Danh Ngôn Phật Dạy / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Dtdecopark.edu.vn

Danh Ngôn Lời Phật Dạy

Bát Phong

1. Lợi: Khi gặp hoàn cảnh thuận lợi, tốt đẹp như có người tạo điều kiện, giúp đở phương tiện vật chất hay tinh thần, tâm không khởi niệm yêu thích hay không khởi tâm ngã mạn cho rằng mình tu hành cao mà được như vậy…

2. Suy: Khi gặp cảnh bất như ý, hoàn cảnh sa sút, mất mát người thân, không khởi tâm buồn khổ, sầu bi, chán nãn.

3. Vui: Tâm thản nhiên trước những thú vui, dục lạc của thế gian.

4. Khổ: Tâm an nhiên khi bị những khổ nạn như bị người khác đàn áp, ức hiếp, hay chèn ép v.v. Tâm không khởi niệm sân hận hay mong muốn trả thù.

5. Vinh: Tâm không bị mê hoặc bởi những lời tán thán, ca ngợi, đề cao

6. Nhục: Tâm hành giả không bị chao đão trước những lời hạ nhục, hũy báng danh dự, nhân phẩm, đạo đức, uy tín.

7. Khen: Tâm không dính mắc trước những lời xưng tụng, tán thán, khen ngợi của người khác

8. Chê: Tâm không bị lay động bởi những lời chê bai, bài bác, chỉ trích, nói xấu của người khác.

Bảy Hạng Người Ví Dụ Như Nước

1. Thế nào là hạng người nằm mãi?

Hoặc có những người bị pháp bất thiện che lấp, bị nhiễm bởi nhiễm ô, thọ quả báo của ác pháp, tạo gốc rễ sanh tử. Đó là hạng người nằm mãi dưới nước. Cũng như người chìm lỉm, nằm luôn dưới nước, Ta nói người kia cũng giống như vậy. Đó là hạng người thứ nhất của ví dụ về nước, thế gian quả thực có hạng người như vậy.

2. Thế nào là hạng người ra khỏi nước rồi chìm lại?

Đó là người đã làm trỗi lên tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người ấy sau đó lại mất tín tâm, không kiên cố, mất sự trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, không kiên cố. Đó là hạng người ra rồi chìm lại. Như người chìm trong nước, đã ra được rồi lại chìm. Ta nói người kia cũng lại như vậy. Đó là hạng người thứ hai của thí dụ về nước. Thế gian quả thực có hạng người như vậy.

3. Thế nào là hạng người ra rồi đứng?

Đó là người đã trỗi tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm vẫn kiên cố, chắc chắn không mất, trì giới, bố thí đa văn, trí tuệ đều kiên cố, không mất. Đó là hạng người ra khỏi nước rồi đứng. Như người chìm trong nước, ra khỏi nước rồi đứng. Ta nói người kia cũng lại như vậy. Đó là hạng người thứ ba của thí dụ về nước. Thế gian quả thực có hạng người như vậy.

4. Thế nào là hạng người ra rồi đứng; đứng rồi nhìn quanh?

Đó là người làm trỗi dậy tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm kiên cố vẫn không mất, trì giới, bố thí đa văn, trí tuệ vẫn kiên cố không mất; trụ trong thiện pháp; biết như thật về Khổ, biết như thật về Khổ tập, Khổ diệt và Khổ diệt đạo. Người kia biết như vậy, thấy như vậy, ba kiết liền dứt sạch, đó là thân kiến, giới thủ và nghi. Ba kiết đã dứt sạch liền chứng Tu-đà-hoàn, không đọa ác pháp, quyết định thẳng đến chánh giác, đời sau thọ sanh tối đa bảy lần, qua lại bảy lần trong nhân gian, thiên thượng; rồi chứng đắc biên tế của sự khổ. Đó là hạng người ra rồi lại đứng, đứng rồi nhìn quanh. Ta nói người kia cũng lại như vậy. Đó là hạng người thứ tư của thí dụ về nước. Thế gian quả thực có hạng người như vậy.

5. Thế nào là người ra rồi đứng; đứng rồi nhìn quanh; nhìn quanh rồi lội qua?

Đó là người trỗi được tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm vẫn chắc chắn không mất, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ đều đã kiên cố không mất, trú trong thiện pháp. Biết như thật về Khổ, về Khổ tập, về Khổ diệt, về Khổ diệt đạo. Biết như vậy, thấy như vậy, ba kiết liền dứt sạch. Đó là, thân kiến, giới thủ, nghi; ba kiết đã dứt sạch. Dâm, nộ, vơi mỏng. Còn phải một lần vãng lai trong nhân gian, thiên thượng. Sau khi qua lại một lần đó rồi liền chứng đắc Khổ đế. Đó là người ra rồi đứng, đứng rồi nhìn quanh, nhìn rồi lội qua. Như người chìm trong nước, ra rồi đứng, đứng rồi nhìn quanh, nhìn rồi đi qua; Ta nói người kia cũng lại như vậy. Đó là hạng người thứ năm của ví dụ về nước. Thế gian quả thực có hạng người như vậy.

6. Thế nào là người ra rồi đứng, đứng rồi nhìn quanh, nhìn quanh rồi lội qua, qua rồi đến bờ bên kia?

Đó là người đã làm trỗi dậy được tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm vẫn chắc chắn, không mất. Trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ đều vẫn kiên cố, không mất, trụ trong thiện pháp. Biết như thế, thấy như thế, năm hạ phần kiết dứt sạch. Đó là tham dục, sân nhuế, thân kiến, giới thủ, nghi. Năm hạ phần kiết dứt sạch rồi, sanh vào cõi ấy, rồi nhập Niết-bàn, chứng pháp bất thối, không trở lại thế gian này nữa. Đó là người ra rồi đứng; đứng rồi nhìn quanh; nhìn rồi lội qua; lội qua rồi đến bờ bên kia. Như người chìm trong nước ra rồi đứng, đứng rồi nhìn quanh, nhìn quanh rồi đi qua, đi qua rồi đến bờ bên kia; Ta nói người kia cũng lại như vậy. Đó là hạng người thứ sáu của ví dụ về nước. Thế gian quả thực có hạng người như vậy.

7. Thế nào là người ra rồi đứng, đứng rồi nhìn quanh, nhìn quanh rồi lội qua, qua rồi đến bờ bên kia Đến bờ bên kia rồi được gọi là người Phạm chí đứng trên bờ?

Đó là người đã làm trỗi dậy được tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm vẫn chắc chắn không mất, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp, biết như thật về Khổ, về Khổ tập, về Khổ diệt, về Khổ diệt đạo. Biết như vậy, thấy như vậy. Tâm giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Giải thoát rồi liền biết mình đã giải thoát và biết một cách như thật rằng: Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa. Đó là người ra khỏi nước rồi đứng, đứng rồi nhìn quanh, nhìn rồi đi qua, qua rồi đến bờ bên kia, đến bờ bên kia rồi được gọi là vị Phạm chí đứng trên bờ. Như người chìm trong nước, ra rồi đứng lên, đứng rồi nhìn quanh, nhìn rồi đi qua, qua rồi đến bờ bên kia, đến bờ bên kia rồi gọi là người đứng trên bờ; Ta nói người kia cũng lại như vậy. Đó là hạng người thứ bảy của thí dụ về nước. Thế gian quả thực có hạng người như vậy.

Danh Ngôn Lời Vàng Phật Dạy Làm Chủ Bản Thân

1-Chúng ta hãy nói những lời chân thật để mọi người đừng hiểu lầm mà làm khổ đau cho nhau.

2-Chúng ta hãy nói những lời hoà thuận để mọi người đừng hận thù nhau mà cùng hợp tác với nhau với tinh thần tốt đạo đẹp đời.

3-Chúng ta hãy nói những lời cởi mở để mọi người có thể cảm thông và tha thứ nhau.

4-Chúng ta hãy nói những lời hàn gắn và xây dựng để mọi người xích lại gần nhau mà làm việc nghĩa.

5-Chúng ta hãy nói những lời an ủi và sẻ chia để mọi người vui sống bên nhau mà vượt qua phiền muộn khổ đau.

6-Chúng ta hãy nói những lời thương yêu bằng trái tim hiểu biết, để cuộc đời vơi bớt nỗi đau bất hạnh.

7-Chúng ta hãy nói những lời trong sáng với tấm lòng vị tha để ta và người cùng biết ơn và đền ơn mà sống tốt hơn.

8-Cửa Phật luôn rộng mở đón khách mười phương, rước phúc lộc cả nhà cùng an vui hạnh phúc.

9-Xuân thiền tỏa hương thơm ngát khắp nhân gian, rèn đạo đức tin nhân quả chuyển hóa si mê.

Không nên ỷ lại dù là Phật hay Bồ-tát

Trong sự tái sinh luân hồi, nhân quả tốt xấu, đúng sai, ân oán trong hiện tại sẽ tiếp tục đến đời sau, nên khi gặp duyên phù hợp nó liền tác động mạnh mẽ, khiến ta phải chấp nhận mà không biết nguyên nhân! Nhiều người không hiểu nên tin có đấng thần linh thượng đế, đủ quyền năng ban phước giáng họa?

Như có một ông lái đò đang chở khách qua sông, bỗng nhiên gặp sóng to gió lớn. Nhiều người quá lo sợ, nên cố gắng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm để nhờ Ngài cứu cho tai qua nạn khỏi.

Ông chèo đò liền nói, tất cả quý vị hãy bình tĩnh ai ngồi chỗ nào, ngồi yên chỗ đó, rồi ông ta nói tiếp: “Đò khẳm mà chở thêm nhiều Phật và Bồ-tát quá, coi chừng đò chìm bà con ơi!”.

Đây là một câu chuyện ngụ ngôn có ẩn ý sâu sắc, nhằm phản ánh tâm lý yếu đuối, sợ hãi ỷ lại vào Phật và Bồ-tát của tất cả mọi người trên đò, khi bình thường thì không lo niệm Phật, Bồ-tát đến khi gặp nạn mới cầu cứu van xin.

Tâm lý đó luôn phổ biến khắp mọi nơi, lúc bình thường không ai nghĩ tới việc tu hành, đến khi có chuyện không may xảy ra, chúng ta vào chùa lễ lạy cầu khẩn van xin chư Phật, Bồ-tát giúp cho. Nếu được tai qua nạn khỏi thì vui vẻ hả hê cho rằng chư Phật, Bồ-tát linh ứng, còn không được thì phiền muộn khổ đau, oán trách trời đất, không dang tay cứu giúp mình.

Những người yếu đuối, thường có tâm lý ỷ lại hay thần thánh hóa chư Phật, Bồ-tát rồi sùng bái như những bậc siêu nhiên, quyền uy tối thượng, có khả năng ban phước giáng họa cho con người. Nên họ lúc nào cũng trông chờ mong các Ngài ra tay cứu giúp, mà họ không biết rằng chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc.

Nếu nói theo đúng nghĩa của nó, đạo Phật không phải là một tôn giáo mà là một phương pháp chuyển hóa, nhằm giúp mọi người phá tan si mê tối tăm, mờ mịt đang che lấp tâm Phật thanh tịnh sáng suốt của mình.

Trên thực tế cuộc đời, cách nay trên 2600 năm ở Ấn Độ có một con người như tất cả mọi người chúng ta, do quyết tâm tu hành buông xả mọi tham muốn chấp trước mà thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Các vị đệ tử của Phật cũng là con người, nương theo lời Phật dạy mà tu chứng nên gọi là Thánh Tăng, Thanh-văn Tăng, A-La-hán, Bích-chi-Phật cho đến chư vị Tổ sư về sau này đứng đầu các tông phái hay dòng truyền thừa là những nhân vật có thật trong lịch sử.

Còn các vị Phật khác cùng chư vị Bồ-tát, được Phật Thích Ca Mâu Ni nói trong các bản Kinh, không phải là những nhân vật lịch sử mà chúng ta có thể hiểu đó là hình tượng biểu trưng cho chơn tâm, Phật tính sáng suốt của con người hoặc tinh thần dấn thân đóng góp lợi ích cho cuộc đời.

Giả sử chiếc đò trong mẩu chuyện trên bị chìm, nhiều người ra cứu vớt hành khách thì những người đó ta gọi là người có lòng từ bi, là hiện thân của Bồ-tát Quán Thế Âm nên sẵn sàng ra tay cứu giúp quên cả thân mạng của mình.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ cho chúng ta cách thức tu hành nhằm chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành vô lượng trí tuệ, để thoát khỏi vòng luân hồi sống chết. Tu được hay không là do ta quyết định, ta tu tốt thì giảm bớt tham, sân, mê muội nếu không chịu tu khi quả xấu đến, lúc này dù có Phật, Bồ-tát hiện tiền cũng không cứu được ta, vì ai tu nấy chứng.

Phật là người chỉ đường còn đi hay không là do ta, ai làm nấy chịu, ai tu nấy chứng trong cuộc luân hồi sinh tử này. Phật không thể ban phước giáng họa cho chúng ta, vì phước hay họa là do mình tạo ra thì chính mình phải chịu nhận lấy, khi hội đủ nhân duyên.

Một số người không hiểu nên thần thánh hóa mọi vấn đề, chỉ sùng bái cầu khẩn van xin chư Phật, Bồ-tát một cách thái quá, nên ngày càng đánh mất chính mình mà rơi vào mê tín dị đoan. Khi nghe lời Phật dạy chúng ta phải suy tư, quán xét rồi áp dụng tu hành, con người ta thường hay ỷ lại, nương nhờ kẻ khác mà tự đánh mất chính mình.

Trước những cám dỗ vật chất, con người tham muốn quá đáng nên lúc nào cũng đòi hỏi phải thỏa mãn dục vọng. Chính những tham muốn đó trói buộc ta, khiến mình căng thẳng, mệt mỏi, bất an, thậm chí dẫn đến tuyệt vọng.

Thế gian này luôn nằm trong vòng lẩn quẩn của đối đãi, nếu chúng ta không thể chấp nhận cuộc sống có những cái xấu, tốt luôn chi phối chúng ta hằng ngày. Người giàu có cái khổ của người giàu, người nghèo cũng có cái khổ của kẻ nghèo. Chúng ta hãy xem xét, suy tư, phân tích mọi vấn đề, nhìn thẳng vào những phiền muộn đang ẩn náu sâu thẳm trong tâm tư mình.

Với đời sống vật chất của những người khá giả, phần nhiều không khổ vì nghèo đói mà khổ vì… tham, sân, si lừng lẫy. Chính vì vậy nếu chúng ta không có vốn liếng, tư lương về mặt tinh thần, tâm linh để làm điểm tựa, để quay về chính mình, thì ta sẽ dễ dàng bị những cám dỗ vật chất cuốn trôi.

Làm người ai cũng có ham muốn, nhưng chúng ta phải biết nhu cầu nào cần thiết với hoàn cảnh sống thực tiễn của mình. Nếu ta tham muốn mà nằm ngoài khả năng của mình thì coi chừng tổn thất nặng nề. Chúng ta phải biết tiết chế giảm bớt ham muốn của mình là muốn ít biết đủ, nhờ vậy ta ít lo sợ, sống an ổn nhẹ nhàng mà không rơi vào thất vọng khổ đau.

Đạo Phật nhìn mọi hiện tượng sự vật không có một thực thể riêng biệt, mà do nhân duyên hòa hợp, đủ duyên thì hình thành, hết duyên thì tan rã. Vạn vật do duyên hợp tạo thành nên sự hiện hữu rất mong manh, có đó rồi mất đó…Con người vẫn mong muốn có một đời sống an lạc, hạnh phúc mà không chịu gieo trồng phước đức, thành ra phải chịu khổ đau chi phối. Thường thì chúng ta khổ, là do mong muốn cái gì cũng bền chắc và lâu dài.

Chúng ta mong muốn được hạnh phúc lâu dài trong tình yêu, rồi danh vọng, tiền tài, sự nghiệp…sẽ đến với ta mãi mãi nên khi có sự đổi thay, mất mát chúng ta cảm thấy tiếc nuối và đau khổ.

Con người trong xã hội cũng vậy, do sự huân tập khác nhau nên có hình tướng, tâm tính bất đồng nhưng trong mỗi người đều có “tính biết sáng suốt”, vì máu của ai cũng đỏ, nước mắt của ai cũng có vị mặn, ai cũng mong muốn hạnh phúc và sợ khổ đau.

Nếu dựa vào cuộc sống vật chất thì không ai bằng lòng với hiện tại, còn dựa vào đời sống tâm linh thì chúng ta sẽ bằng lòng với những gì mình đang có. Tuy nhiên, sự bằng lòng đó không có nghĩa tiêu cực, không làm gì hết mà chúng ta vẫn tích cực để tăng trưởng an sinh đời sống, nhưng biết cách làm chủ bản thân.

Cho nên ai chờ đến lúc hấp hối rồi mới niệm Phật, cầu xin Đức Phật A Di Đà đến tiếp độ về cõi cực lạc thì đó là một quan niệm rất sai lầm. Đừng đợi đến khi khát nước mới đào giếng. Nếu trong đời sống hiện tại này lòng ta đầy dẫy tham lam, sân hận mà mong mỏi khi chết Phật A Di Đà sẽ đến rước, sẽ rờ đầu thọ ký, điều này không thể có được. Chúng ta cũng đừng nên chờ việc làm ăn tốt đẹp, có đầy đủ tiền bạc nhà cửa rồi lúc đó mới chịu tu, thì khó mà thực hiện được hoài bão của mình.

Chúng ta tu để làm gì? Để được giảm bớt phiền muộn khổ đau và cuối cùng là giác ngộ giải thoát hoàn toàn những ý nghĩ, lời nói và hành động làm tổn hại người khác. Khi chúng ta cởi bỏ được tự ngã độc tôn, sống với tâm không chấp trước, lột bỏ mọi phân biệt thành kiến thì chúng ta sẽ tắm mát trong dòng sông hạnh phúc, mà an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh.

Cũng như những người gặp tai nạn hoặc việc bất trắc trong cuộc đời, thường hay cầu nguyện Bồ tát Quán Thế Âm cứu độ, nhưng tất cả đều được hay người được, người không? Như vậy, Bồ tát thương người này mà ghét bỏ người kia hay sao? Hình như Bồ-tát còn thiên vị nên trọng kẻ này, khinh người kia. Nếu ai nghĩ như thế và nói như vậy là oan cho Bồ-tát quá chừng!

Đa số chúng ta vì không tin sâu nhân quả, không tin chính mình, nên khi gặp tai nạn, gặp khó khăn, chúng ta liền xin Phật, Bồ-tát gia hộ hay cứu độ cho mình mau tai qua nạn khỏi. Ta hay có bệnh ỷ lại và nhờ vã, cầu cạnh vào Phật, Bồ-tát, nên lúc nào cũng cầu xin Phật, Bồ-tát an ủi, sẻ chia, cứu giúp hay nâng đỡ cho mình hết khổ mà được an vui hạnh phúc. Nhưng trên thực tế, việc cầu xin đó có người được, có người không. Là tại sao? Vì nhân duyên đã chín mùi, dù mình không muốn nhưng nó vẫn đến vì nhân quả công bằng mà.

Như vậy mà đa số Phật tử chúng ta phần đông đi chùa cầu xin nhiều hơn là gieo nhân để gặt quả, thậm chí có người vuốt bụi Phật để trét vào đầu và còn nói rằng, làm như vậy Phật sẽ ban ơn, gia hộ cho mà gặp được điều may mắn tốt đẹp.

Bồ-tát Quán Thế Âm là biểu tượng của lòng từ bi, thương yêu bình đẳng, sẵn sàng giúp đỡ sẻ chia những nỗi khổ niềm đau hay đem niềm vui đến với tất cả chúng sinh. Giả sử chiếc đò trong mẩu chuyện ở trên bị chìm, nhiều người ra tay cứu vớt hành khách thì những người đó là hiện thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, là biểu hiện của lòng từ bi sẵn sàng cứu giúp mọi người khi có hoạn nạn. Bồ-tát Phổ Hiền là biểu tượng của hạnh nguyện dấn thân đóng góp, Bồ-tát Văn Thù là biểu trưng người có trí tuệ sáng suốt nên không bị phiền não tham sân si làm nhiễm ô v.v… Chư vị Bồ-tát dấn thân cứu đời không biết mệt mỏi, nhàm chán.

Đức Phật A-Di-Đà là tượng trưng cho vô lượng thọ, vô lượng quang, có nghĩa là chúng ta khi sống được với Phật tính sáng suốt của mình thì không còn luân hồi sinh tử nữa nên gọi là vô lượng thọ. Và có trí tuệ đầy đủ nên không bị các pháp ô nhiễm của thế gian chi phối.

Do một số người thần thánh hóa, sùng bái chư Phật, Bồ-tát thái quá, xem các Ngài như là những vị thần linh ban phước giáng họa, nên nhiều người đã đặt niềm tin một cách sai lệch. Thay vì chúng ta đặt niềm tin vào giáo pháp, vào nhân quả, tự mình làm chủ bản thân, làm chủ vận mệnh theo tinh thần Phật dạy: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”.

Do chúng ta không hiểu đúng lời Phật dạy, nên ta thiếu tự tin, ỷ lại, lơ là, biếng nhác bởi tham lam quá đáng mà đánh mất chính mình. Trong mỗi chúng ta đều có Phật tính sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy, nơi tai thì nghe, mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế.

Ai hay cầu xin là người có tâm ỷ lại và quá yếu đuối vì không tin sâu nhân quả, không tin tưởng chính mình có đủ năng lực làm được những gì mình mong muốn. Người có tâm niệm ỷ lại và nhờ vào tha lực của người khác, khó bao giờ thành công được trọn vẹn trên đường đời vì thiếu ý chí, nghị lực, không tin sâu nhân quả và tự tin chính mình.

Người tu cũng thế, nếu hay cầu xin nhiều thì dễ mất tín tâm vì đâu phải việc gì cũng xin được dễ dàng, nếu xin không được thì nói Phật, Bồ-tát không linh hiển, nên bỏ không tới chùa nữa. Còn người Phật tử chân chính thì phải biết tìm cách chuyển hóa, chừa bỏ, thay đổi những thói quen tật xấu có tính cách hại người, hại vật, chớ không nên một lòng cầu khẩn, van xin.

Hầu như ai cũng có bệnh tham lam dù ít hay nhiều. Phật dạy lấy thuốc để trị bệnh, mà chúng ta chỉ cầm toa thuốc đọc hoài mà không dám mua thuốc uống. Phật dạy chúng ta học hiểu để ứng dụng tu tập, hành trì, chuyển hóa, chớ không phải cầu Phật ban cho, nhưng đa số quí Phật tử cứ xin Phật hoài, tu như vậy biết chừng nào mới chuyển hóa hết phiền não tham, sân, si. Bởi ta tham quá nhiều thứ, nên xin lâu ngày thấy không hiệu nghiệm thì muốn bỏ Phật, bỏ chùa, vì Phật không giúp gì được cho mình.

Nếu chúng ta xin không được thì tu theo Phật, Bồ-tát có được lợi ích gì? Chúng ta học hiểu lời Phật dạy để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày, nhằm trị tâm bệnh tham lam, sân giận, si mê, để thành vô lượng trí tuệ từ bi, tu như vậy tự nhiên tâm chúng ta lần hồi được trong sạch. Khi tâm đã trong sạch rồi thì mọi bệnh tật tham, sân, si, ganh ghét, tật đố, nóng giận, oán thù từ từ theo đó mà hết.

Muốn giàu sang, nhiều của cải, ta phải biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia với lòng thành tâm cung kính của mình; ngoài ra, chúng ta còn phải siêng năng, tinh cần làm việc, tiết kiệm và không tiêu xài hoang phí. Đó là chúng ta biết tu bằng cách dùng thuốc của Phật để trị tâm bệnh cho mình.

Nhiều người cho rằng cầu nguyện là vô ích, không có tác dụng lợi ích thiết thực; mà làm sao có tác dụng được, khi chúng ta lạy lục, cầu xin trước những pho tượng bằng đất, gỗ, đá và xi măng? Tôn tượng Phật, Bồ-tát chắc chắn không phải là ông Phật thực, đó chỉ là biểu tượng qua hình ảnh, để ta nhớ biết công hạnh của các Ngài mà cố gắng bắt chước, thực hành làm theo. Khi ta nghiêng mình cúi đầu một cách cung kính tôn trọng lá cờ, không phải là ta tôn trọng miếng vải mà chính là ý nghĩa lá cờ tượng trưng cho Tổ quốc qua tinh thần dân tộc Việt Nam.

Cũng vậy, ta thờ Phật, lạy Phật nhằm mục đích không phải để cầu xin, mà ta lễ lạy để nhớ công ơn cao cả của Ngài, nhờ vậy mà ta biết được điều tốt, lẽ xấu trong cuộc đời. Quí Phật tử xét thật kỹ xem từ trước cho đến giờ, chúng ta đi chùa là vì cầu xin hay để tu học theo Phật và Bồ-tát?

Chúng ta đến chùa đôi khi chỉ cúng chút ít hoa quả hoặc nải chuối, ốp nhang; khi cúng rồi quí vị cầu đủ thứ hết, nào là “Phật gia hộ cho gia đình con bình yên, hạnh phúc, được làm ăn thịnh vượng, sung túc, đủ đầy, phát tài, phát lộc, trong gia quyến đều gặp may mắn, con cháu biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ… ; như thế, chúng ta cầu xin hay là tu tập để chuyển hóa những nỗi khổ, niềm đau?

Thông thường em bé ỷ lại vào sự bao bọc của cha mẹ, đứa bé con nhà giàu khi bị té nó sẽ khóc thét lên chờ gia đình người thân đến vỗ về năn nĩ, nó mới hết khóc. Ngược lại, đứa bé con nhà nghèo khi bị té, nó nhìn qua lại không thấy ai liền đứng dậy đi. Những người bất hạnh thường mong chờ ỷ lại vào những nhà mạnh thường quân, nhà hảo tâm nên họ khó có tâm cầu tiến, tin sâu nhân quả.

Phụ nữ thường ỷ lại vào đàn ông, chồng ỷ lại vào vợ dẫn đến biếng nhác ăn không ngồi rồi tụ ba tụ năm tán dốc, cờ bạc rượu chè làm cho gia đình người thân khổ đau.

Lúc chúng tôi còn ở ngoài đời, khi đó đang ở tù tôi có quen một người và có đến nhà anh ta chơi một vài lần. Cô vợ bán thịt heo ngoài chợ, nuôi một chồng và hai đứa con, anh chồng không làm gì hết mà lúc nào cũng chè chén say sưa, tiền thì bà xã cung cấp. Ăn nhậu riết rồi sinh tệ về nhà chửi bới đánh đập vợ con, sau nhiều lần chịu không nổi bà vợ làm đơn cho ổng ở tù ba tháng để cải tạo. Khi đó chúng tôi làm tù trưởng nên có điều kiện cùng ông ta về nhà nhậu chơi, mới biết hoàn cảnh thật như thế.

Rõ ràng những người đàn ông như thế, họ lại dựa vào sự làm ăn của vợ mà bê tha thọ hưởng những thú vui thấp hèn, cuối cùng dẫn đến tù tội. Sự ỷ lại của người đàn ông trên đáng bị phê phán, vì tâm lý ỷ lại lười lao động và để vợ nuôi. Ngược lại, người phụ nữ có thể chịu đựng cả đời với tính dựa dẫm đáng yêu của đàn ông, nhưng họ sẽ coi thường những gã chỉ biết sống dựa vào “sức vợ”. Đàn ông mà sống dưới vạt áo đàn bà coi sau được, vậy mà thế gian này vẫn có những con người như thế.

Các em học sinh ỷ lại vào thầy cô giáo nên không cần mẫn siêng năng chăm chỉ học hành, con cái ỷ lại vào cha mẹ. Hầu như tất cả những người hay ỷ lại, ít thành công trên đường đời vì tâm lý làm biếng dựa dẫm vào người khác.

Tu hành cũng lại như thế, chúng ta phải tin mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, do đó ta không ỷ lại vào Phật, Bồ-tát mà ráng cố gắng buông xả những gì xấu xa tội lỗi, bằng trái tim thương yêu và hiểu biết để chuyển hóa phiền muộn khổ đau, thành an vui hạnh phúc.

Như vậy, chúng ta đi chùa cầu xin Phật cho điều này, cho việc kia, cho đủ thứ hết. Nhưng rốt cuộc rồi tất cả những gì chúng ta xin có được như ý không? Chúng ta mỗi người phải tự nghiệm xét lại những gì chúng ta xin đó, nếu được hết thì chắc rằng quí Phật tử đều được an vui, hạnh phúc, đâu có ai đau khổ phải không? Nhưng thực tế, trong cuộc đời khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Nếu Phật có khả năng ban phước cho ta được thì Phật đâu có khuyên ta siêng năng tinh tấn tu hành để làm gì?

Nói tóm lại, chúng ta đi chùa là để tu theo Phật nhằm chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau, thành an vui, hạnh phúc và tin rằng mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, chớ Phật, Bồ-tát không thể ban cho ta được. Phật chỉ là người thầy dẫn đường, chỉ cho ta biết được con đường dẫn đến bình yên hạnh phúc trọn vẹn, còn làm được hay không là do ta quyết định.

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Lời Phật Dạy Về Cuộc Sống Con Người, Lời Phật Dạy Về Đạo Làm Người, Lời Phật Dạy Về Chữ Nhẫn, Châm Ngôn Phật Dạy

2. Dứt bỏ nóng giận, diệt trừ tính kiêu căng, không luyến ái vật chất, không còn ham muốn dục vọng, sẽ giải thoát được mọi sự ràng buộc và không bao giờ bị phiền não.

3. Trong sạch và nhơ bẩn cũng đều tùy thuộc nơi mình. Không ai có thể làm cho người khác trong sạch hay ô nhiễm.

4. Cuộc sống của chúng ta được định hình bởi chính tâm trí của chúng ta. Chúng ta sẽ trở thành những gì chúng ta nghĩ.

5. Người chinh phục chính mình còn vĩ đại hơn một nghìn lần người chinh phục ngàn người trên chiến trường.

6. Nếu không tìm thấy ai để hỗ trợ trên con đường tâm linh, hãy đi một mình. Không ai đồng hành với người chưa trưởng thành cả.

7. Không có nỗi sợ hãi với những ai tâm trí không ngập tràn ham muốn.

8. Nếu có điều gì đáng làm, hãy làm nó bằng tất cả trái tim.

9. Chính bạn phải phấn đấu. Các chư Phật chỉ vạch ra con đường.

10. Những ai phá hủy được cội nguồn của sự ghen tị sẽ luôn bình yên trong tâm hồn.

11. Không có sự ô nhiễm nào lớn hơn sự thiếu hiểu biết.

12. Thế gian đau buồn bởi cái chết và sự tan rã. Nhưng người khôn ngoan không đau buồn vì họ nhận ra bản chất của thế giới.

13. Một người không thể gọi là khôn ngoan vì anh ta nói điều hay. Người khôn ngoan là những người kiên nhẫn và không bị ràng buộc bởi hận thù và sợ hãi.

14. Hàng ngàn ngọn nến có thể được thắp sáng bởi một ngọn nến và cuộc đời của ngọn nến ấy không hề bị tàn lụi. Hạnh phúc không bao giờ cạn đi khi ta biết sẻ chia.

15. Người không cao quý làm tổn thương đến các sinh vật sống. Người cao quý không làm tổn thương ai cả.

16. Như cây nến không thể cháy mà không có lửa; người không thể sống nếu không có đời sống tâm linh.

17. Nếu tìm thấy một nhà phê bình khôn ngoan để chỉ ra những lỗi lầm của mình, hãy làm theo anh ta vì bạn sẽ được hướng dẫn đến kho tàng bí ẩn.

18. Bình yên đến từ bên trong. Đừng tìm nó bên ngoài.

19. Khi đang sống trong bóng tối, tại sao bạn không đi tìm ánh sáng?

ảnh lời Phật dạy,bài học cuộc sống,suy ngẫm,Đức Phật,chân lý cuộc đời

20. Bí quyết để có sức khỏe cho cả tinh thần lẫn thể xác không phải là hờn trách quá khứ hay lo sợ về tương lai, mà là sống trong giây phút hiện tại một cách khôn ngoan và nghiêm túc.

21. Người có trí tuệ hãy thổi bay những cấu uế của bản thân mình, như một người thợ rèn thổi sạch những cặn bã của chất bạc, từng tí một, từng cái một, và từng lúc một.

22. Đừng cố xây dựng hạnh phúc trên sự bất hạnh của người khác, bạn sẽ vướng vào lưới của hận thù.

23. Người khôn ngoan có tính kỷ luật về thân, khẩu, ý. Họ thực sự kiểm soát rất tốt những điều đó.

24. Không ai có thể cứu ta ngoại trừ chính ta. Không ai có thể và không ai sẽ làm thế. Chúng ta phải đi trên con đường của chính mình.

25. Kiên quyết rèn luyện mình để có được sự bình yên.

26. Thiền định mang lại sự thông tuệ, không thiền định sẽ dẫn đến vô minh. Hiểu rõ những gì dẫn dắt bạn hướng về phía trước, những gì cản trở bạn và lựa chọn con đường dẫn đến sự thông tuệ.

27. Hãy cho đi, ngay cả khi bạn chỉ có một chút.

28. Hãy vững như bàn thạch để không bị lung lay trước giông bão, những người khôn ngoan cũng không bị ảnh hưởng bởi những lời khen chê theo cách đó.

29. Đừng lãng phí một phút giây nào, những phút giây lãng phí sẽ khiến bạn đi thụt lùi.

30. Nếu bạn quên niềm vui của cuộc sống và bị mắc kẹt trong những thú vui của thế gian, bạn sẽ ghen tị với những người đặt thiền định làm đầu.

31. Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.

32. Nếu bạn không muốn rước phiền não vào người, thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho bạn. Vì chính tâm bạn không buông xuống nổi.

33. Bạn hãy luôn cảm ơn những ai đem đến nghịch cảnh cho mình.

34. Bạn phải luôn mở lòng khoan dung lượng thứ cho chúng sanh, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm tổn thương bạn, bạn phải buông bỏ, mới có được niềm vui đích thực.

35. Khi bạn vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi bạn đau khổ, bạn hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn.

36. Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm hối hận cho ngày mai.

37. Bạn có thể có tình yêu nhưng đừng nên dính mắc, vì chia ly là lẽ tất nhiên.

38. Đừng lãng phí sinh mạng của mình trong những chốn mà nhất định bạn sẽ ân hận.

39. Khi nào bạn thật sự buông xuống thì lúc ấy bạn sẽ hết phiền não.

40. Mỗi một vết thương đều là một sự trưởng thành.

ảnh lời Phật dạy,bài học cuộc sống,suy ngẫm,Đức Phật,chân lý cuộc đời

41. Người cuồng vọng còn cứu được, người tự ti thì vô phương, chỉ khi nhận thức được mình, hàng phục chính mình, sửa đổi mình, mới có thể thay đổi người khác.

42. Bạn đừng có thái độ bất mãn người ta hoài, bạn phải quay về kiểm điểm chính mình mới đúng. Bất mãn người khác là chuốc khổ cho chính bạn.

43. Một người nếu tự đáy lòng không thể tha thứ cho kẻ khác, thì lòng họ sẽ không bao giờ được thanh thản.

44. Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác.

45. Hủy diệt người chỉ cần một câu, xây dựng người lại mất ngàn lời, xin bạn “Đa khẩu hạ lưu tình”.

46. Vốn dĩ không cần quay đầu lại xem người nguyền rủa bạn là ai? Giả sử bạn bị chó điên cắn một phát, chẳng lẽ bạn cũng phải chạy đến cắn lại một phát?

47. Đừng bao giờ lãng phí một giây phút nào để nghĩ đến người bạn không hề yêu thích.

48. Mong bạn đem lòng từ bi và thái độ ôn hòa để bày tỏ những nỗi oan ức và bất mãn của mình, có như vậy người khác mới khả dĩ tiếp nhận.

49. Cùng là một chiếc bình như vậy, tại sao bạn lại chứa độc dược? Cùng một mảnh tâm tại sao bạn phải chứa đầy những não phiền như vậy?

50. Những thứ không đạt được, chúng ta sẽ luôn cho rằng nó đẹp đẽ, chính vì bạn hiểu nó quá ít, bạn không có thời gian ở chung với nó. Nhưng rồi một ngày nào đó khi bạn hiểu sâu sắc, bạn sẽ phát hiện nó vốn không đẹp như trong tưởng tượng của bạn.

51. Sống một ngày là có diễm phúc của một ngày, nên phải trân quý. Khi tôi khóc, tôi không có dép để mang thì tôi lại phát hiện có người không có chân.

52. Tốn thêm một chút tâm lực để chú ý người khác chi bằng bớt một chút tâm lực phản tỉnh chính mình, bạn hiểu chứ?

53. Hận thù người khác là một mất mát lớn nhất đối với chính mình.

54. Mỗi người ai cũng có mạng sống, nhưng không phải ai cũng hiểu được điều đó, thậm chí trân quý mạng sống của mình hơn. Người không hiểu được mạng sống thì mạng sống đối với họ mà nói chính là một sự trừng phạt.

55. Tình chấp là nguyên nhân của khổ não, buông tình chấp bạn mới được tự tại.

56. Đừng khẳng định về cách nghĩ của mình quá, như vậy sẽ đỡ phải hối hận hơn.

57. Khi bạn thành thật với chính mình, thế giới sẽ không ai lừa dối bạn.

58. Người che đậy khuyết điểm của mình bằng thủ đoạn tổn thương người khác là kẻ đê tiện.

59. Người âm thầm quan tâm chúc phúc người khác, đó là một sự bố thí vô hình.

60. Đừng gắng sức suy đoán cách nghĩ của người khác, nếu bạn không phán đoán chính xác bằng trí huệ và kinh nghiệm thì mắc phải nhầm lẫn là lẽ thường tình.

61. Muốn hiểu một người, chỉ cần xem mục đích đến và xuất phát điểm của họ có giống nhau không, thì có thể biết được họ có thật lòng không.

62. Chân lý của nhân sinh chỉ là giấu trong cái bình thường đơn điệu.

63. Người không tắm rửa thì càng xức nước hoa càng thấy thối. Danh tiếng và tôn quý đến từ sự chân tài thực học. Có đức tự nhiên thơm.

64. Thời gian sẽ trôi qua, để thời gian xóa sạch phiền não của bạn đi.

65. Bạn cứ xem những chuyện đơn thuần thành nghiêm trọng, như thế bạn sẽ rất đau khổ.

66. Người luôn e dè với thiện ý của người khác thì hết thuốc cứu chữa.

67. Nói một lời dối gian thì phải bịa thêm mười câu không thật nữa để đắp vào, cần gì khổ như vậy?

68. Sống một ngày vô ích, không làm được chuyện gì, thì chẳng khác gì kẻ phạm tội ăn trộm.

69. Quảng kết chúng duyên, chính là không làm tổn thương bất cứ người nào.

70. Im lặng là một câu trả lời hay nhất cho sự phỉ báng.

71. Cung kính đối với người là sự trang nghiêm cho chính mình.

72. Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả.

73. Đến là ngẫu nhiên, đi là tất nhiên. Cho nên bạn cần phải “Tùy duyên mà hằng bất biến, bất biến mà hằng tùy duyên”.

74. Từ bi là vũ khí tốt nhất của chính bạn.

75. Chỉ cần đối diện với hiện thực, bạn mới vượt qua hiện thực.

76. Lương tâm là tòa án công bằng nhất của mỗi người, bạn dối người khác được nhưng không bao giờ dối nổi lương tâm mình.

77. Người không biết yêu mình thì không thể yêu được người khác.

78. Có lúc chúng ta muốn thầm hỏi mình, chúng ta đang đeo đuổi cái gì? Chúng ta sống vì cái gì?

79. Đừng vì một chút tranh chấp mà xa lìa tình bạn chí thân của bạn, cũng đừng vì một chút oán giận mà quên đi thâm ân của người khác.

80. Cảm ơn đời với những gì tôi đã có, cảm ơn đời những gì tôi không có.

81. Nếu có thể đứng ở góc độ của người khác để nghĩ cho họ thì đó mới là từ bi.

82. Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng gây thương tổn, đừng khoe tài cán của mình, đừng phô điều xấu của người, tự nhiên sẽ hóa địch thành bạn.

83. Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình.

84. Nhân quả không nợ chúng ta thứ gì, cho nên xin đừng oán trách nó.

85. Đa số mọi người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối.

86. Tâm là tên lừa đảo lớn nhất, người khác có thể dối bạn nhất thời, nhưng nó lại gạt bạn suốt đời.

87. Chỉ cần tự giác tâm an, thì đông tây nam bắc đều tốt. Nếu còn một người chưa độ thì đừng nên thoát một mình.

88. Khi trong tay bạn nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì bạn chỉ có mỗi thứ này, nếu bạn chịu buông xuống, thì bạn mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.

89. Nếu bạn có thể sống qua những ngày bình an, thì đó chính là một phúc phần rồi. Biết bao nhiêu người hôm nay đã không thấy được vầng thái dương của ngày mai, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành tàn phế, biết bao nhiêu người hôm nay đã đánh mất tự do, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành nước mất nhà tan.

90. Bạn có nhân sinh quan của bạn, tôi có nhân sinh quan của tôi, tôi không dính dáng gì tới bạn. Chỉ cần tôi có thể, tôi sẽ cảm hóa được bạn. Nếu không thể thì tôi đành cam chịu.

91. Bạn hy vọng nắm được sự vĩnh hằng thì bạn cần phải khống chế hiện tại.

92. Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Bạn càng nguyền rủa họ, tâm bạn càng bị nhiễm ô, bạn hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của bạn.

93. Người khác có thể làm trái nhân quả, người khác có thể tổn hại chúng ta, đánh chúng ta, hủy báng chúng ta. Nhưng chúng ta đừng vì thế mà oán hận họ, vì sao? Vì chúng ta nhất định phải giữ một bản tánh hoàn chỉnh và một tâm hồn thanh tịnh.

94. Nếu một người chưa từng cảm nhận sự đau khổ khó khăn thì rất khó cảm thông cho người khác. Bạn muốn học tinh thần cứu khổ cứu nạn, thì trước hết phải chịu đựng được khổ nạn.

95. Thế giới vốn không thuộc về bạn, vì thế bạn không cần vứt bỏ, cái cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp. Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng không thuộc về ta.

96. Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ.

97. Lấy từ bi và ôn hoà để thắng nóng giận. Lấy hiền lành để thắng hung dữ. Lấy bố thí và lòng rộng rãi để thắng tham lam. Lấy chân thật để thắng giả dối.

98. Lửa giận hờn một khi đã phát ra, có thể đốt cháy và làm tiêu tan muôn mẫu núi rừng công đức.

99. Hận thù diệt hận thù, là điều không thể có. Tình yêu diệt hận thù, là định luật ngàn thu.

100. Không có con đường dẫn đến hạnh phúc, hạnh phúc chính là con đường.

Nuôi Dạy Con Cái Theo Lời Phật Dạy

Khi trẻ 3-6 tuổi, phụ huynh nên kể những mẩu chuyện tiền thân đức Phật, thỉnh thoảng khen thưởng cho quà, hoặc chở trẻ đi chùa tập làm quen và chào hỏi các vị thầy, dạy tập trẻ thưa thầy mở đầu là “A Di Ðà Phật”, “Bạch thầy”…

Các nhà nghiên cứu Phật giáo đã chỉ ra sự hình thành và phát triển nhân cách con người diễn ra có tính quy luật theo từng lứa tuổi, bắt đầu từ khi thọ thai cho đến trưởng thành.

Vì thế, giáo dục bao giờ cũng hướng vào con người cụ thể với những đặc điểm tâm lý riêng về lứa tuổi, giới tính… và những đặc trưng độc đáo trong nhân cách. Do đó, giáo dục phải xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng để đề ra các nội dung, cách thức phù hợp. Cụ thể là Phật giáo chủ trương giáo dục từ trong thai nhi cho đến khi lọt lòng, lớn lên và cả trưởng thành sau này mà có từng nội dung giáo dục, phương thức giáo dục phù hợp với từng giai đoạn phát triển của trẻ.

Tùy theo cách thức chăm sóc của cha mẹ và cách cư xử của mọi người lớn trong gia đình mà đứa trẻ ghi nhận được các ấn tượng, hình thành các thói quen về hành vi trong sinh hoạt sau này. Cách tiếp cận thế giới qua hình ảnh, đồ vật theo hướng thiện sẽ làm nền tảng cho trẻ lớn lên có kinh nghiệm cư xử đúng với thế giới xung quanh. Mọi thứ phụ thuộc vào khả năng cha mẹ am hiểu giáo lý và ứng dụng giáo lý để hướng dẫn cho trẻ bắt chước và in đậm dấu ấn Phật pháp từ buổi còn thơ.

Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ ở nhà (1 – 3 tuổi)

Ðến thời kỳ này, trẻ thơ bắt đầu tiến bộ rõ rệt về cơ thể, tâm lý. Trẻ bắt đầu được cha mẹ tập đi, biết thích chơi đồ vật, biết nói dần dần, góp phần thúc đẩy sự phát triển khả năng ý thức, một yếu tố thể hiện nhân cách con người. Lúc này cha mẹ tập nói những đại từ nhân xưng thân thuộc như ba, má, ông, bà hay thầy, sư ông… khi bồng trẻ lên chùa lễ Phật và hướng dẫn con mình hiểu người khác nói.

Đồng thời, cha mẹ chỉ bảo cho con cái học tập cư xử theo những nguyên tắc hành vi khi tiếp xúc với người khác trong gia đình như anh em, chú bác. Quan trọng hơn là cha mẹ phải là những người gương mẫu, đừng bao giờ để trẻ thấy một hình ảnh bất hòa cãi vã, tạo dấu ấn xấu trong mắt trẻ.

Thỉnh thoảng, cha mẹ lên chùa cho trẻ tiếp xúc không gian tĩnh lặng rộng lớn, hình ảnh Phật Thánh qua những bức tượng hiền hòa để trẻ cảm nhận tình thương của Phật, thậm chí có thể chỉ vào những bức tượng Hộ pháp để răn đe khi chúng không vâng lời như không chịu ăn, khóc nhè…

Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ ở nhà trẻ (3 – 6 tuổi)

Ðây là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ, thể hiện khả năng hành động theo động cơ gián tiếp. Sự phát triển nhân cách lệ thuộc vào khuôn mẫu hành vi của người lớn mà trẻ em tiếp xúc như cha mẹ, thầy cô, bạn bè… Những dấu ấn ban đầu trên nhân cách trẻ thơ được lưu giữ lại. Sự phát triển nhân cách trong giai đoạn này chỉ đạt được mức độ thấp nhưng diễn ra ở tốc độ cao, bắt đầu xuất hiện khuynh hướng độc lập.

Vì vậy cha mẹ phải tập trung chú ý, quan tâm nhiều hơn trong việc trẻ ham thích trò chơi. Thông qua việc tiếp xúc với trò chơi mà định hướng ý thức trẻ vào việc học tập. Có thể dạy trẻ những gương tốt đạo đức thông qua việc kể chuyện cổ tích, thần thoại, bước đầu chỉ ra nhân vật thiện ác, kích thích trí tưởng tượng của trẻ, các loại tình cảm của trẻ thơ.

Ðối với những phụ huynh là Phật tử thuần thành thì nên kể những mẩu chuyện tiền thân đức Phật. Thỉnh thoảng khen thưởng cho quà, hoặc chở trẻ đi chùa tập làm quen và chào hỏi các vị thầy, dạy tập trẻ thưa thầy mở đầu là “A Di Ðà Phật”, “Bạch thầy”…, cúi chào người lớn, nhất là chú ý đến việc trẻ trong cách thức ứng xử các hành vi lễ phép, biết làm chủ về sinh hoạt cá nhân. Bước đầu cho trẻ tiếp xúc các lễ hội Phật giáo nhân ngày Phật đản, Vu lan, …để thông qua các đại lễ này ươm mầm những hạt giống về ý nghĩa Phật ra đời, những đạo lý cơ bản về hiếu hạnh.

Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ học sinh tiểu học (6 – 11 tuổi)

Lúc này trẻ bắt đầu lớn nhanh so với các giai đoạn trước. Trẻ thơ bắt đầu tham gia các hoạt động xã hội để tiếp nhận các hệ thống tri thức. Cha mẹ cần chú ý quan tâm về việc học tập, tính cách bắt đầu định hình với các đặc điểm sau:

– Khả năng nhận thức của trẻ phát triển nhanh chóng nhờ hoạt động học tập. Ðời sống tình cảm chiếm ưu thế và chi phối mạnh mẽ các hoạt động trong sự hồn nhiên.

– Hay bắt chước những người gần gũi, có ảnh hưởng nhất định đến chúng. Bản tính hiếu động, không kiềm chế dẫn đến sai phạm những điều cha mẹ, ông bà, người lớn dạy bảo.

Do đó, cha mẹ cần phải khéo léo uốn nắn dạy dỗ con em trong việc ứng xử hành vi, lễ phép tôn trọng người lớn và biết học tập theo chương trình dạy ở trường. Lúc này cha mẹ phải cho con tiếp xúc các mẫu người mô phạm để làm phương tiện giáo dục. Ngoài sự giáo dục của gia đình, nhà trường, cha mẹ phải dẫn con lên chùa gần gũi chư Tăng.

Sự tiếp xúc này sẽ để lại ấn tượng tốt thông qua lễ lạy, nghe những lời dạy của quý thầy, những câu chuyện đạo lý trong Phật giáo về sự tôn trọng sự thật, sự vâng lời mẹ cha, biết yêu thương đồng loại. Như câu chuyện Sa di La Hầu La thường hay nói dối được giáo hóa qua bài kinh Giáo Giới La Hầu La. Sa di nọ nhờ cứu đàn kiến mà được khỏe mạnh, sống lâu. Hoặc những bài kệ ngắn gọn đơn giản trong kinh Pháp Cú v.v…

Lúc này, cha mẹ cần lưu tâm chú trọng từng hành vi ứng xử của trẻ trong học tập, tâm lý, dạy cho chúng tự tin, biết tin yêu gia đình, thầy cô… đồng thời hướng dẫn tham gia các hoạt động mang tính tập thể, gia nhập Gia đình Phật tử, đi hành hương các chùa cùng bố mẹ, làm việc công đức ở chùa như quét dọn, tham gia văn nghệ vào các ngày lễ của Phật giáo… nói chung là tập làm các việc có ích thuộc về khả năng các cháu có thể làm được.

Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh trung học cơ sở (11 -15 tuổi)

Giai đoạn này là giai đoạn trẻ phát triển và biến động về tâm sinh lý phức tạp, tác động khá mạnh vào sự định hình nhân cách. Giới tính định hình, nó quy định tính cách, nhận thức và sự thể hiện ra bên ngoài qua các hành vi ứng xử khác nhau giữa trẻ nam và nữ. Lúc này trẻ xuất hiện những khuynh hướng phát triển khá đặc biệt về biến chuyển tâm lý: như mong muốn tự khẳng định mình nên bắt đầu có dấu hiệu phản ứng lại lời dạy của thầy cô, cha mẹ, hoặc tranh cãi với bạn bè. Các em bắt đầu biết xấu hổ, biết tự kiêu, biết làm đẹp, thích được thỏa mãn các mong muốn như được đi chơi, được xem các trò chơi, tivi, game… Nếu không đáp ứng hoặc đáp ứng nhu cầu của trẻ không đúng do nuông chiều của cha mẹ thì dễ dẫn đến hư hỏng. Tình cảm của các em lúc này diễn biến rất phức tạp.

Vì vậy, cha mẹ càng có sự liên kết giáo dục gia đình, nhà trường, nhà chùa và xã hội chặt chẽ đối với vấn đề giáo dục các em hoàn thiện. Người mẹ lúc này càng gần gũi con hơn bao giờ hết. Phải biết để ý sự phát triển tâm lý, theo dõi sự dậy thì tránh sự lo âu khi cơ thể biến chuyển về sinh lý cho các em gái, kể cả các em trai, đồng thời dạy cho các em hiểu biết về giới tính, có cách thức hành xử đúng khi quan hệ, tiếp xúc với người khác giới. Tuổi này các em bắt đầu ham chơi, thích mơ mộng và mong muốn được cưng chiều. Vì vậy phải khéo léo kết nối yêu thương vỗ về nhưng cũng phải nghiêm khắc cần thiết. Quan tâm và tạo các điều kiện học tập tốt nhất và vui chơi lành mạnh mà cha mẹ có thể đáp ứng.

Môi trường của các em tiếp xúc lúc này khá rộng, hiểu biết nhiều. Vì vậy cha mẹ Phật tử phải dành nhiều thì giờ chăm lo để các em phát triển nhân cách theo định hướng của gia đình, nề nếp của gia phong. Liên lạc thường xuyên với các thầy cô giáo để theo dõi việc học, tìm hiểu bạn bè của các em để nắm rõ tình hình sinh hoạt ở bên ngoài. Khi có điều kiện sinh hoạt gia đình thông qua bữa cơm, húy kỵ, tiệc mừng sinh nhật, chúc thọ… cần nói rõ ý nghĩa lễ và khơi dậy tình thương yêu, biết chia sẻ niềm vui với người khác, cũng như giảng rõ về sự bất hạnh đối với ai thiếu tình thương với cha mẹ. Độ tuổi này các bậc cha mẹ phải kết hợp quý thầy khéo léo giảng dạy các em về niềm tin và lẽ sống; tin Tam bảo, tin nhân quả, dạy phân biệt chính tà, thiện ác, nhất là biết tin vào chính mình.

Có điều kiện nên cho các em đi chùa cùng với gia đình để bước đầu học hỏi giáo lý Phật Đà, sự quy y và biết sống theo năm giới như một nếp sống đạo đức Phật giáo. Khi cha mẹ đi chùa hành hương thì nên cho các em đi theo, tiếp cận sự tin yêu, tôn kính ba ngôi Tam bảo, sự bố thí cúng dường, thực hành các việc phước thiện…

Các chùa hiện nay đều có tổ chức thuyết giảng sáng Chủ nhật, tu Bát quan trai, lớp học giáo lý, hướng dẫn các em thực hành nếp sống tri túc, hướng dẫn lối sống đạo đức Phật giáo, cho các em tham gia đi hành hương, từ thiện nên tạo điều kiện cho các em học tập và thực hiện. Dần dần, các em sẽ biết hình thành nhân cách hoàn thiện sống có ích và thực hiện ước mơ hoài bão của chúng theo định hướng của gia đình, xã hội yêu cầu.

Tóm lại, trẻ em là đối tượng cần quan tâm hơn bao giờ hết. Ðây là thành phần hạt nhân kết nối sự yêu thương gia đình qua tình vợ chồng, anh em, ông bà, cha mẹ, bà con quyến thuộc nội ngoại xa gần xóm giềng. Các em cũng là người kế thừa trong gia đình gánh vác việc gia tộc, ngoài xã hội là những chủ nhân ông xây dựng đất nước sau này. Là phật tử, các em là người hộ trì Chánh pháp, thậm chí trở thành người xuất gia học đạo hành đạo đem lại lợi ích sau này cho đời đạo mỗi ngày sáng tươi. Vì thế, trách nhiệm với việc giáo dục trẻ thơ không chỉ ở phạm vi gia đình, nhà trường, nhà chùa mà cả xã hội nữa.

Cuộc sống hôm nay từng bước chuyển đổi trong xu hướng thịnh vượng, đời sống sinh hoạt của nhân dân ta đã ấm no đầy đủ, sự quan tâm đối với trẻ thơ càng được chú trọng hơn.

Nhà nước và các tổ chức cộng đồng, trong đó có Phật giáo đã thực thi chú trọng giảng dạy trẻ thơ học pháp và hành pháp trong sự hình thành nhân cách người phật tử.

Đây chính là chủ thể và cội nguồn cho Phật giáo Việt Nam phát triển lâu dài và có kế thừa liên tục. Vì vậy, trách nhiệm của chư Tăng đối với việc giảng dạy giáo lý cho thiếu nhi hoặc gián tiếp thông qua các phụ huynh phật tử, hay trực tiếp với một chương trình cụ thể là điều cần thiết.