nhân xử thế sao cho lịch sự, tế nhị, văn minh.

12.

Ăn lấy chắc, mặc lấy bền

Câu tục ngữ thể hiện một tinh thần tiết kiệm, một sự bình dị trong ăn mặc. Từ đó có thể hiểu rằng xuất phát điểm của câu tục ngữ là tầng lớp người lao động nghèo trong xã hội xưa, đồng thời đây còn là một lời khuyên về cách sử dụng thành quả lao động sao cho hợp lí, sao cho giản dị.

13.

Cơm là gạo, áo là tiền

Cơm áo gạo tiền là chỉ những lo toan cho cuộc sống hàng ngày của con người gồm có Cơm gạo là cái ăn, áo đại diện cho cái mặc và tiền dùng để chi tiêu hàng ngày.

14.

Một thương tóc bỏ đuôi gà Hai thương ăn nói mặn mà, có duyên

Quan niệm xưa cho rằng”tóc bỏ đuôi gà, má lúm đồng tiền” là vẻ đẹp hình thể, vẻ đẹp bề ngoài, còn”ăn nói mặn mà có duyên”là vẻ đẹp của tâm hồn bên trong, luôn bền vững với năm tháng, với thời gian…

15.

“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang Người khôn nói tiếng dịu dàng, dễ nghe”

Ca dao còn nhắc nhở, khuyên nhau khi nói phải lựa lời, chọn lời, cân nhắc ý tứ. Lời nói luôn có sẵn, đối với từng trường hợp cụ thể mà chúng ta dành những”lời hay ý đẹp”cho nhau. Có niềm vui nào hơn khi trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn được nghe những lời nói đẹp, những lời nói hay, sâu sắc, để cho con người sống thương nhau hơn, gần gũi nhau hơn:

16.

Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau

Câu ca dao là một bí quyết giúp ta thành công trong đời, là một lời giáo huấn về cách đối nhân xử thế. Đây cũng là 1 bài học cho con người để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cho con người. Bản thân em lánh cần học tập cách ăn nói lịch sự, lễ pháp để xúng đáng là “con ngoan trò giỏi”

17.

Người thanh tiếng nói cũng thanh Chuông kêu chuông đánh bên thành cũng kêu

Câu ca dao này là bình phẩm về nhân cách của cá nhân. Hàm ý khen ngợi, ca tụng con người có văn hoá, một bên trách cứ cái xã hội không chăm lo cho con người để nó tốt lên

18.

Người khôn ăn nói nửa chừng Để cho người dại nửa mừng nửa lo

Câu nói này ý muốn nhắc nhở ta cần tránh lối nói lấp lửng, nửa úp nửa mở, khiến cho người nghe áy náy, phân vân, không rõ thực hư thế nào, gầy phiền muộn cho nhau

19.

Nói chín thì phải làm mười Nói mười làm chín kẻ cười người chê”

Câu này người xưa khuyên răn ta nên “nói ít làm nhiều”, đừng “nói nhiều làm ít” kẻo mang tiếng cười, tiếng chê bai

20.

Kim vàng ai nỡ uốn câu Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời

Đúng vậy, nói nhau làm chi nặng lời bởi trong tình huống nào cũng rất cần chữ”nhẫn”như người xưa khuyên nhủ”một câu nhịn, chín câu lành”.

Trên đây là bài viết về Câu ca dao, tục ngữ hay về ăn uống, món ăn, ăn nói, ăn mặc? Mong rằng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn biết thêm nhiều câu ca dao tục ngữ hay trong kho tàng của Việt Nam ta.

Xem thêm:Những câu ca dao, tục ngữ về thiên nhiên và sản xuất, lao động hay nhất

Thăng Long Hà Nội Trong Ca Dao Ngạn Ngữ

  Cung cấp: Tieuboingoan

Thăng long Hà Nội trong ca dao ngạn ngữ

Nhà xuất bản Hà Nội – 2002

Giang Quân sưu tầm, biên soạn (In lần thứ hai có bổ sung, sửa chữa)

Như tên gọi của nó, Hà Nội trong ca dao – Ngạn ngữ chỉ tập hợp những câu ca trong bài phải có những địa danh, con người hoặc sự kiện đã xảy ra ở kinh đô – dù chỉ là cái cớ để biểu đạt tình cảm khác, và những câu mang đặc thù phản ánh tính cách người Kẻ Chợ, tính chất nghề nghiệp của riêng vùng Hà Nội. Bởi vậy nó không bao gồm tất cả những câu ca trữ tình hoặc châm biếm khác đã được sưu tầm ở Hà Nôị từ trước tới nay. Việc này, nhiều soạn giả đi trước đã làm. Cuốn sách phổ thông này chỉ mong góp phần nhỏ cho người Hà Nội, nhân dân cả nước và những người đi xa Thủ đô, và Tổ quốc hiểu thêm về Hà Nội xưa, để càng thêm yêu vùng đất và con người Hà Nội hôm nay. Sách gồm hai phần: Phần I có hai mục: a) Ca dao, b) Ngạn ngữ, được sắp xếp theo từng vùng hoặc Phần II có bảng tra cứu địa danh dưới hình thức tự điển, để khi đọc nếu chưa rõ ở đâu thì tìm xem. Làm như vậy tránh được phải chú thích lặp lại ở nhiều chỗ, và không rối mắt bạn đọc đã có những hiểu biết nhất định về Hà Nội. Kèm theo là phụ lục giải thích những câu khó hiểu, mang tính lịch sử, phong tục thời ấy, hoặc chú thích thời gian xuất hiện và nơi sưu tầm, xét thấy cần cho người đọc. Bản in lần thứ hai này đã chỉnh lý địa danh theo phân chia hành chính mới, tới năm 2001 và bổ sung hơn 200 câu ca dao mới sưu tầm được thêm, trong đó có ca dao sau hòa bình và thời chống Mỹ. Chắc chắn nội dung khó tránh khỏi những thiếu sót, mong được bạn đọc góp ý kiến. Người biên soạn xin ngỏ lời chân thành cảm ơn chung các tác giả có sách đã xuất bản, bài báo đã in, được trích và dùng tham khảo, giúp cho việc sưu tầm, chú giải thêm thuận lợi và phong phú. Tháng 10 – 2001 G.Q.  

Thăng long – Hà Nội trong ca – dao ngạn ngữ

Trong kho tàng ca dao dân gian Việt Nam có biết bao câu ca nói về Thăng Long – Hà Nội, ca ngợi cảnh đẹp, ca ngợi con người, phản ánh đời sống xã hội nơi kinh thành hoa lệ. Cùng với sự thăng trầm của lịch sử, mảnh đất này khi là Thủ đô vương quốc, khi bị ngoại xâm chiếm đóng, nhưng rồi lại trở về với nhân dân, lại giữ vai trò trung tâm chính trị – văn hóa – kinh tế của đất nước. Thăng Long Hà Nội đô thành Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ Cố đô rồi lại tân đô Nghìn năm văn vật bây giờ vẫn đây. Hà Nội nằm giữa một vùng sông nước với những ngã ba sông, lại có núi Nùng trấn trung tâm, Ba Vì, Tam Đảo, Sóc Sơn bao phía bắc, tạo nên thế “rồng cuộn hổ ngồi”. Sông Tô một dải lượn vòng ấy nơi liệt sĩ anh hùng giáng sinh Sông Hồng một khúc uốn quanh Văn nhân tài tử lừng danh trong ngoài. Sông Hồng tức Nhị Hà đã trở thành trục giao thông quan trọng ngày ấy: Ai về Hà Nội, ngược nước Hồng Hà Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui. Con sông Tô Lịch chảy giữa đô thành đem lại cảnh hữu tình cho đất ngàn năm văn vật. – Sông Tô nước chảy quanh co Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya… – Nước sông Tô vừa trong vừa mát Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh Dừng chèo muốn tỏ tâm tình Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu. Hà Nội còn đẹp bởi: Giữa nơi thành thị có hồ xanh trong Không phải một hồ mà nhiều hồ. Hồ Gươm như lẵng hoa giữa lòng thành phố. Hồ Bảy Mẫu, Văn Hồ, Giảng Võ ở phía nam và tận tây nam. Tây bắc có Hồ Tây, Trúc Bạch nổi tiếng. Mỗi hồ là một danh thắng. Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn Hỏi ai gây dựng nên non nước này Và Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mù khói tỏa màn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Hà Nội không chỉ giàu có về di tích danh lam thắng cảnh về đình, đền, chùa, miếu, về kiến trúc, điêu khắc, về cổ vật… mà còn là một kho tàng vô cùng phong phú về văn hóa – văn nghệ dân gian phi vật thể. Đó là hàng nghìn câu ca dao, ngạn ngữ, làn điệu hát, khúc nhạc, hàng trăm truyện cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại, câu đố, câu đối, truyện cười, hàng trăm trò chơi, thú chơi dân giã cũng như những mỹ tục thuần phong thanh lịch mang sắc thái riêng biệt của Thăng Long – Hà Nội có bề dày nghìn năm lịch sử, tinh hoa của nền văn hiến Việt Nam. Kho tàng ấy rất ít được ghi lại thành văn bản mà chủ yếu được truyền tụng từ đời này sang đời khác. Trong quá trình lưu truyền ấy nó được bổ sung, chỉnh lý, sửa đổi cho phù hợp với từng thời đại và cả với tầng lớp giai cấp mà nó phổ biến. Cho nên văn hóa phi vật thể thường có nhiều lối kể, cách diễn đạt cũng như chi tiết nội dung khác nhau. Tính dị bản ở nó là tất nhiên. Nó còn được dùng lẫn ở nhiều địa phương với công thức “bình chung, rượu riêng”. Thí dụ như trong ca dao miêu tả ngợi ca quê hương làng xóm, nhiều nơi ứng dụng lẫn của nhau chẳng biết ai lấy của ai, câu nào ra đời trước nữa. – Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về Kẻ Bưởi với anh thì về Làng anh có ruộng tứ bề Có hồ tắm mát, có nghề quay tơ… – Hỡi cô mà thắt bao xanh Có về Kim Lũ với anh thì về Kim Lũ có hai cây đề Cây cao bóng mát gần kề đôi ta. – Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về Kẻ Vẽ với anh tìm về Kẻ Vẽ có thói có lề Kẻ Vẽ lại có nhiều nghề đâu hơn. – Hỡi cô thắt dải lưng xanh Có về Phú Diễn với anh thì về Phú Diễn có cây bồ đề Có sông tắm mát, có nghề ăn chơi… – Làng tôi có lũy tre xanh Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng Bên bờ vải nhãn hai hàng Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng. – Ai về Đào Xá vui thay Xóm Bắc có chợ, xóm Tây có chùa Xóm Đông có miếu thò vua Xóm Nam có bến đò đưa dập dìu… Hoặc niềm tự hào về quê hương luôn đưa mình lên hàng đầu hơn nơi khác: – Thứ nhất Hội Gióng, Hội Dâu Thứ nhì Hội Bưởi, Hội Vó chẳng đâu vui bằng – Thứ nhất là Hội Cổ Loa Thứ nhì Hội Gióng, thứ ba Hội Chèm. Ngôi thứ bị đảo lộn cũng như câu ca xứ Sơn Nam xưa, ở Thanh Trì là “Thứ nhất Thanh Trì, thí nhì Thanh Oai”, nhưng sang đến Thanh Oai lại là “Thứ nhất Thanh Oai, thứ hai Thanh Trì”. Lại còn cách đề cao người để mà nói mình “Nhất vui là hội chùa Thày, Vui thì vui vậy, chẳng tày chùa Mơ”. Hà Nội cũng là quê hương của nhiều lễ hội nổi tiếng thiên hạ: – Ai ơi mồng chín tháng tư Không đi hội Gióng cũng hư mất đời – Thánh giếng giỗ Thánh Sóc Sơn Tháng ba giỗ Tổ Hùng VƯơng nhớ về – Bỏ con bỏ cháu, không bỏ mồng sáu tháng giêng. Mồng sáu tháng giêng là ngày hội Cổ Loa, hội đền Sóc. – Cha đánh mẹ treo cũng không bỏ chùa Keo ngày rằm – Mỗi năm vào dịp xuân sang Em về Triều Khúc xem làng hội xuân… – Nhớ ngày hăm ba tháng ba Dân Trại ta vượt Nhị Hà thăm quê… là hội làng Lệ Mật. Ca dao còn phản ánh một Thăng Long – Hà Nội có bề dày lịch sử và quá khứ anh hùng. – Lạy trời cho cả gió lên Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành – Nhong nhong ngựa ông đã về Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn – Đống Đa ghi để lại đây Bên kia Thanh Miếu, bên này Bộc Am. – Long thành bao quản nắng mưa Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây… – Trời cao biển rộng đất dày Núi Nùng, sông Nhị, chốn này làm ghi. Ca dao – ngạn ngữ xưa phản ánh đủ các mặt của xã hội, từ phong tục tập quán, lễ nghi, lối sống, nghề nghiệp, tính cách con người, đến đấu tranh các thói xấu, tệ nạn đương thời, giúp cho các nhà nghiên cứu lịch sử có thêm dữ liệu. Qua bài ca dao “Vui nhất là chợ Đồng Xuân” ta thấy cảnh nhộn nhịp của cái chợ lớn nhất kinh thành. Nào là “Cổng chợ có chi hàng hoa/Có người đổi bạc chạy ra chạy vào/Lại thêm “sực tắc” bán rao…” cho đến “Có người bán lược, bán gương/Có người bán cả hòm rương, tủ quầy/Có người bán dép, bán giày/Có người bán cả ghế mây để ngồi…” và thêm “Lại còn kẻ cắp như rươi/Hở cơ chốc lát, tiền ôi mất rồi”. Muốn biết 36 phố phường xưa phải tìm đến bài ca dao “Rủ nhau chơi khắp Long Thành” có liệt kê các tên phố cũ bắt đầu bằng chữ “Hàng”. thuộc vùng đất phía Nam huyện Thanh Trì: Làng Đam bán mắm tôm xanh Làng Họa đan đó, làng Tranh quay guồng Đông Phù cắp thúng đi buôn Đông Trạch bán thịt, làng Om vặn thừng Tương Trúc thì giỏi buôn sừng Tự Khoát đan thúng, Vẹt từng làm quang… Đất lề Kẻ Chợ còn là nơi lắm người “khéo tay hay nghề” và những đặc sản quý hiếm: “Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã”, “Mực cầu Cậy, giấy làng Hồ”, “Sù, Gạ thì giỏi chăn tằm, làng La canh cửi, làng Đẵm bơi thuyền”… và cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây, cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì… Lại còn những làng hoa: Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Tây Hồ, Nghi Tàm, Nhật Tân… làm ngẩn ngơ các du khách đến thăm – trước cảnh đẹp, người đẹp, đã thốt lên: Hỏi người xách nước tưới hoa Có cho ai được vào ra chốn này Và ướm lời hò hẹn: Hỡi cô đội nón ba tầm Có về Yên Phụ hôm rằm lại sang Phiên rằm cho chính Yên Quang Yêu hoa, anh đợi hoa nàng mới mua… Nhưng bên cạnh cái “phồn hoa đệ nhất kinh đô” ấy, ca dao đã không quên một thực tế của dân nghèo Hà Nội dưới thời Pháp thuộc: Văn minh đèn điện sáng lòe Thông thương kỹ nghệ mọi bề chấn hưng Chỉ cánh áo ngắn khốn cùng Làm lụng suốt tháng vẫn không đủ dùng Bữa cơm, bữa cháo nhạt nhùng Thôi đành nheo nhóc bọc đùm lấy nhau. Ca dao không né tránh đấu trạnh, sẵn sàng vạch mặt: – Ông quan ở huyện Thanh Trì Miếng mỡ thì lấy, miệng bì thì chê. – Cha đời lính Tẩy, lính Tây Hễ trông thấy gái giở n_ xì xồ… – Đốc Hà áo gấm, áo hoa Mẹ tôi váy đụp đã ba, bốn tầng… Cũng như phê phán hủ tục trong việc cưới: – Trèo lên cây gạo cao gao Lệ cheo làng Nhói độ bao nhiêu tiền? – Cheo thời có bẩy quan hai Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ Thôi thôi tôi giã om cô Tiền cheo cũng nặng trăm vồ cũng đau! Người Hà Nội thường tự hào với câu ca dao xưa: – Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu chưa thanh lịch cũng người Tràng An Hoặc: – Chẳng thơm cũng thể hoa mai Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh Tràng An, Thượng Kính là chỉ Kinh Đô, là Thăng Long, Hà Nội. Trong cuộc sống vận động nếp sống văn minh câu ca đã biến dạng thành: – Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Chẳng thanh lịch cũng là người Thủ đô. Thay hai tiếng Thủ đô cho rõ ràng, rành mạch hơn. Trong kho tàng ca dao Hà Nội cũng còn bao câu khác hình tượng hóa sự thanh lịch ấy: – Đất tốt trồng cây rườm rà Những người thanh lịch nói ra dịu dàng. – Người thanh tiếng nói cũng thanh Chuông kêu, khẽ gõ bên thành cũng kêu. – Kim vàng ai nỡ uốn câu Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời. – … Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe – Vàng thì thử lửa, thử than Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời… Từ “người thanh” chuyển hóa thành “người khôn”, rồi “người ngoan”, ca dao đã đặt định cho thanh lịch tương ứng và đồng nghĩa với khôn – ngoan rồi. Bên sự ca ngợi chung còn có ca ngợi riêng, ví như với cô gái Trại làng hoa Ngọc Hà: – Hoa thơm, thơm lạ thơm lùng Thơm cành, thơm rễ, người trồng cũng thơm. Với cô hàng bỏng kẹo làng Lủ: – Mình từ làng kẹo mình ra Nên mình nói ngọt cho ta phải lòng. Và cả đến gánh rau làng Láng cũng phải: … Mượn người lịch sự gánh lên Kinh kỳ. Thanh, lịch đã trở thành truyền thống của người Thăng Long – Hà Nội, một vầng sáng của tâm thức Việt Nam. Nói đến thanh là nói đến sự thanh cao trong tư tưởng, đạo đức, tình cảm, tâm hồn; là nói đến thanh nhã trong nói năng, hành động; là nói đến thanh đạm trong cuộc sống đời thường và thanh liêm với của cải xã hội. Còn lịch, phải chăng là đề cập đến sự lịch lãm – xem nhiều, lịch duyệt – hiểu rộng, lịch thiệp trong giao tiếp và lịch sự trong ứng xử. Nếu như ở vế thanh, con người phải học tập, rèn luyện tu dưỡng mới có, thì ở về lịch lại do sự từng trải và kinh nghiệm sống đúc kết nên. Phải có cảnh thanh và lịch mới đầy đủ trọn vẹn. Trong thực tế, ta đã từng gặp người thanh mà không lịch, hoặc ngược lại. Thăng Long – Hà Nội là chốn hội tụ tinh hoa đất nước, trong đó có tinh hoa phẩm chất nhân cách và lối sống. Không chỉ hội tụ, mảnh đất trái tim Tổ quốc này còn sàng lọc, kết tinh hương hoa trăm miền để tạo nên bản sắc thanh lịch tiêu biểu cho mình, cho dân tộc mình, để rồi lại tỏa sáng ra trăm miền đất nước. Thanh lịch không phải là thứ trừu tượng, nó được thể hiện rõ rệt trên nhiều mặt của cuộc sống, trong nhiều lĩnh vực: ăn nói, ăn mặc, ăn học, ăn làm, ăn ở, ăn uống cho đến ăn chơi trong lối sống và trong các phong tục, tập quán khác. Nó cũng không phải là thứ bất biến mà có thay đổi điều chỉnh, hoàn thiện, bổ sung, tước bỏ qua từng thời đại lịch sử, qua mỗi chế độ xã hội, để thích ứng với cuộc sống và phần nào phù hợp với luật pháp đương thời. Những câu ca dao – ngạn ngữ nói về cổ tích, truyền thuyết Hà Nội nếu không dựng lại hình tượng của những nhân vật anh hùng chống giặc cứu dân thì cũng là phản ánh công cuộc xây dựng đất nước, thể hiện ý chí bất khuất, lòng yêu chuộng hòa bình, chính nghĩa của nhân dân ta. Truyện ông Gióng lên ba đã xin vua đúc ngựa sắt, roi sắt diệt giặc Ân, lập xong chiến công kỳ vĩ đã không màng danh lợi, phi ngựa sắt về trời. Truyện đức thánh Chèm – người dũng sĩ khổng lồ, đã vang danh ngoài biên ải nước láng giềng, giàu sang phú quí không níu được chân, vẫn trở về nằm xuống ở mảnh đất quê hương. Truyện An Dương Vương xây thành ốc được thần tiên giúp đỡ. Truyện ông Không Lộ dùng phép màu thu đồng đen của nước phương Bắc đem về đúc chuông, chuông gióng lên. Trâu Vàng từ bên đó lồng sang giẫm nát một vùng thành hồ Tây, rồi chạy về phía Đông Nam, dấu chân vạch nên sông Kim Ngưu bây giờ. Thực và ảo đan xen, tạo màn sương bao phủ lên cảnh vật, làm cho không gian Thăng Long – Hà Nội thêm diệu huyền đậm đà chất tâm linh cổ kính. Kho tàng văn nghệ dân gian ấy là vốn quí cần được sưu tầm, khai thác, bảo vệ và phát huy tác dụng trong công tác giáo dục truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Lấy xưa phục vụ nay là phương châm đúng đắn của việc bảo tồn di sản văn hóa. Vốn văn nghệ dân gian thường nằm trong lớp người cao tuổi. Họ có thể ra đi bất kỳ. Bởi vậy, nhanh chóng tìm hỏi, ghi chép lại là việc làm cấp bách của chúng ta. Hội văn nghệ dân gian Hà Nội nhiều năm qua được sự giúp đỡ của các cơ quan hữu trách đã liên tiếp mở các cuộc điền dã đi sâu tìm hiểu về các làng nghề, phố nghề, về nghệ thuật ẩm thực Hà Nội, về các dòng họ tiêu biểu… qua quá trình khai thác đã tìm ra nhiều câu ca dao, ngạn ngữ, huyền thoại, giai thoại, thần tích… của n_ địa phương nơi mình cư trú. Chỉ có như vậy mới không để mất đi những viên ngọc còn rơi vãi trong dân gian. Qua ca dao cổ Hà Nội ta càng thêm yêu mảnh đất nghìn năm văn vật. Mảnh đất đã nuôi dưỡng tâm hồn ta lớn lên cùng đất nước và Hà Nội cũng lớn lên cùng với dân tộc Việt Nam bất khuất, kiên cường.  

Trang 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12