Ca Dao Tục Ngữ Về Răng / Top 15 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Dtdecopark.edu.vn

Ca Dao Tục Ngữ Dí Dỏm Về Răng Miệng

“Ca dao tục ngữ dí dỏm về răng miệng”

“Ca dao tục ngữ dí dỏm về răng miệng”

Chào tất cả các bạn, giải thích cho câu hỏibên dưới còn rất thô sơ, rất mong nhận được lời giải thích tốt hơn cho câu hỏitừ tất các bạn để website “Hỏi đáp nhanh” hoàn thiện hơn, rất cám ơn những ý kiến đóng góp của các bạn!

Ca dao tục ngữ dí dỏm về răng miệng (Sưu tầm)

Tóc còn xanh, nanh còn sắc

Vạ ở miệng ra, bệnh ở miệng vào

Miệng tươi như hoa nở

Răng đen nhoẻn miệng em cười Dầu trời đương nực cũng nguôi cơn nồng.

Cười lên đi cho răng vàng sáng chói, Hát lên đi cho răng vàng le lói

Môi hở răng lạnh

Môi dày ăn vụng đã xong, Môi mỏng hay hớt, môi cong hay hờn

Thà rằng chịu lạnh nằm không, Còn hơn lấy gái lẹm cằm răng hô Em ơi ta nguyện nhau cùng, Răng long tóc bạc, ta đừng quên nhau

Nàng về nàng nhớ ta không, Ta về ta nhớ hàm răng nàng cười

Một thương tóc bỏ đuôi gà Hai thương ăn nói mặn mà có duyên Ba thương má lúm đồng tiên Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua Năm thương cổ yếm đeo bùa Sau thương nón thượng quai tua dịu dàng Bảy thương nét ở khôn ngoan Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh Chín thương em ở một mình Mười thương con mắt hữu tình với ai

Mình về mình nhớ ta chăng? Ta về ta nhớ hàm răng mình cười Năm quan mua lấy miệng cười Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen Răng đen ai nhuộm cho mình Cho răng mình đẹp cho tình anh say

Cười nụ hay là cười tình Cười trăng cười gió hay mình cười ta Cười nụ hay là cười hoa Cười trăng cười gió hay ta cười mình

Răng đen chẳng lọ là nhăn Người giòn chẳng lọ vấn khăn mới giòn (ca dao miền Bắc )

Mẹ em cấm đoán em chi Để em sắm sửa em đi lấy chồng Lấy chồng cho đáng tấm chồng Bỏ công trang điểm má hồng răng đen

Quả cau nho nhỏ, Cái vỏ vân vân, Nay anh học gần, Mai anh học xa. Anh lấy em từ thuở mười ba, Đến năm mười tám thiếp đã năm con. Ra đường người tưởng còn son, Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.

Nhác trông con mắt đáng trăm Miệng cười đáng chục, hàm răng đáng nghìn. Nhác trông con mắt ưa nhìn Đáng trăm cũng chuộng, đáng nghìn cũng mua.

Răng đen nhưng nhức hạt dưa Miệng cười tủm tỉm như chưa có chồng Chưa chồng anh kiếm chồng cho Chưa con anh kiếm cho con mà bồng

Răng đen nhưng nhức hạt na Kén đi kén lại nó ra hạt bầu

Cuộc đời như chiếc lá dâu Thời gian nào có khác đâu con tằm Ngày ngày, tháng tháng, năm năm Như dòng nước chảy, như tằm ăn dâu Răng long tóc đã bạc màu Đời người chỉ một canh thâu đã già.

Những Câu Ca Dao Tục Ngữ Về Răng, Tóc, Các Bộ Phận Cơ Thể Người

Cơ thể con người gồm rất nhiều bộ phận khác nhau, mỗi bộ phận đều có những chức năng riêng và hầu hết không thể thiếu. Ngoài những cơ quan phía bên trong cơ thể thì cũng có rất nhiều cơ quan chúng ta có thể thấy được ngay ở ngoài. Và chúng sẽ tạo nên hình dáng bề ngoài của bạn. Những bộ phận đó cũng thường được nhắc rất nhiều trong các câu ca dao tục ngữ để nói về cái đẹp của con người. Trong đó những bộ phận về mặt mũi, răng, tóc da, dáng người, bụng…. là những bộ phận hay gặp nhất. Chúng không chỉ xuất hiện ở trong các câu ca dao tục ngữ mà con có ở trong những câu thơ câu văn hoặc bài hát. Những câu ca dao tục ngữ về răng, tóc, các bộ phận cơ thể người hay nhất

Mỗi con người sinh ra đều có một hình hài, hình hài ấy là do ba mẹ ta đã tạo nên ta. Ai sinh ra may mắn hơn nhiều người là có đầy đủ những bộ phận trên cơ thể mình, những bộ phận đầy đủ của một con người. đôi khi có những người ở đâu đó trong cuộc sống này không có những bộ phận đầy đủ trên người như chúng ta, chúng ta nên cảm thấy may mắn hơn một số người về diều đó. Một trong những bộ phận được xem là vóc của con người đó là cái răng, cái tóc, ông bà ta thường nói rằng cái răng cái tóc là vóc con người.

Mỗi bộ phận trên cơ thể con người đều có những chức năng riêng và có tầm quan trọng nhất định, có rất nhiều câu ca dao tục ngữ nói về những bộ phận này được ông cha ta truyền đạt lại

Tóc là một bộ phận trên đỉnh đầu, bao phủ quanh đầu của con người. tóc dạng sợi, sừng cứng, có màu và hình dáng tùy vào mỗi người. màu sắc của tốc của mỗi người khác nhau, có người có màu nâu, vàng, đỏ đô,…. Răng là phần cứng trong miệng của chúng ta, răng có chức năng nghiền và nhai thức ăn khi vào miệng. Mỗi người khi lớn lên sẽ có đầy đủ một hàm răng. Để hiểu rõ hơn về răng, tóc và các bộ phận trên cơ thể con người chúng ta cùng đi tìm hiểu về những câu ca dao tục ngữ về răng, tóc, các bộ phận cơ thể người.

Câu ca dao tục ngữ về răng: Những câu tục ngữ về răng:

Câu 1:

Cái răng cái tóc là gốc con người

Người ta thường quan niệm cái răng cái tóc là vóc của con người, khi đánh giá nhân phẩm hay sắc đẹp của người ta thường nhìn vào răng và tóc đầu tiên.

Câu 2:

Tóc còn xanh, nanh còn sắc

Câu tục ngữ trên nói về những người còn trẻ, tóc xanh là còn trẻ, nanh sắc là sự răng còn có thể nhai cơm, thức ăn.

· Vạ ở miệng ra, bệnh ở miệng vào

· Miệng tươi như hoa nở

· Môi hở răng lạnh

Những câu ca dao về răng:

Câu 1:

Răng đen nhoẻn miệng em cười

Dầu trời đương nực cũng nguôi cơn nồng.

Đây là những câu ca dao nói về tục ăn trầu của người Việt Nam, khi ăn trầu thì miệng sẽ đen nhoẻn. nhưng điều đó thú vị đến khi trời năng nóng bực bội cũng nguôi.

Câu 2:

Cười lên đi cho răng vàng sáng chói,

Hát lên đi cho răng vàng le lói

Đây là những câu hát vui về răng của con người, khi con người cười thì răng sẽ hở và có những sự vui cười khó tả, chúng ta nên có những nụ cười trong cuộc sống để có những khoảnh khắc trong cuộc sống.

Môi mỏng hay hớt, môi cong hay hờn

Thà rằng chịu lạnh nằm không,

Còn hơn lấy gái lẹm cằm răng hô

Em ơi ta nguyện nhau cùng,

Răng long tóc bạc, ta đừng quên nhau

Nàng về nàng nhớ ta không,

Ta về ta nhớ hàm răng nàng cười

Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên

Ba thương má lúm đồng tiên

Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua

Năm thương cổ yếm đeo bùa

Sau thương nón thượng quai tua dịu dàng

Bảy thương nét ở khôn ngoan

Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh

Chín thương em ở một mình

Mười thương con mắt hữu tình với ai

Mình về mình nhớ ta chăng?

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

Năm quan mua lấy miệng cười

Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen

Răng đen ai nhuộm cho mình

Cho răng mình đẹp cho tình anh say

Cười trăng cười gió hay mình cười ta

Cười nụ hay là cười hoa

Cười trăng cười gió hay ta cười mình

Răng đen chẳng lọ là nhăn

Người giòn chẳng lọ vấn khăn mới giòn

(ca dao miền Bắc )

Để em sắm sửa em đi lấy chồng

Lấy chồng cho đáng tấm chồng

Bỏ công trang điểm má hồng răng đen

Cái vỏ vân vân,

Nay anh học gần,

Mai anh học xa.

Anh lấy em từ thuở mười ba,

Đến năm mười tám thiếp đã năm con.

Ra đường người tưởng còn son,

Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.

Nhác trông con mắt đáng trăm

Miệng cười đáng chục, hàm răng đáng nghìn.

Nhác trông con mắt ưa nhìn

Đáng trăm cũng chuộng, đáng nghìn cũng mua.

Răng đen nhưng nhức hạt dưa

Miệng cười tủm tỉm như chưa có chồng

Chưa chồng anh kiếm chồng cho

Chưa con anh kiếm cho con mà bồng

Răng đen nhưng nhức hạt na

Kén đi kén lại nó ra hạt bầu

Cuộc đời như chiếc lá dâu

Thời gian nào có khác đâu con tằm

Ngày ngày, tháng tháng, năm năm

Như dòng nước chảy, như tằm ăn dâu

Răng long tóc đã bạc màu

Đời người chỉ một canh thâu đã già.

Ca dao tục ngữ về tóc: Những câu tục ngữ về tóc:

Câu 1:

Tóc là một bộ phận của cơ thể con người, tóc là chất sừng, cứng. tóc được xem là một bộ phận để đánh giá con người trong cuộc sống này. Tóc có rất nhiều người đã thay đồi trong những lần thay đổi bởi tác động từ bên ngoài.

Câu 2:

Đây là một câu tục ngữ vui nói về tóc, tóc dài nhưng không có lược chải, chúng ta phải bán tóc mua lược về chải tóc, một điều hết sức vô lí phải không ạ.

Những câu ca dao về tóc:

Câu 1:

Thương nhau cắt tóc mà thề

Khó nghèo cũng chịu, chớ hề bỏ nhau

Tóc là một vạt rất thiêng liêng dùng để ăn thề của những đôi trai gái, để nói đến phong tục đó câu ca dao trên đã nói về điều ấy. đã tết tóc ăn thề thì dù có khó nhọc, nghèo khổ cũng không bỏ nhau.

Câu 2:

Cái sọ trọc như không có tóc

Kém công danh lao lực về sau

Câu ca dao trên nói về đặc điểm của con người khi có tóc và khi không có tóc. Những người không có tóc thì công danh lao lược về sao kém, tuy nhiền đây chỉ là suy đoán của người xưa.

Tại bụng em ừ, chẳng phải tại anh

Em cứ gỡ hoài, bối rối dạ anh

Thấy mình yểu điệu, chạnh lòng thêm thương

Ai xui bậu bới hai vòng anh thương

Tóc mai dài xuống mang tai

Là người khó tánh ít ai vừa lòng

Khao khao giọng thổ tiếng đồng

Quăn quăn tóc trán là dòng khôn ngoan

Đàn bà ít tóc dở dang duyên tình

Tóc đen, thưa, rộng mà dài

Vuông tròn sắc mặt là trai anh hùng

Mấy đời mặt rỗ mà mài cho ra

Tóc em dài em kết làm quang

Gánh nước sông Hán đổ sang sông Hồ

Ai ngờ sông Hán cạn khô

Để cho sông Hán sông Hồ cách xa

Thề cho bán mạng kẻo tình anh nghi

Xa bạn ngọc, lỡ cười lỡ khóc

Nhớ thề xưa, mái tóc em dài

Bây giờ nàng đã nghe ai

Để ta thở ngắn than dài, thảm chưa?

Xuân xanh đầu tóc gá nghĩa với móc tai,

Mình xa tôi, tôi gá nghĩa với ai bây giờ?

Hàm răng em trắng, miệng cười giòn, anh mê.

Tóc đen, da trắng mỹ miều

Má mà có ngấn, nuông chiều mẹ cha

Các câu ca dao tục ngữ về các bộ phận trên cơ thể con người

Vạ ở miệng ra, bệnh ở miệng vào

Môi hở răng lạnh

Miệng tươi như hoa

Tóc con xanh, nanh còn sắc

Thà rằng chịu lạnh nằm không, Còn hơn lấy gái lẹm cằm răng hô Em ơi ta nguyện nhau cùng, Răng long tóc bạc, ta đừng quên nhau

Nàng về nàng nhớ ta không, Ta về ta nhớ hàm răng nàng cười

Mặt má bầu coi lâu muốn chưởi Mặt chữ điền tiền rưỡi muốn mua

Những ai có mũi dọc dừa Đẹp người nhưng lại lẳng lơ cũng nhiều

Lỗ mũi mà hỉnh ngửa lên Bạc tiền chồng chất một bên chẳng còn

Đàn ông miệng rộng thì sang Đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà

Những người thắt đáy lưng ong Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con Những người béo trục béo tròn Ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày

Ca Dao Tục Ngữ Về Rồng

Details Category: Kỹ năng mềm Published on Monday, 12 February 2023 02:12 Written by cudinhlang Hits: 5233

Rồng trong thành ngữ và tục ngữ Việt NamRồng lúc to lúc nhỏLớn thì đào sơn đảo hải – nhỏ ẩn tích tàn hình

Đa mưu túc trí muôn đời thịnh Hữu dũng vô mưu vạn đời suy Ghen ăn tức ở muôn đời nát Khiêm tốn nhường nhịn vạn kiếp sang.

Là con vật huyện thoại nhưng phổ biến, vừa cao quý, độc đáo, diệu kỳ lại vừa thân quen, gần gũi và giàu ý nghĩa biểu tượng, rồng (long) được lấy làm hình ảnh ẩn dụ sinh động cho nhiều câu thành ngữ, tục ngữ rộng rãi mà thâm thúy của người Việt Nam.* Ăn như rồng cuốn: Ăn nhanh, ăn đến đâu hết đấy.* Ăn như rồng cuốn, làm như cà cuống lội nước/uống như rồng leo, làm như mèo mửa: 1. Ăn nhiều, ăn tham mà làm ít, cẩu thả; 2. Ăn thật làm chơi.* Cá [chép] hóa rồng: 1. Học trò đi thi được đỗ đạt vinh hiển; 2. Người được thỏa chí, toại nguyện, thành đạt.* Cá gặp nước, rồng gặp mây: 1. Gặp môi trường thuận lợi, tương hợp, may mắn; 2. Cảnh sum vầy, hội ngộ.* Chạm rồng trổ phượng: 1. Trang trí lộng lẫy, tinh xảo, cầu kỳ; 2. Sự tô điểm rối rắm, rườm rà.* Con Rồng cháu Tiên: Dòng dõi đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.* Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng, chiếu hoa nệm gấm không chồng cũng hư: Một quan niệm đề cao hạnh phúc gia đình.* Dựa mạn thuyền rồng: Được vua chọn làm cung phi, làm vợ hoặc lấy được người giàu sang.* Đầu rồng đuôi tôm/rắn: 1. Việc khi đầu thì hưng thịnh, sau thì suy yếu; 2. Chuyện lúc khởi đầu có vẻ to tát, đẹp đẽ nhưng kết thúc lại chẳng ra gì; 3. Sự cọc cạch, không tương xứng giữa những bộ phận có phẩm chất quá khác biệt trong cùng một chỉnh thể.* Đẹp duyên cưỡi rồng: Lấy được người chồng lý tưởng.* Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay chết ngõng: Một quan niệm xưa, đề cao vai trò của người đàn ông, khẳng định phụ nữ cần thiết phải lập gia đình.

* Họa long điểm tinh (Vẽ rồng điểm mắt): Hành động đúng hướng, nắm bắt được trọng tâm của sự vật, sự việc.* Học chẳng biết chữ cu chữ cò, nói những chữ như rồng như rắn: Nói phét, nói suông, dốt hay nói chữ.* Hội long vân (Hội rồng mây): Cuộc gặp gỡ tốt lành, thời cơ thuận lợi.* Long bàn hổ cứ (Rồng cuộn hổ ngồi): Thế đất hiểm yếu, linh thiêng.* Long ly quy phụng (Rồng lân rùa phượng): Bốn con vật quý và thiêng theo quan niệm tín ngưỡng.* Lưỡng long chầu nguyệt: 1. Hình hai con rồng chầu chụm vào một mặt trăng thường thấy ở nơi thờ tự; 2. Một người tài giỏi lại có được hai người hỗ trợ, phò tá nhiệt tình, tương xứng và trung thành.* Mả táng hàm rồng: Gặp may mắn, tự nhiên ngày càng phát đạt thịnh vượng, [tưởng như] do mồ mả tổ tiên được chôn vào chỗ đất đẹp.* May hóa long, không may xong máu: Gặp may thì vinh hoa phú quý, không may thì chết.* Mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền rồng: Bản chất đã xấu thì khó thể trở thành người tốt, kẻ thuộc tầng lớp dưới khó thể lên địa vị cao.* Nem rồng chả phượng: Món ăn ngon, cầu kỳ và sang trọng.* Như rồng gặp mây: Gặp người, gặp hoàn cảnh tương hợp, thỏa lòng mong mỏi khát khao.* Nói như rồng cuốn: Nói những lời hay ý đẹp nhưng nói suông, chẳng bao giờ thực hiện điều gì mình đã nói, đã hứa.* Nói như rồng leo: Nói năng khôn khéo, mạch bạo.* Rồng bay phượng múa: Hình dáng, đường nét tươi đẹp, uyển chuyển, phóng khoáng.* Rồng đen lấy nước thì nắng, rồng trắng lấy nước thì mưa: Một cách dự báo và lý giải trạng thái thời tiết qua hiện tượng thiên nhiên – mây (rồng lấy nước ở đây tức là đám mây hình cột từ phía biển vươn lên trời).* Rồng đến nhà tôm: Người cao sang đến thăm kẻ thấp hèn (thường thấy trong lời ngoại giao, nói nhún của chủ nhà với khách).* Rồng lội ao tù: Người anh hùng sa cơ thất thế, bị kìm hãm, tù túng, không có điều kiện thi thố tài năng.* Rồng mây gặp hội: Cơ hội may mắn cho sự gặp gỡ và hòa nhập.* Rồng nằm bể cạn phơi râu: Trạng thái thờ ơ vì bất lực của người vốn tài giỏi nhưng bị đặt trong môi trường khó hoạt động, khó phát triển được.* Rồng thiêng uốn khúc: Người anh hùng, tài giỏi nhưng gặp vận xấu, phải sống nép mình, ẩn dật chờ thời cơ.

* Rồng tranh hổ chọi: Hai đối thủ hùng mạnh giao đấu.* Rồng vàng tắm nước ao tù: Người tài giỏi ở trong hoàn cảnh bó buộc, bất lợi hoặc phải chấp nhận chung sống với kẻ kém cỏi.* Thêu rồng vẽ phượng: Bày vẽ, làm đẹp thêm.* Trai ơn vua – cưỡi thuyền rồng, gái ơn chồng – bồng con thơ: Một quan niệm xưa, cho rằng nghĩa vụ chính của người đàn ông là phụng sự nhà cầm quyền, còn của người đàn bà là chăm lo gia đình và con cái.* Trứng rồng lại nở ra rồng, liu điu lại nở ra dòng liu điu: Tính tất yếu của sự bảo toàn, di truyền những giá trị và bản chất nòi giống.* Vẽ rồng nên/ra giun: Có mục đích hay, tham vọng lớn nhưng do bất tài nên chỉ tạo ra sản phẩm xấu, dở.* Vẽ rồng vẽ rắn: Bày vẽ lôi thôi, luộm thuộm, rườm rà.

Ca Dao Tục Ngữ Về Biển

Sông sâu mà biển cũng sâu Muốn ăn cá lớn, rong câu cho dài

Dốc lòng trồng cúc bẻ bông Ngó ra ngoài biển thấy ông đưa đò Anh ở làm sao cho biết đói biết no Biết ra khơi về lộng đây em lo kết nguyền

Trời sinh có biển có nguồn Có ta, có bạn, còn buồn nỗi chi?

Tháng chín mưa giông thuyền mong ghé bến Từ nơi bãi biển qua đến buổi chợ chiều Nuôi con chồng vợ hẩm hiu Nhà tranh một mái tiêu điều nắng mưa

Động bể đông bắc nồi rang thóc Động bể bắc đổ thóc ra phơi

Sự đời nghĩ cũng nực cười Một con cá lội mấy người thả câu Anh về xẻ gỗ bắc cầu Non cao anh vượt biển sâu anh dò Bây giờ sao chẳng bén cho Xa xôi cách mấy lần đò cũng đi

Trời cao hơn trán Trăng sáng hơn đèn Kèn kêu hơn quyển Biển rộng hơn sông Anh đừng thương trước uổng công Chờ cho thiệt vợ, thiệt chồng hãy thương

Ai về em gởi bức thơ Hỏi người bạn cũ bây giờ nơi nao Non kia ai đắp mà cao Sông kia, biển nọ ai đào mà sâu

Non cao, biển cả Con chim tra trả tìm mồi Khi mô vật đổi sao dời Đất Quảng Nam hết nước mới hết người tài hoa

Bãi biển Nha Trang mịn màng, trắng trẻo Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh Đêm đêm thơ thẩn một mình Đố sao cho khỏi vướng tình nước mây?

Ngó lên trên rừng thấy cặp cu đang đá Ngó về dưới biển thấy cặp cá đang đua Biểu anh về lập miếu thờ vua Lập lăng thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Ngó lên rừng thấy cặp cua đang đá Ngó xuống biển thấy cặp cá đang đua Biểu anh về lập miếu thờ vua Lập lăng thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Ngó lên rừng thấy cặp cu đương đá, Ngó về Rạch Giá thấy cặp cá đương đua. Anh về lập miếu thờ vua, Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Ngó lên trời thấy mây giăng tứ diện, Ngó xuống biển thấy chim liệng cá đua. Anh về lập miễu thờ vua, Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Biển cạn, sông cạn, lòng qua không cạn Núi lở non mòn, ngỡi bạn không quên Ðường còn đi xuống đi lên, Tình qua nghĩa bậu quyết nên vợ chồng.

Sông cạn, biển cạn lòng ta không cạn Núi lở non mòn, nghĩa bạn không quên Đường còn đi xuống đi lên Ơn bạn bằng biển, ta đền bằng non Đường mòn duyên nợ không mòn Chết thì mới hết, sống còn gặp nhau Lời nguyền trước cũng như sau Em không phụ khó, ham giàu ở đâu

Sông sâu còn có kẻ dò Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng

Lụa tốt xem biên Người hiền xem tướng

Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa Em thương anh không dám nói ra Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời Anh với em cũng muốn kết đôi Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan.

Đố ai tát bể Đông Khê Tát sông Bồ Đề, nhổ mạ cấy chiêm

Ca Dao Tục Ngữ Về Con Trâu

 

Tuyển chọn những lời ca dao hay về TRÂU Thuyduongnsx tuyển chọn 1. Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu Tham vì ông lão tốt râu mà hiền 2. Chẳng tham ruộng cả ao liền Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ. 3. Trên đồng cạn dưới đồng sâu Chồng cầy vợ cấy con trâu đi nằm 4. Đường về đêm tối canh thâu Nhìn anh tôi tưởng con trâu đang cười 5. Thiệt tình hỏng phải ba hoa hôm qua tui thấy con gà đá trâu….. 6. Gà đá trâu bao lâu mới thắng Trâu đá gà que cẳng con trâu 7. Ai nói chăn trâu là khổ?? Tôi chăn nàng còn khổ hơn trâu. 8. Dù ai buôn đâu bán đâu, Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về. Dù ai buôn bán trăm nghề, Mồng mười tháng tám trở về chọi trâu. 9. Đêm qua kẻ trộm vào nhà, Làm thinh chợp mắt để mà mất trâu. Nằm đây chớ chẳng ngủ đâu, Thức mà giữ lấy con trâu con bò. Nằm đây nào đã ngủ cho, Thức mà giữ lấy con bò con trâu. 10. Nghé ơi ta bảo nghé này Nghé ăn cho béo nghé cày cho sâu. Ở đời khôn khéo chi đâu, Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần. 11. Chăn trâu chả biết mặt trâu Trâu về cầu Cậy biết đâu mà tìm. 12. Ầu ơ… Ví dầu ví dẫu ví dâu Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng 13. Tháng giêng là tháng ăn chơi, Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà Tháng ba thì đậu đã già Ta đi ta hái về nhà phơi khô Tháng tư đi tậu trâu bò Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm… 14. Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. Cấy cày giữ nghiệp nông gia. Ta đây trâu đấy, ai mà quản công! Bao giờ cây lúa còn bông, thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”. “Con trâu là đầu cơ nghiệp 15. Trâu năm sáu tuổi còn nhanh, Bò năm sáu tuổi đã tranh về già, Đồng chiêm xin chớ nuôi bò, Mùa đông tháng giá, bò dò làm sao! 16. Trên trời có đám mây xanh (4) Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng Ước gì ta lấy được nàng Hà Nội, Nam Ðịnh sửa đàng rước dâu Thanh Hóa cung đốn trầu cau Nghệ An thì phải thui trâu mổ bò Phú Thọ quạt nước hỏa lò Hải Dương rọc lá giã giò gói nem Tuyên Quang nấu bạc đúc tiền Ninh Bình dao thớt Quảng Yên đúc nồi An Giang gánh đá nung vôi Thừ Thiên Đà nẵng thổi xôi nấu chè Quảng Bình Hà Tĩnh thuyề ghe Đồng Nai Gia Dịnh chẻ tre bắc cầu Anh mời khắp nước chư hầu Nước Tây nước Tàu anh gởi thư sang Nam Tào Bắc đẩu dọn đàng Thiên Lôi La Sát hai hàng hai bên 17. Trời mưa trời gió đùng đùng Bố con ông Nùng đi gánh phân trâu Gánh về trồng bí trồng bàu Trồng ngô, trồng lúa, trồng rau, trồng cà. 18. Nam mô Bồ Tát Chẻ lạt đứt tay Đi cày trâu húc Đi súc phải cọc Đi học thày đánh Đi gánh đau vai Nằm dài nhịn đói 19. Nước giữa dòng chê trong, chê đục Vũng trâu đầm hì hục khen ngon 20. Đời vua Thái Tổ – Thái Tông Lúa mọc đầy đồng trâu chẳng buồn ăn. 21. Thất là mất Tồn là còn Tử là con Tôn là cháu Lục là sáu Tam là ba Gia là nhà Quốc là nước Tiền là trước Hậu là sau Ngưu là trâu Mã là ngựa 22. Trai thì cày ruộng khiển trâu Gái thì phải biết bổ cau têm trầu 23. Trăm năm còn có gì đâu Miếng trầu liền với con trâu một vần 24. Trâu bò được ngày phá đỗ Con cháu được ngày giỗ ông 25. Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết 26. Trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm 27. Trâu kia kén cỏ bờ ao Anh kia không vợ đời nào có con Người ta con trước, con sau Thân anh không vợ như cau không buồng Cau không buồng như tuồng cau đực Trai không vợ cực lắm anh ơi Người ta đi đón, về đôi Thân anh đi lẻ, về loi một mình 28. Của chua ai nấy cũng thèm Em cho chị mượn chồng em vài ngày Chồng em đâu phải trâu cày Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm 29. Dầu bông bưởi, dầu bông lài Xức vô tới Tết còn hoài mùi cứt trâu 30. Dù ai buôn bán nơi đâu Mồng Mười, tháng Tám chọi trâu thì về 31. Ðàn đâu mà gảy tai trâu Ðạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi 32. Thương nhau vì nợ vì duyên Trâu đôi chi đó, thổ điền chi đây 33. Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần Làm thân con nhện mấy lần vương tơ Về đâu trong đục mà chờ Hoa thơm mất tuyết , nương nhờ vào đâu Số em giàu, lấy khó cũng giàu Số em nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo Phải duyên phải kiếp thì theo Giàu ăn khó chịu, lo gì mà lo 34. Chẳng qua số phận long đong Cột trâu, trâu đứt, cột tròng, tròng trôi. 35. Lao xao gà gáy rạng ngày Vai vác cái cày, tay dắt con trâu. Bước chân xuống cánh đồng sâu Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày. Ai ơi! bưng bát cơm đầy Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng Câu đố: – Bốn ông đập đất, một ông phất cờ, Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân. = con trâu – Vừa bằng cái bát, san sát giữa đồng = vết chân Trâu 36. Ru Con Bao giờ cho đến tháng ba, Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng. Hùm nằm cho lợn liếm lông, Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi. Nắm xôi nuốt trẻ lên mười; Con gà, be rượu nuốt người lao đao. Lươn nằm cho trúm (1) bò vào; Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô. Lúa mạ nhảy lên ăn bò; Cỏ năn (2), cỏ lác (3) rình mò bắt trâu. Gà con đuổi bắt diều hâu; Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông. Chú thích: (1) Trúm : một thứ đó để bắt lươn (2) Cỏ năn : một loài cỏ mọc dưới nước (3) cỏ lác : thứ cỏ xấu 37. Thứ nhất vợ dại trong nhà, Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn. Vợ dại thì đẻ con khôn, Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm. 38. Trâu chậm thời anh bán đi, Dao cùn đánh lại vợ thì làm sao. 39. Trâu anh con cưỡi con dòng, Có con đi trước lòng thòng theo sau. 40. Trâu anh con cưỡi con dòng, Lại thêm con nghé cực lòng thằng chăn. 41. Trâu buộc thì ghét trâu ăn, Quan võ thì ghét quan văn dài quần. 42.Trâu kia kén cỏ bờ ao, Anh kia không vợ đời nào có con. 43.Trâu khoẻ chẳng lọ cày trưa, Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền. 44. Trâu năm sáu tuổi còn nhanh, Bò năm sáu tuổi đã tranh cõi già. Đồng chiêm xin chớ nuôi bò, Mùa đông tháng giá bò dò làm sao? 45. Em như ngọn cỏ phất phơ Anh như con nghé nhởn nhơ giữa đồng 46. Mình rằng mình quyết lấy ta Ðể ta hẹn cưới hăm ba tháng này Hăm ba nay đã đến ngày Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng Tháng giêng năm mới chưa nên Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai Tháng hai có đỗ có khoai Ta lại vật nài cho đến tháng tư Tháng tư ngày chẳn tháng dư Ta lại chần chừ cho đến tháng năm Tháng năm là tháng trâu đầm Ta hẹn mình rằng tháng sáu mình lên Tháng sáu lo chửa kịp tiền Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu Tháng bảy là tháng mưa ngâu Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu Tháng tám là tháng trăng thu Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi Tháng chín là tháng mưa rươi Bước sang tháng mười đã đãi mưa đông Quanh đi quẩn lại em đã có chồng Như chim trong lồng, như cá cắn câu 47. Ông Giăng mà lấy bà Sao, Đến mai có cưới cho tao miếng giầu. Có cưới thì cưới con trâu, Chớ cưới con nghé nàng dâu không về. 48. Ông giẳng ông giăng, Xuống chơi với tôi, Có bầu có bạn, Có ván cơm xôi, Có nồi cơm nếp, Có nệp bánh chưng, Có lưng hũ rượu, Có chiếu bám đu, Thằng cu xí-xóa, Bắt trai bỏ giỏ, Cái đỏ ẵm em, Đi xem đánh cá, Có rá vo gạo, Có gáo múc nước, Có lược chải đầu, Có trâu cày ruộng, Có muống thả ao, Ông sao trên trời. (Cái này thấy gọi là Ca dao nhi đồng, hihi) 49.Bước sang tháng sáu giá chân, Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi. Con chuột kéo cầy lồi lồi, Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong. Vườn rộng thì thả rau rong. Ao sâu giữa đồng, vãi cải làm dưa. Đàn bò đi tắm đến trưa, Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương. Voi kia nằm ở gặm giường, Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn. Chuồn kia thấy cám liền ăn, Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua. Trời mưa cho mối bắt gà, Thòng-đong cân-cấn đuổi cò lao xao. Lươn nằm cho trúm bò vào, Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô. Thóc giống cắn chuột trong bồ, Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu. Chim chích cắn cổ diều hâu, Gà con tha quạ biết đâu mà tìm. Bong bóng thì chìm, gỗ lim thì nổi. Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai. Hòn đá giẻo dai, hòn xôi rắn chắc. Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi. Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú. Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu. Hay cắn thì trâu, hay cày thì chó. 50. Nam mô bồ tát, Chẻ lạt đứt tay, Đi cày trâu húc, Đi xúc phải cọc, Đi học thầy đánh, Đi gánh đau vai, Nằm dài nhịn đói. 51. Con kiến mày kiện củ khoai, Mày chê tao khó lấy ai cho giầu. Nhà tao chín đụn mười trâu, Lại thêm ao cá bắt cầu rửa chân. 52. Công anh chăn nghé đã lâu Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày?  

53. Cưới em có cánh con gà, Có dăm sợi bún, có và hạt xôi. Cưới em còn nữa anh ơi! Có một đĩa đậu hai môi rau cần. Có xa dịch lại cho gần, Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi. Hay là nặng lắm anh ơi! Để em bớt lại một môi rau cần. Cưới nàng anh toan dẫn voi, Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn. Dẫn trâu sợ họ máu hàn, Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân. Miễn là có thú bốn chân, Dẫn con chuột béo mời dân mời làng. – Chàng dẫn thế em lấy làm sang Nỡ nào em lại phá ngang như là… Người ta thách lợn thách gà, Nhà em thách cưới một nhà khoai lang Củ to thì để mời làng, Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi. Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi! Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà. Bao nhiêu củ rím củ hà, Để cho con lợn con gà nó ăn. 54. Ầu ơ… Ví dầu ví dẫu ví dâu Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng 55. Anh về bán ruộng cây da Bán cặp trâu già, mới cưới đặng em 56. 17. Hò ơ.. (chớ) Bớ này anh nó ơi Số phận em giao phó cho trời xanh Lấy anh em không lấy, Nhưng dạ cũng không đành làm ngơ Vốn em cũng chẳng bơ thờ Em đã hằng chọn trong lóng đục, Nhưng vẫn còn chờ nợ duyên Vốn em muốn lấy ông thầy thuốc cho giàu sang, Nhưng lại sợ ổng hay gia hay giảm Em muốn lấy ông thầy pháp cho đảm, Nhưng lại sợ ổng hét la ghê gốc Em muốn lấy chú thợ mộc, Nhưng lại sợ chú hay đục khoét rầy rà Em muốn lấy anh thợ cưa cho thật thà, Nhưng lại sợ trên tàn dưới mạt Em muốn lấy người hạ bạc, Nhưng lại sợ mang lưới mang chài Em muốn lấy anh cuốc đất trồng khoai, Nhưng lại sợ ảnh hay đào hay bới Em cũng muốn chọn anh thợ rèn kết ngỡi, Nhưng lại sợ ảnh nói tức nói êm Bằng lấy anh đặt rượu làm men, Thì lại sợ ảnh hay cà riềng cà tỏi Em muốn lấy ông nhạc công cho giỏi, Nhưng lại sợ giọng quyển giọng kèn Em muốn lấy thằng chăn trâu cho hèn, Nhưng lại sợ nhiều điều thá ví Em muốn lấy anh lái buôn thành thị, Nhưng lại sợ ảnh kêu mắc rẻ khó lòng Em muốn lấy anh thợ đóng thùng, Nhưng lại sợ ảnh kêu trật niền trật ngổng Em muốn lấy ông Hương ông Tổng, Nhưng lại sợ việc trống việc gông Em muốn lấy anh hàng gánh tay không, Nhưng lại sợ đầu treo đầu quảy Em muốn lấy chú hàng heo khi nãy, Nhưng lại sợ chú làm lộn ruột lộn gan Em muốn lấy anh thợ đát thợ đan, Nhưng lại sợ ảnh hay bắt phải bắt lỗi Em muốn lấy anh hát bè hát bội, Nhưng lại sợ giọng rỗi giọng tuồng Em muốn lấy anh thợ đóng xuồng, Nhưng lại sợ ảnh hay dằn hay thúc… Hò ơ.. (chớ) Mấy lời trong đục chẳng dám nói ra Có thầy giáo tập dạy trong làng xa, hay dạy hay răn So đức hạnh chẳng ai bằng, lại con nhà nho học Sử kinh thầy thường đọc, nên biết việc thánh hiền Gặp nhau em kết liền, không chờ chẳng đợi… (ờ) Hò ơ.. (chớ) Không chẳng chờ chẳng đợi phỉ nguyền phụng loan 57. Hút sách là chuyện chẳng lành Trâu bò vườn ruộng hoá thành khói mây  

58. Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà Cả ba việc ấy đều là khó thay. 59. Mười năm cắp sách theo thày Năm thứ mười một vác cày theo trâu. 60. Bốn ông đập đất, một ông phất cờ, Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân. 61.Ai cũng gặt lúa đỏ đuôi Chàng về mà đập, mà phơi kịp ngày Ai mà giã gạo ba chày Giã sao cho trắng, gửi ngay cho chàng Sẵn tiền mua bạc mua vàng Sẵn tiền sắm áo cho chàng trẩy kinh Sáng trời chàng mới tập binh Em ngồi vò võ, một mình em lo Ruộng nương không ai cày cho Trâu bò, gà, lợn em lo dường nào! Ruộng người cày cấy xôn xao Ruộng nhà cỏ mọc lên cao lồng ngồng Người ta có vợ có chồng Cỏ cao, mạ úa nhưng lòng vẫn vui Nhà ta chỉ có em thôi Ruộng cạn mạ úa em ngồi em lo 62.Ai ơi uống rượu thì say Bỏ ruộng trâu cày bỏ giống ai gieo. 63.Anh đánh thì tôi chịu đòn Tánh tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa Anh đánh thì tôi xin thưa Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu Ăn quen chừa được chẳng lâu Lệ làng làng bắt mất trâu mặc làng 64.Ba vợ bảy tám nàng hầu Đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi. 65.Ăn thuốc bán trâu ăn trầu bán ruộng 66.Anh em bất nghĩa chi khèo Anh dữ như mèo tôi lại như trâu 67.Bé ăn trộm gà Già ăn trộm trâu Lâu nữa làm giặc 68.Cầm trâu cầm áo cầm khăn Cầm dây lưng lụa, xin đừng cầm em ! 69.Cái bống mặc xống ngang chân Lấy chồng Kẻ Chợ cho gần, xem voi Trèo lên trái núi mà coi Thấy ông quản tượng cõi voi đánh cồng Túi vóc mà thêu chỉ hồng Têm trầu cánh phượng cho chồng đi thi Một mai chồng đỗ, vinh quy Võng anh đi trước, em thì võng sau Tàn quạt, hương án theo hầu Vinh quy bái tổ, giết trâu ăn mừng! 70.Cái kiến mà kiện củ khoai Mày chê tao khó, lấy ai cho giầu Nhà tao chín đụn mười trâu Lại thêm ao cá, bắc cầu rửa chân Cầu nầy là cầu ái ân Một trăm con gái rửa chân cầu nầy Có rửa thì rửa chân tay Chớ rửa lông mày chết cá ao anh Nhà anh có một cây chanh Nó chửa ra nhành nó đã ra hoa Nhà anh có một mụ già Thổi cơm không chín, quét nhà chẳng nên Ăn cỗ khì đòi ngồi trên Mâm son bát sứ đem lên hầu bà. 71.Bong bóng thì chìm gỗ lim thì nổi Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai Hòn đá dẻo dai, hòn xôi rắn chắc Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu Hay sủa thì trâu, hay cày thì chó… (hình như vẫn còn tiếp thì phải) 72.Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu Tham vì ông lão tốt râu mà hiền Chẳng tham ruộng cả ao liền Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ. Chẳng tham nhà ngói ba tòa Tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành. 73.Chồng dữ thì em mới rầu Mẹ chồng mà dữ giết trâu ăn mừng 74.Chùn đùi, thắt quản, ngắn đuôi Sừng to móng hến thì nuôi đúng rồi 75.Cao đầu thấp hậu thì tậu liền tay 76.Cao vây, nhỏ sống thì rộng đường cày 77.Chết lỗ chân trâu 78.Có ăn có chọi mới gọi là trâu 79.Có xa dịch lại cho gần Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi Hay là nặng lắm anh ơi! Để em bớt lại một môi rau cần. Cưới nàng anh toan dẫn voi Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn. Dẫn trâu sợ họ máu hàn Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân. Miễn là có thú bốn chân Dẫn con chuột béo mời dân mời làng. 80.Con cá rô thia ẩn bóng chân trâu Một trăm quân tử tới câu cũng chẳng màng.

81.Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu 82.Con tằm nó ăn lá dâu Có khi ăn mất cả trâu lẫn bò 83.Con vợ khôn lấy thằng chồng dại Như bông hoa lài cặm bãi cứt trâu 84.Công anh chăn nghé đã lâu Bây giờ nghé lớn thành trâu ai cày 85.Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi 86.Em thì canh cửi việc nhà Nuôi anh ăn học đăng khoa bảng vàng Trước là vinh hiển tổ đường Bõ công đèn sách lưu hương con nhà Rước vinh quy về nhà bái tổ Ngả trâu bò làm lễ tế vua Họ hàng ăn uống say sưa Hàng Tổng hàng Huyện mừng cho ông Nghè 87.Dưa gang một chạp thì trồng Chiêm cấy trước tết thì lòng đỡ lo Tháng hai đi tậu trâu bò cày đất cho ải mạ mùa ta gieo 88.Được voi to trâu bò chẳng kể Hoa lan hoa huệ mới kể là hoa Một lời đã trót nói ra Dẫu cho bốn ngựa khó mà đuổi theo 89.Em là con gái nhà giàu Mẹ cha thách cưới ra màu sinh sao Cưới em trăm tấm gấm đào Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng Sắm xe tứ mã đem sang Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu Ba trăm nón Nghệ đội đầu Một người một cái quạt Tàu thật xinh Anh về sắm nhiễu Nghi Ðình May chăn cho rộng ta mình đắp chung Cưới em chín chĩnh mật ong Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò Cưới em tám vạn trâu bò Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm Lá đa mặt nguyệt hôm rằm Răng nanh thằng Cuội, râu hàm Thiên Lôi Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi Xin chàng chín chục con dơi góa chồng Thách thế mới thỏa trong lòng Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân 90.Gió nam ào ạt gốc cây nằm mát Chẻ lạt đứt tay, đi cày trâu húc Đi xúc phải cọc, đi học thầy đánh Đi gánh đau vai, nằm dài nhịn đói

91. Vợ bé nghé con Sẩy đàn tan nghé Hòn đá cheo leo, Con trâu trèo, con trâu trợn Con ngựa trèo, con ngựa đổ. Anh thương em lao khổ Tận cổ chí kim, Anh thương em khó kiếm khôn tìm. Cây kim luồn qua sợi chỉ, Sự bất đắc dĩ phu mới lìa thê, Nên hay không nên, anh ở em về, Đừng giao, đừng kết, đừng thề mà vương. 92.Lạc đường nắm đuôi chó Lạc ngõ nắm đuôi trâu 93.Lao xao gà gáy rạng ngày Vai vác cái cày, tay dắt con trâu. Bước chân xuống cánh đồng sâu Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày Ai ơi! bưng bát cơm đầy Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng? 94.Làm ruộng có trâu làm giầu có vợ Làm ruộng có trâu làm dâu có chồng Một huyền hai lái chẳng xong Một chĩnh hai gáo đừng nong tay vào 95.Lộn con toán bán con trâu 96.Mật ngọt rớt xuống thau đồng Những lời anh nói cho lòng em say Một trâu anh sắm đôi cày Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia! Chàng ơi! chàng cho em ra Nhẽ đâu một ổ đôi gà ấp chung. 97.Một rằng mình quyết lấy ta Ta về bán cửa bán nhà mà đi Ta về bán núi Ba Vì Bán chùa Hương Tích, Phật đi làu làu Ta về bán hết ngựa trâu Bán hột thầu dầu, bán trứng gà ung Bán ba mươi sáu Thổ công Bán ông Hành Khiển, vợ chồng Táo Quân Bán từ giờ Ngọ giờ Dần Giờ Tí giờ Sửu giờ Thân giờ Mùi Ta về bán cả que cời Bán tro đun bếp bán trăm khêu đèn Ta về bán trống bán kèn Có gì bán hết, lấy tiền cưới em 98.Nghé hành nghé hẹ Có khôn theo mẹ Có khéo theo đàn Chớ có chạy quàng Có ngày lạc mẹ Việc nhẹ phần con Kéo nỉ kéo non Kéo đến quanh tròn Mẹ con ta nghỉ 99.Trăm năm cơ hội tình cờ, Đàn cầm anh gãy, câu thơ anh đề. Muốn cho thuận nẻo đi về, Anh sang làm rể, em về làm dâu. Số giàu lấy khổ cũng giàu, Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo. Phải duyên phải kiếp thì theo, Khuyên em chớ nghĩ giàu nghèo làm chi. Em ơi! chữ vị là vì, Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo, Ta đã yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, Thất bát giang cũng lội, tam thập đèo cũng qua. 100.Trời mưa lâm râm Cây trâm có trái Con gái có duyên Đồng tiền có lỗ Bánh tổ thì ngon Bánh dòn thì béo Cái kéo thợ may Cái cày làm ruộng Cái xuổng đắp bờ Cái lờ đơm cá Cái ná bắn chim Cái kim may áo Cái giáo đi săn Cái khăn bịt đầu Cái cầu đi chợ Có vợ đàn ông Có chồng con gái Cái trái mù u Ông cu đi câu Để trâu ăn lúa Bắt được chặt đầu, chặt đầu đuôi Còn hai con mắt đem nuôi mẹ già

Tướng Trâu

Cầm trâu cầm áo cầm khăn Cầm dây lưng lụa, xin đừng cầm em ! Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi Chồng em đâu phải trâu cày Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm Trâu gầy cũng tầy bò giống Ghi Chú: * Trâu gầy vẫn mạnh hơn bò Mắt bánh rán, Trán bánh chưng Lưng tôm càng Ghi Chú: * Trâu có mắt lớn, cái trán vuông vức như cái bánh chưng và lưng không oằn là trâu khỏe mạnh Đã có sừng thì đừng hàm trên Ghi Chú: * Trâu không có răng hàm trên Tai lá mít đít lồng bàn Ghi Chú: * Trâu có tai lớn và mông bự là trâu tốt Vành mồm trắng, mắt tai to Hễ thưa lông bụng, móng hài cũng mua Ghi Chú: * Trâu thưa lông bụng và vành mồm trắng mới là trâu có tướng tốt Sà sừng mắt lại nhỏ con Vụng giàn chậm chạp ai còn nuôi chi Ghi Chú: * Trâu có cặp sừng sệ xuống và mắt nhỏ thì chậm chạp

Vai nồi đồng, mông cối lỗ Ghi Chú: * Vai to tròn, mông lớn là trâu tốt Sừng to móng hến thì nuôi phải rồi Ghi Chú: * Trâu có sừng to, mở Rộng là trâu đắc dụng Tam tinh khoáy sọ thì chừa Đốm đuôi nát chủ thì đưa vào nồi Ghi Chú: * Trâu có khoáy sọ và đuôi có đốm là trâu độc dễ gây tai họa nên giết thịt Làm ruộng có trâu làm giầu có vợ Làm ruộng có trâu làm dâu có chồng Một huyền hai lái chẳng xong Một chĩnh hai gáo đừng nong tay vào Lúa Đồng Ngâu, trâu Yên Mỹ Mất trâu mất ruộng không màng Mất cây cuốc mục ra làng kiện thưa Mất trâu thì lại tậu trâu Những quân cướp nợ có (chẳng) giầu hơn ai ? Một trâu anh sắm đôi cày Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia Chàng ôi! chàng cho em ra Nhẽ đâu một ổ hai gà ấp chung ? Một trâu anh sắm hai cày Một chàng hai thiếp có ngày oan giạ Chả yêu thì bỏ nhau ra Làm chi một ổ hai gà ấp chung. Yếu trâu cũng bằng bò khỏe Con trâu ăn cỏ đất bằng Uống nước bờ ao Hồi nào mầy ở với tao Đến khi mầy chết Tao cầm dao xẻo thịt mầy Thịt mầy nấu cháo linh binh Da mầy bịt trống tụng kinh trong chùa Sừng mầy tao tiện con cờ Cán dao, cán mác, lược dầy lược thưa Mua trâu cưới vợ làm nhà Cả ba việc ấy đều là khó thay Muốn giầu nuôi trâu nái Muốn lụi bại nuôi chim bồ câu. Ngày xưa Ninh Thích chăn trâu Mà rồi công ấn công hầu trâu ơi ! Ngày nay mình nghé ta ngồi Mai sau ta có một thời hiển vinh ? Trâu he cũng bằng bò khỏe Ghi Chú: * Trâu he là trâu nghé hay trâu còn non Lang đuôi thì bán, lang trán thì cày Ghi Chú: * Trâu có hoa trên trán thì giữ để cày ngược lại đuôi có hoa thì đem bán Phù thủy, thầy bói, lái trâu Nghe ba anh ấy đầu lâu không còn Trâu ác vạc sừng Ghi Chú: * Trâu ác hay mài sừng để chiến đấu Tậu trâu lấy vợ làm nhà Trong ba việc ấy lọ là khó thay Ruồi lằn chọi với bò trâu Đàn gà quật với diều hâu mấy lần Thật thà cũng thể lái trâu Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng Trâu tóc chóp, bò mũ mấn Ghi Chú: * Trâu có tóc chóp thì tốt, ngược lại bò có tóc chóp thì xui xẻo Trâu ra, mạ vào Ghi Chú: * Cần cấy ngay sau khi cày ruộng xong Trâu kia (già) kén (cắn) (ăn) cỏ bờ ao Anh kia không vợ đời nào có con Người ta con trước, con sau Thân anh không vợ như cau không buồng Cau không buồng như tuồng cau đực Trai (Anh) không vợ cực lắm anh ơi Người ta đi đón, về đôi Thân anh đi lẻ, về loi một mình Trâu năm sáu tuổi còn nhanh Bò năm sáu tuổi đã tranh về già Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta Cấy cày vốn nghiệp nông gia Hai sương một nang)Tắ đây trâu đấy ai mà quản công Bao giờ cây lúa còn bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn Trâu ai buộc ngõ ông Cai Hoãn ai mà lại đeo tai bà Nghè Ngựa ai buộc ngõ ông Nghè Gà ai gáy ở đầu hè ông Cai Ghi Chú: * Nghè là người đỗ tiến sĩ thời xưa; Hoãn là đôi bông tai Trâu bò ở với nhau lâu quen chuồng quen chỏi Người ở với nhau lâu, inh ỏi đủ điều Trâu buộc thì ghét trâu ăn Quan võ thì ghét quan văn dài quần Trai thì cày ruộng khiển trâu Gái thì phải biết bổ cau têm trầu Ghi Chú: * Tục ăn trầu có ở hầu hết các nước Đông Nam Á; Xem: Trầu Cau Trong Ca Dao Trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta (*) Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm Ghi Chú: * Hoặc: Trâu ta ăn cỏ đồng ta Trâu khoẻ chẳng lo cày trưa Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền. Trâu kia chết để bộ da Người chết để tiếng xấu xa muôn đời Cao vây, dậy tiền, sâu vai, khai hậu Ghi Chú: * Hai chân sau mở rộng gọi là khai hậu Sừng cánh cắt, mắt ông voi Ghi Chú: * Cặp sừng to lớn như cánh chim cắt là trâu tốt Ăn thịt trâu không tỏi Như ăn gỏi không rau mơ Trâu quá sá, mạ quá thì Ghi Chú: * Quá sá là quá già, không còn khả năng để cày cấy Trâu dê chết để tế ruồi Sao bằng khi sống cơi suồi kính dâng Lại thêm tiền thấp hậu cao Ghi Chú: * Hai vai trước thấp mà mông cao, con trâu đi chúi là khôphải trâu tốt Cao vây, nhỏ sống thì rộng đường cày Ghi Chú: * Sống lưng phải vừa phải nhưng nổi cao thì trâu cày khỏe Đầu thanh cao, rào thấp hậu Chẳng tậu thì sao Được voi to trâu bò chẳng kể Hoa lan hoa huệ mới kể là hoa Một lời đã trót nói ra Dẫu cho bốn ngựa khó mà đuổi theo (*) Ghi Chú: * Nguyên thủy: Nhất ký ngôn xuất tứ mãi nan truy Ăn thuốc bán trâu ăn trầu bán ruộng Trăm trâu trăm bó cỏ Trâu đứng ăn năm Trâu nằm ăn ba Nghé hoa ba con ăn một (*) Ghi Chú: * Câu đố toán học – Có bản khác: Con ở đàng xa một bó ba con Chưa được thì khấn một trâu Được rồi thì có trâu đâu cho bà Anh có sừng trâu bạc Tôi có gạc (có giác) trâu đen Bụng trâu làm sao bụng bò làm vậy Buộc trâu trưa nát chuồng Ăn thịt trâu không có tỏi Như ăn gỏi không có lá mơ Béo như trâu chương Đầu trâu mặt ngựa Chăn trâu chả biết mặt trâu Trâu về cầu Cậy biết đâu mà tìm. Chị bị cứt trâu Chị em dâu nấu đầu trâu thủng nồi Chết đuối vũng trâu đằm Anh Ngữ Tương đương: * To cut one’s throat with feather OR An unfortunate man would be drowned in a tea cup) Chết lỗ chân trâu Tương Đương với Anh Ngữ : To cut one’s throat with feather OR An unfortunate man would be drowned in a tea cup Đàn gảy tai trâu (Đàn khảy tai trâu) Đầu nheo còn hơn phèo trâu Đến đâu chết trâu đến đấy Đi sông đi biển không chết chết ở lỗ chân trâu Làm cực như trâu Tương Đương với Anh Ngữ : To work as hard as a horse Chín đụn mười trâu chết cũng hai tay buông xuôi (cắp đít) Tương Đương với Anh Ngữ : A handfull of ashes is all than remains of the greatest. OR: It will all be the same a hundred years hence Có ăn có chọi mới gọi là trâu Gái mười bảy bẻ găy sừng trâu Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu Con trâu là đầu cơ nghiệp Cống làng Tô trâu bò làng Hệ Dắt trâu chui qua ống Đi cày trâu hút đi xúc phải cọc Trâu thì kho bò thì tái Muống thì vừa cải thì nhừ Đuôi chùng quá gối thì nào được đâu! Ghi Chú: * Trâu có đuôi dài quá cũng không đắc dụng Thứ nhất bó rễ, thứ nhì trễ cành Trâu cổ cò, bò cổ vại Ghi Chú: * Trâu phải có cổ dài, cổ bò lớn và ngắn thì tốt Giờ trâu về chuồng Hùng hục như trâu hút mả Hùng hục như trâu lăn Kẻ trâu trắng người trâu đen Khấn trâu trả lễ bò Khỏe như trâu Không có trâu bắt bò đi đẩm Làm kiếp trâu ăn cỏ làm kiếp chó ăn dơ Làm kiếp trâu kéo cày trả nợ Lấm như trâu đầm Lắm rận thì giàu lắm trâu thì nghèo Làm rể chớ xào thịt trâu làm dâu chớ đồ xôi lại Làm ruộng không trâu làm giàu không thóc Lắm ruộng thì thâu lắm trâu thì bán Làm thân trâu kéo cày trả nợ Làm thân trâu ngựa Lâu ngày cứt trâu hóa bùn Lộn con toán bán con trâu (cả nhà) Lộn thừng lộn chão quá hơn lộn trâu cày Lòng trâu dạ chó Máu đâu trâu đó Máu trâu cũng như máu bò Nằm trâu thổi sáo Một con tằm cũng phải hái dâu một con trâu cũng phải đi chăn Mua trâu bán chả Mua trâu lựa nái cưới gái lựa dòng Mua trâu vẽ bóng Muốn giàu nuôi trâu cái Nai lưng trâu Nhịn thuốc mua trâu nhịn trầu mua ruộng Tương Đương với Anh Ngữ : Take care of the pence and the pounces will take care of themselves Phản chủ đầu trâu Ăn cơm nhà Phật, Ðốt trâu nhà chùa Phản chủ đầu trâu Ăn cơm nhà Phật Đốt trâu nhà chùa Ruộng sâu trâu nái Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng Thui trâu nửa mùa hết rơm Tham bong bóng bỏ bọng trâu Thật thà lái buôn (trâu) Vễnh sừng, tóc chớp cả nhà mang tai Ghi Chú: * Trâu loại nầy dữ, hay nổi khùng như trâu điên dễ gây tai vạ Sông Sâu (hoắm) không chết, chết vũng trâu đầm Tương Đương với Anh Ngữ : To cut one’s throat with feather OR An unfortunate man would be drowned in a tea cup Thà chết vũng trâu hơn chết khu đĩa đèn Trật con toán bán cái nhà (con trâu) Trâu béo kéo trâu gầy Trâu bò được ngày phá đỗ Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết Trâu buộc ghét trâu ăn Trâu cày ngựa cỡi (ngựa cưỡi) Trâu chậm uống nước đục (nước dơ) Trâu ngơ ăn cỏ héo Tương Đương với Anh Ngữ: He that comes first to the hill may sit where he will. OR: Delays are dangerous Trâu chết bò cũng lột da Trâu chết chẳng khỏi rơm Trâu chết để da người ta chết để tiếng Trâu chết mặc trâu bò chết mặc bò Củ tỏi giắt lưng Trâu cho ra trâu cho Bò bán ra bò bán Trâu cột ghét trâu ăn Trâu đạp cũng chết voi đạp cũng chết Trâu dong bò dắt Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy Trâu già đâu (không) nệ dao phay Trâu hay ác thì trâu vạt sừng Trâu ho cũng bằng bò khỏe Trâu lấm vẫy quàng Trâu lành (Trâu sống) không ai mà cả Trâu ngã nhiều gã cầm dao Trâu leo cày muỗm Trâu ngã lắm kẻ cầm dao Trâu nghiến hàm bò bạch thiệt Trâu ta ăn cỏ đồng ta Trâu teo heo nở Trâu thịt thì gầy trâu cày thì béo Trâu tìm cọc cọc chẳng tìm trâu Trâu tìm cột cột không tìm trâu Trâu toi thì bò ngã Trâu trắng đi đâu mất mùa tới đấy Trâu trắng trâu đen Đốm đầu thì nuôi, đốm đuôi thì thịt Thân trâu trâu lo thân bò bò liệu Tiếc thịt trâu toi Trai mười bảy bẻ gãy sừng trâu Trăm trâu cũng một công chăm Vác bổi thui trâu Ghi Chú: Ý nói không liệu sức mình; Tương đương với câu: Liệu cơm gắp mắm Vô một gà ra phải ba trâu Voi địt hơn trâu rống Khoáy sừng, khoáy sọ, khoáy tai Tam tinh, chằng ách làm tai chúa nhà Đầu gà còn hơn đuôi phượng (đuôi trâu) Tương Đương với Anh Ngữ : Better be the head of a dog than a tail of a lion Làm chủ một nơi còn hơn làm tôi tớ kẻ khác. Dùng dao mổ trâu (mổ bò) cắt tiết gà Tương Đương với Anh Ngữ : To use a steam hammer to crack nuts Xử dụng không đúng chỗ Chung nốt làm cầu, chung trâu làm trống Chỉ đường cho Mọi trộm trâu Trâu hoa tai, bò gai sừng Ghi Chú: Trâu có hoa tai cũng như bò có gai sừng là hai con vật không nên nuôi Thưa lông, mọng da, mõm giỏ Ghi Chú: * Trâu lông thưa, miệng rộng mõm dài, miệng như cái giỏ mới tốt Trâu nghiến hàm, bò bạch thiệt Ghi Chú: * Trâu nghiến hàm chặt lại là trâu xấu Hàm nghiến, lưỡi đốm hoa cà Vểnh sừng tóc chóp, cửa nhà mang tai Ghi Chú: * Lưỡi trâu có đốm hoa cà là trâu tốt Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi Mua trâu xem vó, mua chó xem chân Chùng đùi, thắt quản, ngắn đuôi Sừng to móng hến thì nuôi đúng rồi Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà Ghi Chú: * Châm biếm người lái máy cày phải được ăn sang, nông dân phải chịu tốn kém Trâu ác là trâu vạc sừng Bò ác là bò còng lưng méo sườn Lọ đầu thì bán Lọ trán thì nuôi Lọ đuôi thì thịt  

Post ngày: 10/05/17