Ca Dao Tục Ngữ Về Sản Vật Việt Nam / Top 19 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Dtdecopark.edu.vn

Ca Dao &Amp; Tục Ngữ Việt Nam

10:36:14 AM, Sep 07, 2023 * Số lần xem: 854101 * Cập nhật

* đăng lúc 11:22:41 AM, Jan 26, 2009 Ca Dao & Tục Ngữ Việt Nam Ca dao là gì?

Trước hết là Ca dao, là những câu thơ ca dân gian Việt Nam. Được truyền miệng dưới dạng những câu hát không thể một điệu nhất định. Và thông thường được phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ và dễ thuộc.

Và đặc biệt hơn đó chính là ca dao đã để lại dấu vết rõ rệt nhất trong ngôn ngữ văn học. Trong đó phần lớn nội dung ca dao thể hiện tình yêu nam nữ. Ngoài ra còn có các nội dung khác như: quan hệ gia đình, các mối quan hệ phức tạp trong xã hội. Và tóm lại ca dao được hiểu ý nghĩa ngắn gọn là những câu thơ dân gian được truyền miệng từ ông cha ta để lại.

Tục ngữ là gì?

Khác với ca dao, thì tục ngữ lại thể hiện những câu nói đúc kết kinh nghiệm của dân gian. Về mọi mặt trong cuộc sống như: tự nhiên, lao động sản xuất và xã hội, được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ, lời ăn tiếng nói và khuyên răn…

Với ý nghĩa ngắn gọn dễ hiểu, dễ nhớ, có nhịp điệu, có hình ảnh thường gieo vần lưng. Và đây cũng là một thể loại văn học dân gian Việt Nam. Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn của con người. Trong đó gữa hình thức và nội dung, tục ngữ có một sự gắn bó chặt chẽ. Thông thường trong một câu tục ngữ có 2 nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng.

Khác với ca dao, tục ngữ thường có vần, gồm 2 loại chính là: vần liền và vần cách.

Ca Dao Tục Ngữ Phần II từ H tới L Ca Dao Tục Ngữ Phần III từ M tới Y :: ::

Xin bấm vào các links sau đây để đọc tiếp :

1. Ai ai cũng tưởng bậu hiềnA

Cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai

2. Ai đem con sáo sang song Để cho con sáo sổ lồng bay cao

3. Ai đi bờ đắp một mình Phất phơ chiếc áo giống hình phu quân

4. Ai đi đâu đấy hỡi ai Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm Ai đi muôn dặm non song Để ai chứa chất sầu đong vời đầy

5. Ai đi sục sịch ngoài hàng dưa Phải chăng chú thợ mộc với cái cưa cái bào Ai đi sục sịch ngoài hàng rào Phải chăng chú thợ mộc với cái bào cái cưa

6. Ai kêu là rạch, em gọi là song Phù sa theo nước chảy mênh mông Sông ơi, thấm mát đời con gái Chẳng muốn lìa sông, chẳng muốn lấy chồng

7. Ai làm cho bướm lìa hoa Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng

8. Ai làm Nam Bắc phân kỳ Cho hai giòng lệ đầm đìa nhớ thương

9. Ai mà nói dối cùng ai Thì trời giáng hạ cây khoai giữa đồng Ai mà nói dối cùng chồng Thì trời giáng hạ cây hồng bờ ao

10. Ai nhứt thì tôi đứng nhì Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba

11. Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần

12. Ai ơi chơi lấy kẻo già Măng mọc có lứa người ta có thì Chơi xuân kẻo hết xuân đi Cái già sòng sọc nó thì theo sau Phần I từ A tới G

100. Áo anh đứt chỉ đường tà Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu

B

Mưa rầu, nắng lửa, người ta lừ đừBuồn về một nỗi tháng tưCon mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ănBuồn về một nỗi tháng nămChửa đặt mình nằm gà gáy, chim kêuLựu xa đào, lựu xéo đào xiênVàng cầm trên tay rớt xuống không phiềnChỉ phiền một nỗi nợ với duyên không trònChờ con bạn ngọc thở than đôi lờianh hai vật đổi sao dờiTính sao nàng tính trọn đời thủy chungCanh ba cờ phất trống rungMặc ai ai thẳng ai dùn mặc aiCanh tư hạc đậu cành maiSương sa lác đác khói bay mịt mờCanh chầy tơ tưởng tưởng tơChiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu khôngAi làm lỡ chuyến đò ngangCho loan với phượng đôi hàng biệt ly

C

78. Bước vô trường án, vỗ ván cái rầm Bủa xua ông Tham biện, bạc tiền ông để đâu

80. Bực mình chẳng muốn nói ra Muốn đi ăn giỗ chẳng ma nào mời

79. Bước xuống ruộng sâu, em mảng sầu tấc dạ

75. Bươm bướm mà đậu cành bong Đã dê con chị, lại bồng con em

76. Bước lên xe kiếng đi viếng mả chồng Mả chưa cỏ mọc trong lòng đậu thai

77. Bước sang canh một anh thắp ngọn đèn vàng

73. Buổi chợ đông con cá đồng anh chê lạt Buổi chợ tan rồi con tép bạc anh cũng khen ngon

74. Bùn xa bèo, bùn khô bèo héo Tay em ôm bó mạ, luỵ ứa hai hàng

C

Đi buôn cau héo có buồn hay không

43. Chén tình là chén say sưa Nón tình anh đội nắng mưa trên đầu

VẦN D VẦN Đ

Đánh bạc quen tay Ngủ ngày quen mắt Ăn vặt quen mồm

Đánh chết, mà nết không chừa Đến mai ăn chợ, bánh dừa lại ăn

Đàn bà nói có là không Nói yêu là ghét, nói buồn là vui

Đàn bà tốt tóc thì sang Đàn ông tốt tóc thì mang nặng đầu

Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi

Đàn kêu tích tịch tình tang Ai đem công chúa lên thang mà về

Đàn ông đi biển có đôi Đàn bà đi biển mồ côi một mình

Đàn ông không râu vô nghì Đàn bà không vú lấy gì nuôi con

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ nhu Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ

Đèn cầu tàu ngọn lu ngọn tỏ Anh trông không rõ, anh ngỡ đèn màu Rút gươm đâm họng máu trào Để em ở lại, em kiếm thằng nào hơn anh

Đèn nhà lầu hết dầu đèn tắt Lửa nhà máy hết cháy thành than Nhang chùa Ông hết mạt nhang tàn Kể từ khi em biết được chàng Đêm về em lăn lộn như con chim phượng hoàng bị tên

Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc Xứ nào dốc bằng xứ Nam Vang Một tiếng anh than ba bốn đôi vàng em không tiếc Anh lấy đặng em rồi anh trốn biệt lánh thân

Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần THương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run

Đèn treo ngang quán Tỏ rạng bờ kinh Em có thương anh thì ăn nói cho thiệt tình Đừng để cho anh lên xuống một mình bơ vơ

Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn Đồng hồ điểm nhặt nhớ chàng không quên

Đêm khuya ra đứng bờ ao Trông cá cá lặn trông sao sao mờ Buồn trông con nhện giăng tơ Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai

Đêm khuya thắp chút dầu dư Tim loan cháy lụn, sầu tư một mình

Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?

Đêm khuya trăng dọi lầu son Vào ra thương bạn, héo hon ruột vàng Bển qua đây đàng đã xa đàng Dầu tui có lâm nguy thất thế Hỏi con bạn vàng nó cứu không? Chiều rồi kẻ Bắc, người Đông Trách lòng người nghĩa, nói không thiệt lời

Đêm nằm tàu chuối có đôi Hơn nằm chiếu tốt lẻ loi một mình

Đêm qua, đêm lạnh, đêm lùng Đêm đắp áo ngắn, đêm chung áo dài Bây giờ chàng đã nghe ai Aó ngắn chẳng đắp, aó dài không chung Bây giờ sự đã nhạt nhùn Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua Cá lên mặt nước, cá khô Vì anh, em phải giang hồ tiếng tăm

Đêm qua nguyệt lặn về Tây Sự tình kẻ ấy, người đây còn dài Trúc với mai, mai về trúc nhớ Trúc trở về, mai nhớ trúc không Bây giờ kẻ Bắc, người Đông Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư

Đêm thanh cảnh vắng Thức trắng năm canh Một duyên, hai nợ, ba tình Đường kia,nỗi nọ, phận mình ra sao

Đến đây đất nước lạ lùng Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo

Đến ta mới biết của ta Trăm nghìn năm trước biết là của ai

Đề huề chồng vợ Như bí rợ nấu kiểm với khoai lang Như tép rang ăn cặp với canh khoai mỡ

Đi chùa lạy Phật cầu chồng Hộ pháp liền bảo đờn ông hết rồi

Đi đâu cho thiếp theo cùng Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam

Đi đâu mà vội mà vàng Mà vấp phải đá mà quàng phải dây Thủng thỉnh như chúng anh đây Thì đá nào vấp, thì dây nào quàng

Đi cho biết đó biết đây Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn

Đi qua nhà nhỏ Thấy đôi liễn đỏ có bốn chữ vàng Thạnh suy anh chưa biết chớ thấy nàng anh vội thương

Đó đây trước lạ sau quen Chẳng gần, qua lại đôi phen cũng gần

Đói lòng ăn đọt chà là Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng

Đói lòng ăn nắm lá sung Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng

Đói lòng ăn nửa trái sim Uống lưng bát nước đi tìm người thương

Đói lòng nuốt trái khổ qua Nuốt vô sợ đắng, nhả ra con bạn cười

Đôi ta chẳng được sum vầy Khác nào cánh nhạn lạc bầy kêu sương Vì sương nên núi bạc đầu Cành lay bởi gió hoa sầu vì mưa

Đôi ta đã trót lời thề Con dao lá trúc đã kề tóc mai Dặn rằng: Ai chớ quên ai!

Đôi ta như loan với phượng Nỡ lòng nào để phượng lià cây Muốn cho có đó, có đây Ai làm nên nỗi nước này chàng ôi Thà rằng chẳng biết thì thôi Biết rồi gối chiếc lẻ loi thêm phiền

Đôi ta như thể con tằm Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong Đôi ta như thể con ong Con quấn con quít, con trong con ngoài Đôi ta như thể con bài Chồng đánh vợ kết chẳng sai con nào

Đố ai biết luá mấy cây Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng Đố ai quét sạch lá rừng Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây Rung cây, rung cỗi, rung cành Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng

Đố ai lặn xuống vực sâu Ru con không hát, em chừa nguyệt hoa

Đố anh con rít mấy chưn Cầu Ô mấy nhịp, chợ Đinh mấy người Mấy người bán áo con trai Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim

Đốt than nướng cá cho vàng Lấy tiềng mua rượu cho chàng uống chơi

Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm Muốn ăn bôn súng mắm kho Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm

Đồng tiền Vạn lịch Thích bốn chữ vàng Anh tiếc công anh gắn bó với cô nàng bấy lâu Bây giờ cô lấy chồng đâủ Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng

Đổ lửa than nên vàng lộn trấu Anh mảng thương thầm chưa thấu dạ em

Đổng Kim Lân hồi còn nhỏ, đi bán giỏ nuôi mẹ Anh gặp em đây không cửa không nhà Muốn vô gá nghĩa, biết là đặng chăng?

Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Lúa rụng đầy đồng, gà chẳng cần ăn

Đờn cò lên trục kêu vang Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương Chiều nay qua phản bạn hồi hương Nghe bậu ở lại vầy vươn nơi nào Ghe tui tới chỗ cắm sào Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông

Đu đủ tiá, bạc hà cũng tiá Ngọn lang dâm, ngọn mía cũng dâm Anh thấy em tốt mã anh lầm Bây giờ anh biết rõ, vàng cầm anh cũng buông

Đưa nhau đổ chén rượu hồng Mai sau em có theo chồng đất xa Qua đò gõ nhịp chèo ca Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say

Đường trơn trợt gượng đi kẻo té Áo còn nguyên ai nỡ xé vá quàng Hồi sớm mai, gặp em sao anh không hỏi Hay dạ của chàng nay đã hết thương?

Đứt tay một chút còn đau Huống chi nhân nghĩa, lià sao cho đành

Đ Đất lành chim đậu.

E

VẦN E

Em có chồng sao em không nói? Để anh theo anh chọc em hoài Chắc có ngày anh sẽ bị ăn dao phay!

Em đeo chiếc kim hườn Em còn chờn vờn chiếc kim xuyến Hườn xuyến vuột tay rồi, buồn nghiến, ai thương!

Em liều một cái bánh bò Còn nào chót chét, cặp giò em chặt hai

Em liều một chén dầu chanh Con nào hỗn dữ vuốt nanh em bẻ liền

Em liều một trái sầu giêng Con nào độc hiểm, em nghiền ra tro

Em nghĩ thân em, như kiếng lấm lem cát bụi Ai đó lau chùi, biết tới buổi nào xong?

Em nhớ thương ai mà mặt mày ngơ ngác Nhớ tên hốt rác hay thương thằng vét đường mương?

Em ơi, anh bảo em này Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi

Em ơi, em có thương anh Em ra canh lính cho anh leo tường!

Em ơi em ở lại nhà Vườn dâu em hái mẹ già em thương Mẹ già một nắng hai sương Chị đi một bước trăm đường xót xa Cậy em em ở lại nhà

Em thấy anh em cũng muốn chào Sợ anh chồng cũ nó đứng bờ rào nó trông

Em chấy anh em cũng muốn chào Sợ rằng chị ả vắt dao trong mình Dao trong mình, gươm anh cặp nách Thuận nhơn tình khoét vách sang chơi

Em thương nhớ ai ngơ ngẩn bên đầu cầu Lược thưa biếng chải, gương tàu biếng soi Cái sập đá bỏ vắng em không ngồi Vườn hoa hoang lạnh mặc người vào ra

Em về hỏi mẹ cùng cha Có cho em lấy chồng xa hay đừng

Én bay thấp, mưa ngập bờ ao Én bay cao, mưa rào lại tạnh

Em nghe tiếng hát đâu xa

Còn trẻ hay già mà còn tinh vang.

Ê

Êm như ru

Ếch ngồi đáy giếng

VẦN G

Gan teo mấy đoạn, ruột thắt mấy từng Mình bảy buôi lỗ miệng đặng cầm chừng xa tui

Gái Tầm Vu đồng xu ba đứa Con trai Thủ Thừa cỡi ngựa xuống mua

Gái Thới Bình lòng ngay dạ thẳng Trai bạc tình một cẳng về quê

Gái lấy trai đứng là gái dại Trai lấy rồi trai lại bán rao Gái đâu có thứ hỗn hào Trai chưa làm rể, gái vào làm dâu

Gà đẻ, gà cục tác

Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân

Gạo Ba Thắt trắng như bông bưởi Nước phông-tên tiền rưỡi một đôi Saigon vui lắm em ơi Lấy chồng về đó một đời sướng thân

Gạo chợ, nước sông, củi đồng, nồi đất

Gạo ngon nấu cháo chưa nhừ Mặt chị có thẹo ảnh chừa đôi bông

Gẫm xem sự thế nực cười Một con cá lội mấy người buông câu

Gần mực thì đen gần đèn thì sáng

Gập ghềnh nước chảy qua đèo Bà già tập tễnh mua heo cưới chồng

Ghe anh đỏ mũi xanh lườn Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em

Ghe anh mỏng ván, bóng láng nhẹ chèo Xin anh bớt mái, nương lèo đợi em

Ghe em rẽ vô ngọn, anh chẳng đón chẳng chờ Ghe anh tách bến tách bờ, em buồn cho trăng mờ sao lặn Mình lấy nhau chẳng đặng bởi bà mai lưỡi vắn ít lời Mật đường dù chẳng đi đôi Chút hương rớt lại, một đời chưa quên

Ghe lên ghe xuống dầm dề Sao anh không gởi thơ về thăm em?

Ghét con xẩm lai mê trai, mi lai nhãn khứ Ôm bụng trống chầu, bỏ xứ ra đi

Già thì đặc bí bì bì Con gái đương thì rỗng toác toàng toang Ngoài xanh trong trắng như ngà Đàn ông cũng chuộng, đàn bà cũng yêu (Đố là gì? – cau dầy)

Giàu cha giàu mẹ thì ham Giàu cô giàu bác ai làm nấy ăn

Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa Sang đâu đến kẻ say sưa rượu chè

Giàu từ trong trứng giàu ra

Giàu út ăn, khó út chịu

Giả đò mua khế bán chanh Giả đi đòi nợ thăm anh kẻo buồn

Giặc Tây đánh tới Cần Giờ Bậu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công

Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh

Giấy hồng đơn bán mấy Cho anh mua lấy một tờ Viết thơ quốc ngữ Dán trên trái bưởi Thả xuống giang hà Bớ cô gánh nước bên bờ Xuống sông vớt bưởi để mà xem thơ

Giận chồng xách gói ra đi Chồng theo năn nỉ, khoái tù ti trở về

Gieo gió gặp bão

**************************************

Toàn bộ từ vần A đến Y

-B-

-C-

Ca Li đi dễ khó về

Câu nguyên gốc là..nói về những người đi trồng cao su

Cao su đi dễ khó về Khi đi trai tráng, khi về bủng beo ================================================== ======= Có công mài sắt, có ngày nên kim ================================================== ======== Chân cứng đá mềm ================================================== ======== Có chí thì nên ================================================== ======== Cô kia bới tóc đuôi gà Nắm đuôi kéo lại hỏi nhà ở đâu ? Nhà tôi ở trước đám dâu Ở sau đám cải đầu cầu ngó qua

Cái câu này còn có khác hơn một tí đó là..

Đ-

Còn trẻ hay già mà còn tinh vang.

Ếch ngồi đáy giếng

================================================== ========

-G-

-H-

-I-

================================================== ========

-K-

-L-

-M-

-N-

Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ ================================================== ======== Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm ================================================== ======== Nhất quỷ nhì ma Thứ ba học trò …. ) ================================================== ======== Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng ================================================== ======== No bụng đói con mắt ================================================== ========

-O-

Ở đâu cũng có anh hùng Ở đâu cũng có thằng khùng thằng điên ================================================== ======== Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài ================================================== ======== Ớt nào là ớt chẳng cay, Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng. Vôi nào là vôi chẳng nồng Gái nào là gái có chồng chẳng ghen ! ================================================== ======== Ở hiền gặp lành ================================================== ========

-Q-

Quả cau nho nhỏ Cái vỏ vân vân Nay anh học gần Mai anh học xa Tiền, gạo là của mẹ cha Bút nghiên, kinh sách thì là của anh

Lấy chàng từ thuở mười ba Đến năm mười tám thiếp đà năm con Ra đường thiếp hãy còn son Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng

================================================== ========

-R-

Râu tôm nấu với ruột bầu Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon ================================================== ========

-S-

Sông sâu còn có kẻ dò Nào ai lấy thước mà đo lòng người ================================================== ======== Sá gì một nải chuối xanh Năm bảy người giành cho mủ dính tay ================================================== ========

-T-

-U-

================================================== ========

-V-

Vì sông nên phải lụy thuyền Chứ như đường liền ai phải lụy ai ================================================== ======== Vải thưa che mắt thánh ================================================== ========

-X-

========

-Y-

Yêu nhau cởi áo cho nhau Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay

========

Yêu nhau thì ném miếng trầu Ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra Yêu nhau cau bổ làm ba Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười

☆ ☆

Xem Thêm Cập nhật 2023:

Mèo khen mèo dài đuôi.

N Năm nắng mười mưa

Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam

Ca dao (歌謠) là một từ Hán Việt, theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc. Nội dung Ca dao phản ánh lịch sử: Ca dao lịch sử không phản ánh hiện tượng lịch sử trong quá trình diễn biến của nó, mà chỉ nhắc đến sự kiện lịch sử để nói lên thái độ, quan điểm nhân dân. Phản ánh nếp sống, phong tục, tập quán truyền thống; phản ánh đời sống tình cảm nhân dân; phản ánh đời sống xã hội cũ. Ngoài ra, ca dao còn: Chứa đựng tiếng cười trào phúng

Phân loại

Đồng dao: là thơ ca dân gian truyền miệng trẻ em. Đồng dao được chia thành hai loại: loại gắn với công việc của trẻ em, loại gắn với trò chơi của trẻ em.

Chi chi chành chành Cái đanh thổi lửa Con ngựa đứt cương Ba vương ngũ đế …

Ca dao lao động: là phần lời cốt lõi của dân ca lao động. Những bài ca lao động tồn tại như là một bộ phận của quá trình lao động.

Trời mưa trời gió đùng đùng Bố con ông Nùng đi gánh phân trâu Đem về trồng bí trồng bầu Trồng ngô, trồng lúa, trồng rau, trồng cà.

Ca dao ru con: Hát ru có từ lâu đời và rất phổ biến, lời hát ru phần nhiều là những câu ca dao có sẵn.

Cái ngủ mày ngủ cho lâu Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về

Ca dao nghi lễ, phong tục: Trong nhiều bài ca tế thần, các yếu tố trữ tình cũng có mặt, cùng với yếu tố hiện thực, chúng biểu hiện sức mạnh của đời sống hiện thực trong các hình thức sinh hoạt tôn giáo trong nhân dân.

Dập dìu cánh hạc chơi vơi Tiễn thuyền Vua Lý đang dời kinh đô Khi đi nhớ cậu cùng cô Khi về lại nhớ cá rô Tổng Trường

Ca dao trào phúng, bông đùa

Lỗ mũi mười tám gánh lông Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho Đêm nằm thì ngáy o o Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà Đi chợ thì hay ăn quà Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm Trên đầu những rác cùng rơm Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.

Ca dao trữ tình. Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.

Tục ngữ Việt Nam

Tục ngữ là những câu nói hoàn chỉnh, đúc kết kinh nghiệm của nhân dân về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội. Tục ngữ thiên về trí tuệ nên thường được ví von là “trí khôn dân gian”. Trí khôn đó rất phong phú mà cũng rất đa dạng nhưng lại được diễn đạt bằng ngôn từ ngắn gọn, xúc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữ là văn học nói dân gian nên thường được nhân dân vận dụng trong đời sống sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói và khuyên răn.

Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác; được tách ra từ tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại; được rút ra tác phẩm văn học bằng con đường dân gian hóa những lời hay ý đẹp hoặc từ sự vay mượn nước ngoài.

Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ…

Đa số tục ngữ đều có vần, gồm 2 loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca… Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán, nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán.

Các kiểu suy luận: liên hệ tương đồng, liên hệ không tương đồng, liên hệ tương phản, đối lập, liên hệ phụ thuộc hoặc liên hệ nhân quả.

Đầu tiên là các bản ghi chép tục ngữ bằng chữ Nôm vào thế kỷ 19 như Nam phong ngữ ngạn thi của Đình Thái, Đại Nam Quốc Túy của Ngô Giáp Đậu…

Bản ghi tục ngữ bằng chữ quốc ngữ có Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn của Huỳnh Tịnh Của (1897), Tục ngữ cách ngôn của Hàn Thái Dương (1920)…

Một số bản sưu tập, chú thích nghĩa và dịch tục ngữ Việt Nam sang tiếng Pháp như Tục ngữ An Nam dịch sang tiếng Tây của V. Barbier (Triệu Hoàng Hòa), Đông Tây ngạn ngữ cách ngôn của H. Délétie và Nguyễn Xán (1931)…

Một số bản khác như Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1942), [Tục ngữ dân ca Mường Thanh Hóa]] của Minh Hiệu sưu tầm (1970), Ca dao, ngạn ngữ Hà Nội do Triều Dương sưu tầm và biên soạn (1971), Tục ngữ Thái (1978), Tục ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan (1956), Tục ngữ Việt Nam của Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Chi (1975)…

(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam

LTS: Chỉ ra các sai sót chủ yếu trong phần Tục ngữ của cuốn sách Ca dao tục ngữ Việt Nam do Phương Thu sưu tầm và biên soạn được Nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành năm 2004, tác giả Trần Sơn đã có bài viết chia sẻ. Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết.

Ở bài viết này, người viết xin được chỉ ra các sai sót chủ yếu trong phần Tục ngữ của cuốn sách.

Trong phần này, do sơ suất từ khâu biên soạn, biên tập và in ấn đã có hàng chục câu tục ngữ sai với các kiểu sai khác nhau đã làm cho các câu tục ngữ này bị biến dạng, nhiều khi rất vô nghĩa và hài hước.

Nhầm thơ trong Truyện Kiều thành tục ngữ

Có một số câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du mà soạn giả Phương Thu lại nhầm thành tục ngữ.

Đó là câu “Chữ trinh đáng giá ngàn vàng” (trang 40), đây vốn là câu thứ 3095 trong Truyện Kiều; còn câu “Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê” (trang 86) là câu thứ 1306 của Truyện Kiều.

Chữ tác đánh chữ tộ

Tất nhiên mỗi câu tục ngữ cũng như các thể loại văn học dân gian khác có thể có nhiều dị bản, nhưng trong cuốn sách này rất nhiều câu tục ngữ bị viết sai chứ đó không phải là các dị bản của câu tục ngữ đó.

Đây là kiểu sai sót phổ biến trong cuốn sách này, không biết là do khâu biên soạn, biên tập hay lỗi đánh máy mà rất nhiều câu trong đó chữ “tác” đánh chữ “tộ” làm cho nhiều câu tục ngữ bị sai nghĩa, thậm chí vô nghĩa.

Câu “Ăn lấy chắc, mặc lấy bền” bị biến thành câu “Ăn lấy chắc, mặc lấy tiền” (trang 4).

“Mặc lấy bền” mới có ý nghĩa và tương thích với vế trước của nó là “Ăn lấy chắc”, chứ “mặc lấy tiền” thì có ý nghĩa gì?

Câu “Xấu mặt xin tương, cả phường cùng húp” được những người làm sách chép thành “Xấu mặt xin tương, cả phường cùng úp” (trang 6). Xin tương là để cùng húp chứ xin tương để cùng úp thì có nghĩa gì?

Câu “Giàu thủ kho, no nhà bếp” bị biến thành “Giàu chủ kho, no nhà bếp” (trang 7).

“Chủ kho” thì giàu là tất nhiên rồi, sao cần phải nói nữa; thực ra, từ đúng trong câu tục ngữ này phải là “thủ kho” (người giữ kho). Đây chắc nhìn chữ nọ sọ chữ kia nên hóa sai.

Câu “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” được cuốn sách viết thành “Tay làm hàm nhai, tay quay miệng trễ” (trang 15) đã làm cho câu tục ngũ bị sai nghĩa hoàn toàn vì “tay quay” cũng có nghĩa là “tay làm” (quay có nghĩa là hoạt động).

Vậy “tay làm” mà “miệng trễ” thì mâu thuẫn quá, không hợp với lôgíc trong câu tục ngữ này.

Câu “Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan” bị biến thành câu “Ăn cơm lừa thóc, ăn cỏ bỏ gan” (trang 20).

Cỏ làm sao có ganmà bỏ? Làm sách tục ngữ kiểu này đúng là quá xem thường độc giả.

Câu “Ghen vợ, ghen chồng chẳng nồng bằng ghen ăn” được soạn giả chép thành “Ghen vợ, ghen tuồng không nồng bằng miếng ăn” (trang 20).

Đang nói về “ghen vợ” sao không ghép với “ghen chồng” lại ghép “ghen tuồng”? Đây cũng là kiểu chép nhầm “tác” thành “tộ”.

Câu “Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống” được cuốn sách viết thành “Tiền vào nhà khó như gió từ nhà trống”.

“Từ” với “vào” nghĩa khác nhau, vế trước dùng từ “vào” thì vế sau cũng phải dùng từ “vào” mới hợp lôgíc và cấu trúc của câu tục ngữ này.

Câu “Của chẳng ngon, nhà đông con cũng hết” bị viết sai thành câu “Của chẳng ngon, nhà nhiều con chẳng hết” (trang 42).

Nghĩa của câu tục ngữ sai này rất không ổn vì nó phi lôgic. Câu tục ngữ này nghĩa hai vế là đối lập nhau, “của chẳng ngon” nhưng “nhà đông con cũng hết” mới hợp lý chứ “của chẳng ngon” nhưng “nhà nhiều con chẳng hết” thì chẳng có ý nghĩa gì.

Câu “Hùm dữ chẳng nỡ ăn thịt con” bị viết sai thành “Hùm chẳng ăn thịt con” (trang 43).

Đọc câu tục ngữ sai này nghe như là đang nói về một loài thực vật nào đó chứ không phải nói về con vật.

Trang 46 có câu “Áo năng may năng nói, người năng tới năng thân”. Áo mà lại biết nói ư? Hay là tác giả đã nhân hóa?

Hóa ra là lỗi nhầm từ do trông gà hóa cuốc, từ “mới” lại đánh thành từ “nói”, vì câu tục ngữ đó đúng phải là “Áo năng may năng mới, người năng tới năng thân”.

Vẫn ở trang này, lại có câu “Thua trời một bạn, không bằng thua bạn một ly”. Đọc lên thấy rất lạ, từ xưa nay lấy “bạn” làm đơn vị số lượng để so sánh bao giờ và “bạn” thì làm sao đối được với “ly”.

Hóa ra, cụm từ “một vạn” được những người làm sách đánh nhầm thành “một bạn”.

Thực ra câu tục ngữ này còn có một dị bản nữa là “Thua thầy một vạn, không bằng thua bạn một ly”.

Trang 48 có 2 câu tục ngữ được viết sai: “Tháng giêng rét dài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng ” và “Mồng bảy ngâu ra, mồng ba ngâu”. Thì ra, chữ “tác” đánh chữ “tộ” nên “Bân” viết thành “Bần” , “vào” viết thành “vàng”.

Trang 49 của cuốn sách lại có câu tục ngữ rất lạ “Sao thì , sao thì ” mặc dù ngay dưới câu này là câu “Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa”.

Vậy là hai câu tục ngữ này “cãi nhau”: một câu nói xuôi, một câu nói ngược. Thực ra, chỉ có câu sau là đúng, câu trước là sai. Đây là lỗi của soạn giả và cả người biên tập.

Trang 55 có câu “Làm tùy phủ, ngủ tùy chồng”. Đang nói về nơi chốn sao lại nói người, “phủ” thì phải đi với “nhà” chứ, sao lại đi với “chồng”.

Thực ra, câu tục ngữ đúng là “Ăn tùy chủ, ngủ tùy chồng”. Hóa ra, do nghe từ được, từ mất mà những người làm sách đã nhầm “chủ” thành “phủ”.

Thực ra, chỉ có câu tục ngữ “Giỏ nhà ai, quai nhà ấy”, vì chỉ có “quai” đi với “giỏ” mới hợp.

Và, có như vậy mới đảm bảo ý nghĩa và vần của câu tục ngữ chứ không có câu tục ngữ sai như sách đã viết.

Trang 60 có câu “Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò chạy đi”.

Trẻ mới có chín tháng thì làm sao mà “chạy đi” được, mà mới “lò dò” thì làm sao mà “chạy đi” được?

Đây là lỗi kiến thức của soạn giả. Thực ra, phải thay “chạy đi” bằng “biết đi” mới đúng.

Trang 63 có câu “Để đau chạy thuốc, chẳng tành giải trước thì hơn”. Đọc câu này, độc giả chẳng hiểu “chẳng tành” có nghĩa là gì.

Hóa ra, những người làm sách nhầm chữ nọ sang chữ kia, “chẳng thà” hóa “chẳng tành”. Đúng là một kiểu làm sách quá ẩu!

Trang 56 cũng có lỗi tương tự khi sách viết nhầm “hỏng” thành “lỏng” trong câu “Kén quá hóa lỏng“. Đọc câu tục ngữ sai này độc giả không hiểu vì sao “kén quá” lại “hóa lỏng”.

Câu tục ngữ “Gieo gió gặt bão” bị viết sai thành “gieo gió gặp bão” (trang 113). Đây là câu tục ngữ chỉ quan hệ nhân quả nên “gieo” phải đi với “gặt” mới phù hợp, chứ không thể đi với “gặp”.

Trang 115 có cuốn sách có câu tục ngữ rất buồn cười ” ăn thì no, co thì ấm”.

Phải chăng những người làm sách này hiểu câu tục ngữ trên là “kéo nhau đi ăn thì sẽ no và mùa rét năng kéo co thì sẽ ấm”?

Thực ra, đây là câu tục ngữ rất quen thuộc “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”.

Làm sách tục ngữ kiểu này đúng là làm hỏng ngôn ngữ, tục ngữ thành “ngữ tục”!

Câu “Con bò cạp có nọc đằng đuôi” bị chép sai thành “Con bò cọp có nọc ở đuôi” (trang 25).

Bò là bò, cọp là cọp làm gì có con bò cọp. Hóa ra là lỗi biên tập, lỗi đánh máy ẩu nên “con bò cạp” thành “con bò cọp”.

Tương tự như trên câu “Trưởng giả còn thiếu trã nấu ăn” bị viết sai thành ” giả còn thiếu nấu ăn”.

Vì lỗi đánh máy, lỗi chính tả mà câu tục ngữ này thật tối nghĩa, không hiểu nổi.

Trong phần Tục ngữ, lỗi đánh máy chữ nọ sọ chữ kia, sai chính tả trong cuốn sách còn xuất hiện ở rất nhiều câu tục ngữ nữa như:

Câu “Vắng trăng có sao, vắng đào có lý” thành “Vầng trăng có sao, vắng đào có lý” (trang 39);

Câu “Ở góa ba năm lấy chồng buồn ngủ” thành “Ở hóa ba năm lấy chồng buồn ngủ” (trang 37);

“Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” thành “Một tiếng giữa làng, bằng một sàng xó bếp” (trang 34);

“Lẽ” thành “lẻ” trong câu “Gái phải làm lẻ thà rằng chết trẻ còn hơn” (trang 35);

“Nhỡ” thành “nhở” trong câu “Đừng tham da trắng tóc dài, đến khi nhở bữa chẳng mài mà ăn” (trang 35);

“Mặt” thành “mặc” trong câu “Đánh chuông ra mặc, đánh giặc ra tay” (trang 33);

“Lắt léo” thành “lắc léo” trong câu “Lưỡi không xương nhiều đường lắc léo” (trang 32);

“Đau” thành “đâu” trong câu “Miếng ngon nhớ lâu, lời đâu nhớ đời”;

“Phường” thành “phương” trong câu “Buôn có bạn, bán có phương” (trang 18);

“Trỏ: thành “trò” trong câu “Cho nhau vàng, không bằng trò đàng đi buôn” (trang 18);

“Xơ” thành “sơ” trong câu “Ăn mít bỏ sơ, ăn cá bỏ lờ” (trang 10).

Ngoài ra, còn rất nhiều câu khác trong phần Tục ngữ cũng bị in sai như:

“Hết cơn cực, đến hồi thái lai” (trang 116); “Tắt đèn, ngói cũng như nhà tranh” (trang 116); “Non cao ai đắp mà … ” (trang 113); “Con giun lắm cũng ” (trang 109); “Văn , vợ người” (trang 109); “Đi một ngày đàng, học một khôn” (trang 106);

“Những người mắt nhọ nhem, bởi chưng kiếp trước đĩa đèn không lau” (trang 94); “Đất cứng trồng cây ngả ” (trang 74); “Nhất chơi tiền, nhì tiền” (trang 64); “Ba năm ở với người /Chẳng bằng một lúc đứng gần người khôn” (trang 105).

Phải chăng vì cuốn sách này không có người sửa bản in (không thấy đề ở cuối sách) nên sách này có rất nhiều lỗi đánh máy và người đánh máy lại là một người nghiệp dư và làm ẩu?

Râu ông nọ cắm cằm bà kia

Đây là kiểu sai sót mà soạn giả lấy nửa câu tục ngữ nọ ghép mới nửa câu tục ngữ kia để làm ra câu mới một cách khiên cưỡng, không hợp cả về vần và về nghĩa.

Câu ” Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại biết đâu mà dò ” (trang 71) lấy phần đầu của câu “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo” (trang 72) và phần cuối của câu “Người khôn rào trước đón sau, để cho người dại nửa mừng nửa lo” (trang 71) rồi ghép một cách cơ học lại với nhau.

Câu “Mực mài tròn, mài son đánh giặc” (trang 24) cũng được lắp ghép theo cách tương tự như trên.

Phần đầu “Mực mài tròn” lấy ở câu “Mực mài tròn, son mài dài”; phần sau “mài son đánh giặc” lấy ở câu “Mài mực ru con, mài son đánh giặc”.

Đây đúng là cách sáng tác tục ngữ theo kiểu “Râu ông nọ cắm cằm bà kia” điển hình của soạn giả.

Chẻ một câu tục ngữ làm hai

Đây có lẽ là lỗi trình bày. Một câu tục ngữ dạng thơ lục bát được trình bày thành 2 dòng nhưng đầu mỗi dòng đều có dấu gạch ngang nên người đọc nhầm tưởng là 2 câu tục ngữ.

Có hàng chục câu tục ngữ mắc lỗi như vậy kéo dài suốt từ trang 105 đến trang 115.

– Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.

– Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người (trang 105).

– Muốn sang thì bắc cầu kiều,

– Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy (trang 106).

– Một cây làm chẳng nên non,

– Ba cây chụm lại nên hòn núi cao (trang 107).

– Người khôn con mắt đen sì,

– Người dại con mắt nửa chì nửa thau (trang 108).

– Nói lời thì giữ lấy lời,

– Đừng như con bướm đầu rồi lại bay (trang 109).

– Vàng thì thử lửa thử than,

– Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời (trang 110).

– Thứ nhất thì tu tại gia,

– Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa (trang 112).

– Khúc sông bên lở bên bồi,

– Bên lở lở mãi, bên bồi bồi thêm (trang 113).

– Sự đời nghĩ cũng nực cười,

– Ai ơi đã quyết thì hành.

– Đã đan thì lận tròn vành mới thôi (trang 115).

Nhầm thành ngữ, tục ngữ thành ca dao

Trong phần cuối của cuốn sách (phần Ca dao), trong mục 14. Ca dao đối với giai cấp phong kiến, soạn giả đã đưa hàng trăm câu tục ngữ, thành ngữ vào mục này.

Vậy là soạn giả không phân biệt rõ được đâu là ca dao, đâu là tục ngữ, thành ngữ.

Đầu tắt, mặt tối; Thắt lưng, buộc bụng; Cái khó bó cái khôn; Tham buổi giỗ, lỗ buổi cày; Một năm làm nhà, ba năm hết gạo; Ruộng sâu, trâu nái; Hết nạc vạc đến xương;

Giàu bán chó, khó bán con; Bút sa, gà chết; Miệng quan, trôn trẻ; Được làm vua, thua làm giặc; Nén bạc đâm toạc tờ giấy; Khó giữ đầu, giàu giữ của ;…

Cuốn sách ca dao tục ngữ Việt Nam có nhiều sai sót này, năm 2010, lại được Nhà xuất bản Thời Đại liên kết với Nhà sách Minh Thắng xuất bản vẫn giữ nguyên mẫu bìa cả trước, cả sau.

Tuy nhiên, trong cuốn sách mới này vẫn còn hàng câu tục ngữ sai vẫn chưa được sửa chữa như:

Ăn cơm lừa thóc, ăn bỏ gan; Ở ba năm, lấy chồng buồn ngủ; Giàu kho, no nhà bếp; Mực mài tròn, mài son đánh giặc; Làm tùy , ngủ tùy chồng;

Áo năng may năng , người năng tới năng thân; Ghen vợ, ghen không nồng bằng miếng ăn; Đánh chuông ra , đánh giặc ra tay; Kén quá hóa ; Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò đi; Để đau chạy thuốc, chẳng giải trước thì hơn…

Hiện nay trên mạng, một số nhà sách và Facebook vẫn đang rao bán cuốn sách này.

Để góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, đề nghị các cơ quan chức năng cho kiểm tra và có biện pháp xử lí thích hợp với các đơn vị xuất bản và phát hành.

Đặc biệt là độc giả cần lựa chọn những cuốn sách được làm một cách nghiêm túc, được ấn hành bởi các nhà xuất bản uy tín.

Nguồn Gốc Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam

Trong cuộc sống, bất cứ điều gì cũng mang thông điệp muốn truyền tải cả. Đối với sinh vật bậc cao như con người, ngôn ngữ được sinh ra bởi nhu cầu trao đổi thông tin và giao tiếp. Một số cảm xúc như yêu, ghét, giận, hờn có thể được hoa mỹ thông qua một số cách thức sử dụng từ ngữ rất đặc biệt. Trong tiếng Việt, hình ảnh những câu ca dao, tục ngữ đã trở nên quá quen thuộc. Chúng chứa đựng dòng chảy của lịch sử qua từng câu từng chữ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết được ca dao, tục ngữ xuất phát từ đâu trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam.

Ca dao, tục ngữ là ra đời để người xưa lưu giữ những bài học kinh nghiệm sống của mình cho con cháu. Ca dao, tục ngữ là những câu nói truyền miệng ngắn gọn, có vần điệu và rất dễ nhớ. Ngoài những bài học răn dạy, đôi lúc, ca dao, tục ngữ còn là nơi gửi gắm tình cảm, bày tỏ quan điểm của tầng lớp nhân dân, sĩ phu trước hiện thực xã hội. Đó là lý do lí giải cho việc ca dao, tục ngữ mang dòng chảy lịch sử.

Thời điểm mà truyền thông chưa phát triển trong xã hội như bây giờ thì ca dao, tục ngữ là một trong những hình thức để truyền thông tin được áp dụng rất rộng rãi. Không phải tất cả các câu tục ngữ, ca dao đều do tầng lớp nhân dân sáng tác mà trong đó có thể do tầng lớn tri thức, cụ thể là những người học Nho nhưng thi cử không đậu đạt để được làm quan. Họ trở thành thầy đồ, thầy thuốc, thầy bói… sống hoà vào cuộc sống của giới bình dân. Vì vậy, một số câu ca dao, tục ngữ cũng mang nét Nho giáo khá đậm đặc như:

– Thương người như thể thương thân (Gia Huấn Ca của cụ Nguyễn Trãi).

– Đồ sở khanh (nhân vật trong truyện Kiều của cụ Nguyễn Du).

– Máu Hoạn Thư (Truyện Kiều).

– Cô kia tát nước bên đàng, / Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi ? (Từ bài thơ Tiếng Hát Trong Trăng trong tập thơ “Tiếng thông reo” của thi sĩ Bàng bá Lân xuất bản năm 1935).

Một số câu nói truyền lại kinh nghiệm sống, để răn dạy như:

– Ở chọn nơi, chơi chọn bạn .

– Ăn đi trước, lội nước đi sau .

– Cày sâu tốt lúa.

– Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.

– Có công mài sắt, có ngày nên kim .

– Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng .

Ca Dao Tục Ngữ Phật Giáo Việt Nam

T rải suốt hơn 2000 năm từ khi du nhập, Phật giáo đã bắt rễ sâu rộng trên mảnh đất Việt Nam, cùng với dân tộc trải qua những thăng trầm lịch sử. Ảnh hưởng của Phật Giáo đối với dân tộc thật sâu đậm. Từ trong tư duy, tình cảm, thể hiện ra trong ngôn ngữ và trong mọi sinh hoạt của cuộc sống.Ở đây chúng tôi muốn nói riêng đến ca dao, tục ngữ, một mảng văn học rất phong phú vô cùng quan trọng, định hình cho văn hóa Việt Nam.

Mạng hạ, PL 2545, Tân Tỵ 2001

Lệ Như Thích Trung Hậu

ĐỌC SÁCH CỦA THẦY TRUNG HẬU

Ca dao, tục ngữ là gia tài văn hóa của dân tộc. Chúng ta thừa hưởng gia tài đó từ quần chúng, vì quần chúng vừa là người sáng tạo vừa là người lưu giữ bằng cách truyền miệng từ đời này qua đời khác. Một lời thốt ra đây đấy, rồi đồng thanh tương ứng, như thử đó là sự thực của chính lòng mình, như chính mình thốt ra.

Nói sáng tạo tức là nói cảm hứng. Quần chúng rút cảm hứng tư đâu để sáng tạo? Từ trong sâu thẳm của vốn liếng văn hóa un đúc từ ngàn xưa. Cũng từ trong sâu thẳm đó, sáng tạo bắt gặp hưởng ứng của tập thể, được truy nhận, trút bỏ tính cánh riêng tư cá nhân và biến thành gia tài của tập thể. Từ ngàn xưa, Phật giáo đã tô bồi văn hóa cho đất nước này, đã trở thành văn hóa của dân tộc. Như vậy, tất nhiên Phật giáo đã cung cấp cảm hứng, đã là nguồn cội chính của sáng tạo và truy nhận tập thể trong việc hình thành ca dao tục ngữ. Nhận định có tính cách hiển nhiên này tạo ra hai phản ứng đối nghịch nhau nơi người nghiên cứu về ca dao tục ngữ, vừa hứng khởi vừa nhụt bước. Hứng khởi vì mưa gió thuận hòa như thế giữa Phật giáo và nhân gian, mùa gặt ca dao tục ngữ chắc chắn phải đầy ắp Nhụt bước, vì chính mưa thuận gió hòa đó trong tâm hồn quần chúng khiến cho sự quan sát ảnh hưởng của Phật giáo trong tục ngữ ca dao thành ra phức tạp. Trái cây đang chín trên cành, làm sao phân biệt đâu là cống hiến của đất, đâu là góp phần của phân bón? Tác giả cuốn sách này đã nhụt bước như vậy không phải một lần, ngay từ câu hỏi đầu tiên. Làm sao chọn lựa? Đứng trên tiêu chuẩn nào? Không tiêu chuẩn nào hoàn toàn khách quan cả. Lấy một ví dụ: nhân duyên. Tư tưởng rất bác học này của Phật giáo được dân gian tiếp nhận như một chuyện hiển nhiên trong đời sống thường ngày, như chim hót bướm bay. Trai gái gắn bó với nhau? Nhân duyên. Phụ bạc nhau? Cũng nhân duyên. Hàng trăm câu tục ngữ ca dao như vậy, biết lấy câu nào bỏ câu nào? Lấy ít thì bất công, lấy nhiều thì lạm phát, lấy nửa chừng thì vừa lạm phát vừa bất công. Tình cha nghĩa mẹ là một ví dụ khác. Ở đây vừa có chữ hiếu của Nho giáo vừa có chữ hiếu của Vu Lan. Hai tình cảm trộn lẫn với nhau, tùy lúc phần này đậm hơn phần kia. Làm sao phán đoán khách quan để chọn lựa: đây đậm màu Phật giáo hơn đó? Đã trích câu này sao lại bỏ câu kia? Giống như một tiếng chuông ngân, ai dám quả quyết đâu là lúc ngân nga tan biến hẳn trong không trung? Cũng vậy, những khái niệm ngôn ngữ như phước, đức, tội, nghiệp, phận, số, kiếp … hoặc những hình ảnh, âm thanh như chùa, tượng, hương đèn, hoa sen, chuông mõ … nằm trong rất nhiều thề thốt, ví von, hẹn hò, trách móc giữa trai gái, vợ chồng. Chẳng lẽ nghe tiếng chuông này mà bỏ tiếng chuông kia? Chọn lựa của tác giả quả là ray rứt, bỏ thì thương vương thì tội. Tác giả đành mang tội, đành gánh tội nghiệp trên vai, gánh mọi phê bình chỉ trích mà tác giả biết trước. Bù lại, người đọc tha hồ thướng thức hoa thơm quả lạ mà tác giả đã hái trong nhiều chục năm qua với lòng thương trải rộng trên cả những trái đắng chát, độc. Ở đâu, trong bất kỳ văn hóa nào, quần chúng cũng thích hóm hỉnh, trào lộng, tiếu lâm. Đặc tính đó phát biểu tràn đầy trong tục ngữ. Ở Pháp, hồi thế kỷ XVII, César Oudin, trong Les Curiosités Francaises (1640), đã phân loại tục ngữ theo thứ lớp như sau: familières, vulgaires, basses, triviales (trêu chọc, tầm phào, hạ tiện, thô bỉ). Trong sách này, bốn loại đó không thiếu. Cùng với những chấp tay cung kính, những tiến cười bốn loại này vẽ ra hình ảnh của Phật giáo trong dân gian sung kính từ bi, nhân quả, nghiệp báo, nhân duyên, hiếu hạnh trong đạo Phật. Và nhân gian đòi tôn trọng chữ giới. Không đặt chữ giới lên hàng đầu, hãy cúi đầu gánh chịu tiếng cười, kể cả tiếng cười độc, của nhân gian. Hãy quán tiếng cười đó, biết ơn những người đã cười độc, và trải lòng từ bi đến với họ. Tôi rất hân hạnh được Thượng Tọa Trung Hậu cho cái phước viết mấy dòng này ở đầu sách. Sự kính trọng và tình cảm thân mật lâu đời của tôi đối với Thượng Tọa cho phép tôi cũng cười một tiếng với tác giả qua hai câu chuyện thiền. Câu chuyện thứ nhất, tôi nghĩ là chuyện thiền nhưng quá phổ thông trong quần chúng đến nỗi đã thành ra chuyện ngụ ngôn mà thế hệ của tôi đã học từ lớp ba trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Một chú bé thọc tay vào hũ kẹo, bốc cả một nắm kẹo, rút tay không ra. Nhưng nếu Thượng Tọa cho một chiếc kẹo để có thể rút tay ra dễ dàng thì lại thương mấy chiếc kẹp kia quá trong nắm tay. Chuyện thứ hai là chuyện gió thổi. Mùa hè nóng bức, sư phụ ngồi quạt phe phẩy. Chú tiểu lại gần, thưa: “Bach Thầy, bản chất của không khí là hiện diện cùng khắp, còn gió thì chỗ nào cũng thổi cả. Bach Thầy, tại sao Thầy phải dùng quạt? Tại sao Thầy phải tạo ra gió? Chú tiểu thông thái quá, nhưng những bậc thông thái. Sư phụ đáp: “Chú chỉ biết rằng bản chất của không khí là hiện diện cùng khắp, nhưng chú không biết tại sao chỗ nào cũng có gió thổi.” Chú tiểu hỏi lại: “Bach Thầy, Thầy nói “không có chỗ nào mà không có gió thổi”, như vậy là nghĩa làm sao?” Sư phụ không nói gì nữa, im lặng tiếp tục phe phẩy. Chú tiểu cúi đầu, chấp tai vái rồi bước ra. Thượng Tọa Trung Hậu ngồi phạt phe phẩy. Chỗ nào mà không có làn gió Phật giáo?

Phật lịch 2545

Tân Tỵ 2001

Gs. Cao Huy Thuần.

(Paris)