Ca Dao Tục Ngữ Về Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Dtdecopark.edu.vn

Có Ai Biết Ca Dao Tục Ngữ Về Bà Rịa Không?

Vũng Tàu núi lớn, vũng sâu Khoan xuống một cái là dầu trào lên.

– Đường về đất đỏ miền Đông Cao su bao lá hận lòng bấy nhiêu. – Trần gian địa ngục là đây Đồn điền Đất Đỏ nơi Tây giết người.

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Ðiền Anh thương em cho bạc cho tiền Ðừng cho lúa gạo, xóm giềng họ hay

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No Anh có thương em, xin sắm một con đò Ðể em qua lại mua cò gởi thơ

Con cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non Nàng về nuôi cái cùng con Ðể anh đi trẩy nước non Cao Bằng

Học trò xứ Quảng ra thi Thấy cô gái Huế chân đi không đành

Ðèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ Ðèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ nhu Chín trăng em cũng đợi mười thu em cũng chờ

Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô thị có chùa Tam Thanh Ai lên xứ Lạng cùng anh (Lạng Sơn) Bõ công bác mẹ sinh thành ra em Tay cầm bầu rượu nắm nem Mảng vui quên hết lời em dặn dò

Ðèn nào sáng bằng đèn Sa Ðéc Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần Thương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run

Ðồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm Muốn ăn bôn súng mắm kho Thì vô Ðồng Tháp ăn no đã thèm

Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương

Gió đưa tàu chuối la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân

Gái Tầm Vu đồng xu ba đứa Con trai Thủ Thừa cỡi ngựa xuống mua

Gái Thới Bình lòng ngay dạ thẳng Trai bạc tình một cẳng về quê

Gò Công giáp biển, nổi tiếng mắm tôm chà Mắm tôm chua ai ai cũng chắt lưỡi hít hà Saigon, chợ Mỹ ai mà không hay

Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáy Dòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàng Ai về Mỹ Thuận, Tiền Giang Có thương nhớ gã đánh đàn năm xưa ?

Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày Mậu Thìn vốn thiệt năm nay Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang Phong Thạnh vốn thiệt tên làng Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung Anh em Mười Chức công khùng Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan…

Nhà Bè nước chảy chia hai Ai về Gia Ðịnh, Ðồng Nai thì về

Phượng hoàng đậu nhánh vông nem Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi Ngã tư Chợ Gạo nước hồi Tui chồng mình vợ còn chờ đợi ai

Trầu Bà Ðiểm xé ra nửa lá Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi Buồn tình gá nghĩa mà chơi Hay là anh quyết ở đời với em?

Gió nào độc bằng gió Gò Công Sông nào nông bằng sông Châu Đốc

Nhị Hà quanh Bắc sang Đông Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này !

Ngó lên trời mây bay vần vũ, Ngó xuống âm phủ đủ mặt bá quan, Ngó lên Nam Vang thấy cây trăm thước, Nhìn sông Trước thấy sóng bủa lao xao, Anh thương em ruột thắt gan bào, Biết em có thương lại chút nào hay không?

Dưa La, cà Láng, nem Bảng, tương Bần, nước nắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét

Nem Thủ Đức, bưởi Biên Hòa

Ai vô Quảng Nam cho tôi gửi mua đôi ba lượng quế Ai ra ngoài Nghệ cho tôi gởi mua tám chín lượng sâm Đem về nuôi dưỡng phụ thân Hai ta đền đáp công ơn sinh thành.

Anh về Bình Định ở lâu Chiều chiều em đứng vườn dâu ngó chừng Hai hàng nước mắt rưng rưng Chàng xa thiếp cách, ngang chừng muốn băng Phụ mẫu nhà la dức rầm rầm Cơm sao ngơ ngáo, làm không muốn làm Bởi vì chưng thiếp bắc chàng nam Giơ tay không nổi, còn làm việc chi Ra đi anh nhớ Nghệ An, Nhớ Thanh Chương ngon nhút, nhớ Nam đàn thơm tương.

“Yến sào Vinh Sơn Cửu khổng cửa Ròn Nam sâm Bố Trạch Cua gạch Quảng Khê Sò nghêu quán Hàn… Rượu dâu Thuận Lý…”

Ước gì anh lấy được nàng, Để anh mua gạch Bát Tràng về xây. Xây dọc rồi lại xây ngang, Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân. Đừng thủy thì tiện thuyền bè Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang

Ca Dao Tục Ngữ Về Rồng

Details Category: Kỹ năng mềm Published on Monday, 12 February 2018 02:12 Written by cudinhlang Hits: 5233

Rồng trong thành ngữ và tục ngữ Việt NamRồng lúc to lúc nhỏLớn thì đào sơn đảo hải – nhỏ ẩn tích tàn hình

Đa mưu túc trí muôn đời thịnh Hữu dũng vô mưu vạn đời suy Ghen ăn tức ở muôn đời nát Khiêm tốn nhường nhịn vạn kiếp sang.

Là con vật huyện thoại nhưng phổ biến, vừa cao quý, độc đáo, diệu kỳ lại vừa thân quen, gần gũi và giàu ý nghĩa biểu tượng, rồng (long) được lấy làm hình ảnh ẩn dụ sinh động cho nhiều câu thành ngữ, tục ngữ rộng rãi mà thâm thúy của người Việt Nam.* Ăn như rồng cuốn: Ăn nhanh, ăn đến đâu hết đấy.* Ăn như rồng cuốn, làm như cà cuống lội nước/uống như rồng leo, làm như mèo mửa: 1. Ăn nhiều, ăn tham mà làm ít, cẩu thả; 2. Ăn thật làm chơi.* Cá [chép] hóa rồng: 1. Học trò đi thi được đỗ đạt vinh hiển; 2. Người được thỏa chí, toại nguyện, thành đạt.* Cá gặp nước, rồng gặp mây: 1. Gặp môi trường thuận lợi, tương hợp, may mắn; 2. Cảnh sum vầy, hội ngộ.* Chạm rồng trổ phượng: 1. Trang trí lộng lẫy, tinh xảo, cầu kỳ; 2. Sự tô điểm rối rắm, rườm rà.* Con Rồng cháu Tiên: Dòng dõi đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.* Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng, chiếu hoa nệm gấm không chồng cũng hư: Một quan niệm đề cao hạnh phúc gia đình.* Dựa mạn thuyền rồng: Được vua chọn làm cung phi, làm vợ hoặc lấy được người giàu sang.* Đầu rồng đuôi tôm/rắn: 1. Việc khi đầu thì hưng thịnh, sau thì suy yếu; 2. Chuyện lúc khởi đầu có vẻ to tát, đẹp đẽ nhưng kết thúc lại chẳng ra gì; 3. Sự cọc cạch, không tương xứng giữa những bộ phận có phẩm chất quá khác biệt trong cùng một chỉnh thể.* Đẹp duyên cưỡi rồng: Lấy được người chồng lý tưởng.* Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay chết ngõng: Một quan niệm xưa, đề cao vai trò của người đàn ông, khẳng định phụ nữ cần thiết phải lập gia đình.

* Họa long điểm tinh (Vẽ rồng điểm mắt): Hành động đúng hướng, nắm bắt được trọng tâm của sự vật, sự việc.* Học chẳng biết chữ cu chữ cò, nói những chữ như rồng như rắn: Nói phét, nói suông, dốt hay nói chữ.* Hội long vân (Hội rồng mây): Cuộc gặp gỡ tốt lành, thời cơ thuận lợi.* Long bàn hổ cứ (Rồng cuộn hổ ngồi): Thế đất hiểm yếu, linh thiêng.* Long ly quy phụng (Rồng lân rùa phượng): Bốn con vật quý và thiêng theo quan niệm tín ngưỡng.* Lưỡng long chầu nguyệt: 1. Hình hai con rồng chầu chụm vào một mặt trăng thường thấy ở nơi thờ tự; 2. Một người tài giỏi lại có được hai người hỗ trợ, phò tá nhiệt tình, tương xứng và trung thành.* Mả táng hàm rồng: Gặp may mắn, tự nhiên ngày càng phát đạt thịnh vượng, [tưởng như] do mồ mả tổ tiên được chôn vào chỗ đất đẹp.* May hóa long, không may xong máu: Gặp may thì vinh hoa phú quý, không may thì chết.* Mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền rồng: Bản chất đã xấu thì khó thể trở thành người tốt, kẻ thuộc tầng lớp dưới khó thể lên địa vị cao.* Nem rồng chả phượng: Món ăn ngon, cầu kỳ và sang trọng.* Như rồng gặp mây: Gặp người, gặp hoàn cảnh tương hợp, thỏa lòng mong mỏi khát khao.* Nói như rồng cuốn: Nói những lời hay ý đẹp nhưng nói suông, chẳng bao giờ thực hiện điều gì mình đã nói, đã hứa.* Nói như rồng leo: Nói năng khôn khéo, mạch bạo.* Rồng bay phượng múa: Hình dáng, đường nét tươi đẹp, uyển chuyển, phóng khoáng.* Rồng đen lấy nước thì nắng, rồng trắng lấy nước thì mưa: Một cách dự báo và lý giải trạng thái thời tiết qua hiện tượng thiên nhiên – mây (rồng lấy nước ở đây tức là đám mây hình cột từ phía biển vươn lên trời).* Rồng đến nhà tôm: Người cao sang đến thăm kẻ thấp hèn (thường thấy trong lời ngoại giao, nói nhún của chủ nhà với khách).* Rồng lội ao tù: Người anh hùng sa cơ thất thế, bị kìm hãm, tù túng, không có điều kiện thi thố tài năng.* Rồng mây gặp hội: Cơ hội may mắn cho sự gặp gỡ và hòa nhập.* Rồng nằm bể cạn phơi râu: Trạng thái thờ ơ vì bất lực của người vốn tài giỏi nhưng bị đặt trong môi trường khó hoạt động, khó phát triển được.* Rồng thiêng uốn khúc: Người anh hùng, tài giỏi nhưng gặp vận xấu, phải sống nép mình, ẩn dật chờ thời cơ.

* Rồng tranh hổ chọi: Hai đối thủ hùng mạnh giao đấu.* Rồng vàng tắm nước ao tù: Người tài giỏi ở trong hoàn cảnh bó buộc, bất lợi hoặc phải chấp nhận chung sống với kẻ kém cỏi.* Thêu rồng vẽ phượng: Bày vẽ, làm đẹp thêm.* Trai ơn vua – cưỡi thuyền rồng, gái ơn chồng – bồng con thơ: Một quan niệm xưa, cho rằng nghĩa vụ chính của người đàn ông là phụng sự nhà cầm quyền, còn của người đàn bà là chăm lo gia đình và con cái.* Trứng rồng lại nở ra rồng, liu điu lại nở ra dòng liu điu: Tính tất yếu của sự bảo toàn, di truyền những giá trị và bản chất nòi giống.* Vẽ rồng nên/ra giun: Có mục đích hay, tham vọng lớn nhưng do bất tài nên chỉ tạo ra sản phẩm xấu, dở.* Vẽ rồng vẽ rắn: Bày vẽ lôi thôi, luộm thuộm, rườm rà.

Ca Dao,Tục Ngữ Về Quảng Nam

CA DAO VẦ QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG

1- Ðất Quảng nam chưa mưa đã thấm Rượu Hồng Ðào chưa nhấm đã say Bạn về đừng ngủ gác tay Nơi mô nghĩa nặng, ân đầy thì theo 2- Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay lo Bình Ðịnh nằm co, Thừa Thiên ăn hết… 3- Học trò trong Quảng ra thi Thấy cô gái Huế chân đi không đành. 4- Ai đi phố Hội, Chùa Cầu Ðể thương , để nhớ, để sầu cho ai, Ðể sầu cho khách vãng lai, Ðể thương để nhớ cho ai chịu sầu 5- Thương nhau chớ quá e dè, Hẹn nhau gặp lại bến Cầu Rô Be. Thiếp nói thì chàng phải nghe Thức khuya, dậy sớm, làm chè10 ngày 12 xu Mãn mùa chè, nệm cuốn sàn treo Ta về, bỏ bạn, cheo leo một mình, Bạn ơi, bạn chớ phiền tình, Mùa ni không gặp, xin hẹn cùng mùa sau Lạy trời, mưa xuống cho mau Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp chàng 6- Rằng xa: cửa ngõ cũng xa Rằng gần: Vĩnh Ðiện, La Qua cũng gần 7- Chiều chiều mây phủ ải vân Chim kêu gành đá, gẫm thân lại buồn 8- Chiều chiều mây phủ Sơn Trà Lòng ta thương bạn, nước mắt và trộn cơm 9- Ðứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông Thấy nước xanh như tàu lá, Ðứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn Thấy phố xá nghinh ngang Kể từ ngày Tây lại đất Hàn, Ðào sông Cù Nhĩ, tìm vàng Bồng Miêu. Dặn tấm lòng, ai dỗ cũng đừng xiêu, Ở nuôi thầy mẹ, sớm chiều cũng có anh 10- Ngó lên Hòn Kẻm, Ðá Dừng Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi 11- Ai đi cách trở sơn khê Nhớ tô mì Quảng, tình quê mặn mồng 12- Hội An đất hẹp, người đông Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu 13- Hội An bán gấm, bán điều Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành -14 Chiêm Sơn là lụa mỹ miều Sớm mai mắc cưởi, chiều chiều bán tơ 15- Chồng em là lái buôn tiêu Ði lên đi xuống Trà Nhiêu, Kim Bồng -16 Tơ cau thuốc lá đầy ghe Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần. 17- Nem chả Hòa Vang Bánh tổ Hội An Khoai lang Tiên Ðỏa Thơm rượu Tam Kỳ Ai đi cách trở sơn khê, Nhớ tô mì Quảng,tình quê mặn nồng . Mì Quảng là món ăn chủ lực, bình dân của đất Quảng,nên đi đâu ở đâu , mà dân Quảng ăn được tô mì Quảng thì khoái khẩu, mặn mà nhất. 18.- Hội An đất hẹp, người đông , Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu . Phố Hội an nhỏ hẹp ,nhưng ai đã ở Hội An một thời gian rồi ,khi rời Hội an không làm sao quên được tình cảm nồng hậu của cư dân ở đây. 19.- Hội An bán gấm, bán điêù Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành . Hội An, là thương cảng nên buôn bán hàng hoá sang đẹp , còn Kim Bồng,Trà Nhiêu là vùng ngoaị ô , chuyên sản xuất rau cải đem qua bán ở Hội An. 20.- Ðưa tay hốt nhắm dăm bào, Hỏi thăm chú thợ bữa nào hồi công, Không mai thì mốt, hồi công, Hội An em ở, Kim Bồng anh dời chân Kim Bồng là một xã bên kia sông, đôí diện với Hội.An,sản xuất nhiều nghệ nhân đồ mộc,hằng ngày qua phố Hôị làm việc, nên những cô gái đến hốt dăm bào về nấu bếp,bèn hát những câu trữ tình để ghẹo chú thợ mộc. 21.- Năm hòn nằm đó không sai, Hòn Khô, Hòn Dài, lố nhố thêm vui, Ngó về Cửa Ðại, than ôi, Hòn Nồm nằm dưới mồ côi một mình. Cù Lao Chàm, nằm ngoài khơi tỉnh,gồm năm hòn đảo, hòn Nồm là đảo nằm riêng một mình ,không chen vơí các hòn đảo khác . 22.- Sáng trăng, trải chiếu hai hàng, Cho anh đọc sách, cho nàng quay tơ . Quay tơ vẫn giữ mối tơ, Dù năm bảy mối vẫn chờ mối anh . Cảnh sinh hoạt ở thôn quê, dưới ánh trăng, chàng đọc sách, nàng quay tơ, chàng nhắn với nàng giữ tình chung thủy chờ chàng. 23.- Ai về nhắn với ngọn nguồn, Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên. Người miền biển có cá chuồn làm mắm , nguời miền núi có mít non gởi xuống để trao đổi lương thực

Ca Dao Tục Ngữ Về Con Cò

Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao Ông ơi ông vớt tôi nao Tối có lòng nào ông hãy xáo măng Có xáo thì xáo nước trong Đừng xáo nước đục đau lòng cò con!

Cái cò đi đón cơn mưa Tối tăm mù mịt ai đưa, cò về? Cò về đến gốc cây đề, Giương cung anh bắn cò về làm chỉ Cò về thăm bác thăm dì, Thăm cô xứ Bắc thăm dì xứ Đông.

Con cò lấp lé bụi tre Sao cò lại muốn lăm le vợ người Vào đây ta hát đôi lời Để cho cò hiểu sự đời , ở ăn Sự đời cò lấy làm răn Để cho cò khỏi băn khoăn sự đời.

Cái cò bay lả bay la Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng.

Cái cò bay bổng bay lơ Lại đây anh gởi xôi ngô cho nàng. Đem về nàng nấu nàng rang, Nàng ăn có dẻo thì nàng lấy anh.

Cái cò cái vạc cái nông Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò, Không, không! Tôi đứng trên bờ Mẹ con nhà vạc đổ ngờ cho tôi Chẳng tin ông đứng ông coi Mẹ con nhà nó còn ngồi đấy kia!

Cái cò cái vạc cái nông Ba con cùng béo, vặt lông con nào Vặt lông con vạc cho tao Mắm muối bỏ vào, xào rán rồi thuôn!

Cái cò cái vạc cái nông Cùng ăn một đồng nói chuyện giăng ca Muối kia đổ ruột con gà Mẹ mình chẳng xót bằng ta xót mình.

Cái cò chết tối hôm qua Có hai hạt gạo với ba đồng tiền Một đồng mua trống mua kèn Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong Một đồng mua mớ rau răm Đem về thái nhỏ thờ vong con cò.

Cái cò lặn lội bờ ao Phất phơ đôi dải yếm đào gió bay Em về giục mẹ cùng thầy, Cắm sào đợi nước biết ngày nào trong? Cổ yếm em thõng thòng thòng, Tay em đeo vòng như bắp chuối non. Em khoe em đẹp em giòn, Anh trông nhan sắc em còn kém xuân.

Cái cò lặn lội bờ ao Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng? Chú tôi hay tửu hay tăm, Hay ngồi một xó, hay ăn thịt gà Ai ra ruộng chú ở nhà Nói thì dở giọng ba hao chích chòe!

Cái cò lặn lội bờ ao Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng? Chú tôi hay tửu hay tăm, Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa Ngày thì ước những ngày mưa! Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.

Cái cò lặn lội bờ sông, Muốn lấy vợ đẹp, nhưng không có tiền!

Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non Chàng đi xa vợ xa con Chàng đi đến tận nước non Cao Bằng Chân đi nhưng dạ dùng dằng Nửa nhớ Cao Bằng, nửa nhớ vợ con! Nàng về nuôi cái cùng con Để anh đi trẩy nước non cùng người

Cái cò lặn lội bờ sông Cổ dài mỏ cứng cánh cong lưng gù Bã xa sông rộng sóng to Vì lo cái bụng đi mò cái ăn.

Cái cò là cái cò con Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà Mẹ đi lặn lội đồng xa Mẹ sà chân xuống, phải mà con lươn Ông kia có cái thuyền buồm Chở vào rừng rậm xem lươn bắt cò Ông kia chống gậy lò dò Con lươn thụt xuống, con cò bay lên.

Cái cò là cái cò kỳ Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô Đêm nằm thì ngáy o o Chưa đi đến chợ đã lo ăn quà Hàng bánh hàng bún bầy ra Củ từ khoai sọ, đến bà cháo kê Ăn rồi cắp đít ra về Thấy hàng chả chó, lại lê chân vào Chả này bà bán ra sao Ba đồng một gắp, thì nào tôi mua! Nói dối rằng mua cho chồng Về đến quãng đồng, ngả nón ra ăn Ăn rồi đau quặn đau quăn Chạy về cho kịp, nằm lăn cả ngày Đem tiền đi bói ông thầy Bói ra quẻ này: những chả cùng nem Ông thầy nói dối đã quen Nào ai ăn chả ăn nem bao giờ!

Cái cò là cái cò quăm Mày hay đánh vợ mày nằm với ai? Có đánh thì đánh sớm mai, Chớ đánh chập tối chẳng ai cho nằm!

Cái cò là cái cò vàng Mẹ đi bán hàng, nhà lại vắng cha Vắng cha thì ở với bà Không ở với chú, chú là đàn ông.

Cái cò là cái cò vàng Mẹ đi đắp đàng con ở với ai Con ở với bà, bà không có vú Không ở với chú, chú là đàn ông. Thôi con chết quách cho xong!

Con cò là con cò vàng Muốn đi hát đúm sợ làng cười chê Ai cười lời kẻ thôn quê Mà cò ngần ngại đứng lề đường quan Hay cò vui câu xẩm xoan Thì cò bay đến hân hoan cùng người.

Cái cò mà mổ cái tôm Cái tôm quắp lại mà ôm cái cò.

Cái cò mà mổ cái trai, Cái trai quắp lại mà nhai cái cò.

Cái cò trắng bạch như vôi Cô kia có lấy chú tôi thì về. Chú tôi chẳng mắng chẳng chê, Thím tôi thì mổ lấy mề nấu canh!

Con cò trắng bệch như vôi Đừng nông nổi nữa, đừng lời nguyệt hoa Ví dù muốn đẹp đôi ta Đừng như cánh bướm quanh hoa đầu mùa Đừng vê thuốc, đừng bỏ bùa Đừng như chú tiểu ở chùa Thiều Quang Đừng thắm nhạt, đừng đa đoan Nên duyên thì phượng với loan một lời Giăng kia vằng vặc giữa giời Giăng ai soi tỏ lòng người nầy cho.

Con cò trắng tợ như vôi Tình tôi với bậu xứng đôi quá chừng!

Con cò trắng toát như bông Muốn nghe hát đúm mà không chịu vào Nghĩ gì, cò đậu cành cao Nghiêng nghiêng, nghé nghé nửa chào nửa e Xuống đây cho ta nhắn nhe Đừng đứng trên ấy gãy tre của làng.

Cái trai mày há miệng ra, Cái cò nó mổ muốn tha thịt mày. Cái cò mày mổ cái trai, Cái trai quặp lại muốn nhai thịt cò.

Con cò mà mổ con trai U ơi, U lấy vợ hai cho thầy.

Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015