Lời Phật Dạy Về Số Phận Con Người / Top 16 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Dtdecopark.edu.vn

Lời Phật Dạy Về Bổn Phận Vợ Chồng

Trong bài Kinh Giáo Thọ Thi-ca-la-việt của Trường Bộ Kinh, Đức Phật đã thuyết giảng với gia chủ tử Singàlaka về bổn phận của vợ và chồng.

“Này Gia chủ tử, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ như phương Tây:

Kính trọng vợ;

Không bất kính đối với vợ;

Trung thành với vợ;

Giao quyền hành cho vợ;

Sắm đồ nữ trang với vợ;

 Này Gia chủ tử, được chồng đối xử như phương Tây theo năm cách như vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách:

Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình;

Khéo tiếp đón bà con;

Trung thành với chồng;

Khéo gìn giữ tài sản của chồng;

Khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.

Này Gia chủ, người vợ được người chồng đối xử như phương Tây theo năm cách và người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách. Như vậy phương Tây được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.”

LỜI BÀN:

Theo bạn nghĩ, tại sao Đức Phật đã dạy hai bổn phận đầu tiên của người chồng là kính trọng vợ và không bất kính với vợ?

Được kính trọng là nhu cầu tất yếu của tất cả mọi người đó là sự công nhận của quyền được sống, quyền được bình đẳng. Tuy nhiên trong xã hội xưa, trọng nam khinh nữ là tư tưởng ảnh hưởng rất lớn và hiện nay vẫn còn tồn tại ở một số nước trên thế giới. Vì tính gia trưởng của một số người chồng, họ đối xử vợ như một nô lệ họ đánh đập, hành hạ, chửi mắng, lăng nhục thậm chí họ đối xử vợ như một con vật. Chính vì vậy Phật dạy sự kính trọng là trên hết ở đây được hiểu như là sự công bằng cho người phụ nữ. Hơn nữa, người chồng phải kính trọng vợ vì những điều sau:

– Người vợ là người đã hy sinh rất nhiều cho gia đình. Họ đã dám rời bỏ sự che chở của cha mẹ để đến chăm sóc, lo cơm nước, áo quần, bệnh tật cho chồng. Họ đã hy sinh sắc đẹp, thời gian, tấm lòng không ngại khó khăn, vượt qua gian khổ cùng chồng, quán xuyến tất cả mọi việc, chăm lo chu toàn như một người mẹ chăm lo cho gia đình.

Trong bài Kinh Bảy Loại Vợ, Phật có dạy rằng “người vợ nào biết thương yêu chăm sóc, giúp đỡ chồng, biết cách giữ gìn và làm giàu tài sản của chồng như một người mẹ lo lắng chu tất cho con cái. Người vợ như vậy, Như Lai gọi là loại vợ như mẹ”. cha mẹ là người đáng kính trọng thì người chăm lo cho bạn như cha như mẹ mình cũng phải xứng đáng nhận được sự kính trọng giống như vậy.

– Chẳng những vậy, người vợ phải hy sinh thân xác khi chịu đau đớn tột cùng mổ da xẻ thịt để sinh ra đứa con. Duy trì nòi giống được xem là nghĩa vụ quan trọng nhất của người chồng với dòng họ tổ tiên nên người chồng phải là người biết ơn và kính trọng vợ vì đã giúp mình hoàn thành nghĩa vụ với gia đình.

– Đặc biệt là người vợ là người duy nhất có thể lắng nghe, có thể chia sẻ  vui buồn. Thậm chí, họ cam chịu được những thứ hỗn độn về tính cách và điên đảo tinh thần của người chồng khi bực tức, khi sân giận, khi rượu chè say xỉn nhưng người vợ vẫn ầm thầm chấp nhận và chăm lo cho chồng.

Người vợ chính là người mang lại sự ấm áp, sự nhẹ nhàng, mát dịu cho gia đình, cho người đàn ông sau một ngày bộn bề mặt vào công việc. Về đến nhà, cơm nước đã chuẩn bị sẵn trên bàn, nhà cửa đã được dọn dẹp sạch sẽ ngăn nắp, một nụ cười xinh tươi trên gương mặt cùng những lời hỏi thăm quan tâm nhẹ nhàng, thân mật của người vợ cũng khiến bao nhiêu mệt mỏi bên ngoài của người chồng được tan biến. Nhà chính là nơi người đàn ông muốn trở về dù đi bất cứ nơi đâu. Chính tình thương của người vợ đã xây dựng nên sự ấm áp đó nên việc kính trọng vợ là một điều người chồng phải làm.

Đối với người vợ người mà nhận được sự kính trọng từ chồng, họ đã tình nguyện ở hậu phương để chăm lo việc nội bộ trong nhà để chồng yên tâm vững chắc với công việc bên ngoài, một phần cũng do phần lớn người phụ nữ thường yếu đuối về sức lục và cả tinh thần nên họ cũng nương tựa vào sức mạnh và sự che chở của người chồng. Nếu không được chồng kính trọng họ sẽ vô cùng đau khổ, cảm thấy tổn thương và tự ti, họ tự xem mình là gánh nặng, là kẻ ăn bám của chồng. Còn với người chồng, với một người kính trọng mình, lo lắng cho mình mà mình không kính trọng lại thì đó là mối quan hệ lợi dụng, không phải tình thương.

Tiếp theo, tại sao Phật dạy người chồng nên giao quyền cho người vợ trong đó gia cả quyền quản lý tài sản gia đình? Người phụ nữ là người có khả năng quản lý, sắp xếp các công việc trong nhà tốt hơn người đàn ông. Họ quản lý chi tiêu cũng tốt hơn vì người đàn ông dễ bị lôi cuốn vào các cám dỗ như bia rượu, cờ bạc, các cuộc gặp gỡ bạn bè không chính đáng. Còn người vợ biết cách chi tiêu như thế nào cho hợp lý để đảm bảo sự hòa thuận và no ấm trong gia đình, không quá bỏn xẻn cũng không quá phung phí. Việc giao quyền hành cho vợ cũng là việc để vợ có thể chủ động và dễ dàng sắp xếp công việc vì người đàn ông thường vắng mặt nhiều hơn người vợ.

Hơn nữa, để tri ân những gì vợ hy sinh cho mình thì người chồng nên tặng quà hoặc trang sức đẹp cho vợ. Người phụ nữ hay thích lãng mạn và yêu cái đẹp. Việc tặng quà hoặc trang sức cho vợ là cách cho thấy người chồng thấu hiểu tâm lý vợ, tôn trọng sự ưa thích cái đẹp của vợ và cũng chính là cách khiến người vợ cảm thấy được hạnh phúc vì được chồng nhận ra sự có mặt và tình thương của mình dành cho gia đình. Chính vì được người chồng trân trọng và nhận ra, người vợ sẽ hết lòng vì tình thương ấy và hạnh phúc gia đình sẽ bền chặt hơn.

* Đối với người vợ:

Bổn phận đầu tiên mà Phật dạy người vợ là làm tốt bổn phận của mình. Người phụ nữ đến với cuộc đời có hai sứ mệnh cao cả là làm mẹ và làm vợ. Người đàn bà phải mang thai, phải sinh con, đó là thiên chức của một người phụ nữ. Nhưng làm vợ thì cần phải có sự khéo léo chu toàn cho cả việc bên trong và bên ngoài.

– Bên ngoài là người vợ phải biết khéo đón tiếp bà con, bạn bè và các mối quan hệ của chồng. Người chồng là người đại diện cho gia đình nên mọi hành động, lời nói của vợ phải nghĩ đến việc giữ gìn sỉ diện, danh dự của chồng với người ngoài đặc biệt là người thân và bạn bè của chồng. Một người vợ khéo léo xử lí trong các mối quan hệ của chồng sẽ tạo ra sự hòa hợp trong gia đình, người chồng cũng không phải rơi vào cảnh khó xử khi đứng giữa hai bên mà còn ngược lại còn mang đến niềm vinh dự, niềm tự hào cho chồng với bà con bè bạn.

– Đối nội là biết khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc trong nhà, tháo vát, đảm đang và quán xuyến được tất cả công việc từ người ăn kẻ ở, nuôi dạy con cái, miếng cơm manh áo, quản lý chi tiêu trong nhà và chăm lo cả tâm tư cảm xúc, sự êm ấm trong gia đình. Trong Tăng Chi Bộ Kinh, bài kinh 33 Uggaha, Người Gia Chủ (A.III. 38) Đức Phật có dạy người nữ nên học tập như sau: “Trong nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người công thợ, chúng ta sẽ phải biết công việc của họ với công việc đã làm; chúng ta sẽ phải biết sự thiếu sót của họ với công việc không làm. Chúng ta sẽ biết sức mạnh hay sức không mạnh của những người đau bệnh. Chúng ta sẽ chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo phần của mình”.  Chỉ khi có sự quan sát tỉ mỉ, chi tiết và tình thương vô bờ dành cho những người mình thương yêu mới có thể làm được những điều này.

Cuối cùng, trong năm bổn phận của người chồng và năm bổn phận của người vợ mà Đức Phật đã dạy, có chung một điều duy nhất ở điều thứ ba là cả vợ và chồng phải biết sống chung thủy. Sự chung thủy, sự trung thành trong bất kỳ mối quan hệ nào cũng là điều quan trọng nhất cho sự bền vững. Chính sự chung thủy tạo ra hạnh phúc gia đình và ngược lại nhờ có hạnh phúc nên vợ chồng mới chung thủy sống với nhau bền lâu.

Vậy nên, theo lời Phật dạy về 5 điều người chồng nên đối xử với vợ chính là cách anh bảo vệ những gì anh đang có, phải biết tri ân người mang lại hạnh phúc cho mình. Và chăm sóc cho chồng cho gia đình như là một sứ mệnh của người phụ nữ. Khi chồng biết đối xử đúng mực với vợ thì tự động người vợ sẽ hết lòng với gia đình và gia đình được che chở an vui và hạnh phúc lâu dài.

Diệu Hiền

Lời Phật Dạy Về Công Ơn Cha Mẹ Và Bổn Phận Làm Con

Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.

Cũng như có những trang kinh đức Phật chỉ dạy phương pháp báo đáp ân đức sâu dày đối với song thân một cách thiết thực nhất. Có nghĩa là đức Phật đã chỉ bày cách báo ân chơn chánh, hợp đạo lý, có lợi ích trong hiện đời và mai sau.

Hay nói rõ hơn, đức Phật đã đưa ra tiêu chuẩn đối với một người con được gọi là hiếu đạo thì phải hội đủ cả hai mặt sự và lý. Sự là hình thức báo đáp bên ngoài, là lo lắng, chăm nom phụng dưỡng cha mẹ khỏi mọi điều thiếu thốn về vật chất; luôn tôn trọng kính lễ cha mẹ và không được làm cho cha mẹ phiền lòng. Lý là chăm lo đời sống tâm linh cho cha mẹ. Hướng cha mẹ phát khởi thiện tâm, gieo tạo phước lành, tu theo chánh đạo; là làm sao cho cha mẹ hiểu rõ đường lành, tin sâu nhơn quả, thoát ngoài vòng mê tín, ra khỏi luân hồi nghiệp báo, đạt được an lạc giải thoát trong hiện tại và tương lai.

Nói cách khác, một đời sống hiền thiện chính là hiếu hạnh, là phát tâm báo ân. Còn như làm điều tà ác, không tu dưỡng đạo đức là bất hiếu.

Theo quan điểm của Phật giáo, thiện là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham, không sân, không si, có chánh kiến. Ngược lại là bất thiện. Mà tham, sân, si chính là gốc rễ của bất thiện.

Cho nên người tu học Phật pháp phải thấy rõ điều này để biết cách áp dụng lời Phật dạy vào đời sống sinh hoạt của chính mình, để mỗi ngày bớt tham, sân, si, thăng tiến trên đường đạo. Được như vậy mới thật sự là người con hiếu đạo.

Trong đạo Phật, vấn đề hiếu đạo được đề cập trong nhiều trong kinh tạng Pali của Phật giáo nguyên thủy và Hán tạng của hệ phái Bắc tông như: kinh Trường Bộ, kinh A Hàm, kinh Báo Ân, kinh Vu Lan Bồn, kinh Hiếu Tử, kinh Tâm Địa Quán…

Ở đây, chúng tôi sưu tập lại một số ít trong rất nhiều pháp thoại đức Phật thuyết về công ơn cha mẹ và cách thức đáp đền của con cái đối với cha mẹ hầu chia sẻ cùng các bạn.

Phật dạy:

“Cùng tột điều thiện không gì hơn hiếu Cùng tột điều ác không gì hơn bất hiếu”.

(Kinh Nhẫn Nhục)

“Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng sanh lang thang trong nẻo luân hồi, bỏ thân này nhận thân khác, sinh đi sinh lại bao lần, sữa mẹ mà chúng ta đã uống còn nhiều hơn nước trong bốn biển”.

(Kinh Tương Ưng)

“Này các tỳ kheo! Có hai người mà các thầy không thể nào đền ơn cho hết được, đó là cha và mẹ. Nếu có kẻ vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, đi xa ngàn dặm, cung phụng đủ mọi thức ăn, đồ mặc, chăn nệm và thuốc thang, thậm chí cha mẹ có tiểu tiện, đại tiện trên vai đi nữa, cũng chưa trả được ân sâu cha mẹ. Các thầy phải biết, ân cha mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, làm cho ta trưởng thành. Vì thế, mà biết ân đó khó trả. Do vậy, người con hiếu thảo muốn báo đáp công ơn cha mẹ đúng chánh pháp cần phải thực hành những việc sau đây:

– Nếu cha mẹ chưa có niềm tin, phải khuyết khích cha mẹ phát tâm tin tưởng tam bảo. – Nếu cha mẹ xan tham, phải khuyết khích cha mẹ phát tâm bố thí. – Nếu cha mẹ theo điều ác, phải khuyết khích cha mẹ hướng về đường thiện. – Nếu cha mẹ theo tà kiến, phải khuyết khích cha mẹ trở về với chánh kiến.

(Kinh Tăng Nhất A Hàm)

(Kinh Trường Bộ)

(Kinh Tương Ưng)

“Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta. Bao nhiêu đời kiếp ta từ đó mà sanh ra, nên chúng sanh trong sáu đường là cha mẹ của ta cả” .

(Kinh Phạm Võng)

(Kinh Tăng Nhất A Hàm)

” Nếu có người muốn được vua Phạm Thiên ở trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹ, vua Phạm Thiên đã có ở trong nhà. Muốn có Đế Thích ở trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹ, Đế Thích sẵn ở trong nhà. Muốn được tất cả thiên thần ở trong nhà, chỉ cúng dường cha mẹ, tất cả thiên thần đều ở trong nhà. Cho đến muốn cúng dường Thánh Hiền và Phật, chỉ cúng dường cha mẹ, các vị Thánh Hiền và Phật đều ở trong nhà” .

(Kinh Tạp Bảo Tạng)

“Phật hỏi các Thầy Sa môn : Con nuôi cha mẹ, lấy cam lồ trăm vị làm thức ăn, dùng thiên nhạc làm vui tai, sắm y phục hảo hạng mặc nơi thân, vai cõng cha mẹ đi khắp bốn phương, suốt đời phụng dưỡng như vậy , đáng gọi là hiếu chăng? Các Thầy Sa môn thưa : Người này là đại hiếu. Phật dạy : Chưa gọi là hiếu. Phật bảo các Thầy Sa-môn: Xem người thế gian không có hiếu thảo, chỉ thế này mới gọi là hiếu : Hãy khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành, thọ Tam quy giữ Ngũ giới. Dù cha mẹ sớm mai thọ trì quy giới, chiều về cõi chết, đối với ơn nặng cha mẹ nuôi dưỡng, cũng gọi tạm đền”.

(Kinh Hiếu Tử)

Mẹ hiền còn sống là mặt trời giữa trưa chói sáng Mẹ hiền khuất bóng là mặt trời đã lặn Mẹ hiền còn sống là mặt trăng sáng tỏ Mẹ hiền khuất rồi là đêm tối âm u.

(Kinh Tâm Địa Quán)

Vui thay hiếu kính Mẹ Vui thay hiếu kính Cha Vui thay kính Sa môn Kính bậc Thánh vui thay . (Kinh Pháp Cú)

” Có hai hạng người, này các Tỳ Kheo, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai. Là Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, làm vậy cho đến trăm tuổi, nếu đấm bóp, thoa nước tắm rửa, thoa gội, và dầu tại đấy có vãi tiểu tiện, đại tiện như thế, này các Tỳ Kheo cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỳ Kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng con khôn lớn, giới thiệu con vào đời” .

(Kinh Tăng Chi I)

” Làm con đối với cha mẹ đem chút lễ mọn cúng dường thì được phước vô lượng, trái lại làm ít điều bất thiện đối với cha mẹ tội cũng vô lượng” .

(Kinh Tạp Bảo Tạng)

” Thế Tôn lấy một ít đất để trên đầu ngón tay rồi hỏi các Thầy Tỳ Kheo, đất trên đầu ngón tay Ta nhiều hay đất trên quả địa cầu này nhiều? _ Bạch Đức Thế Tôn ! Đất trên đầu ngón tay Như Lai so với đất trên quả địa cầu thì quá ít. _ Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, những chúng sanh hiếu kính với cha mẹ thì quá ít, như đất trên đầu ngón tay của Ta, còn những chúng sanh không hiếu kính với cha mẹ lại quá nhiều như đất trên địa cầu”.

(Kinh Tương Ưng)

” Những đứa con bất hiếu, sau khi chết bị đọa vào địa ngục A tỳ, lửa dữ thiêu đốt, ăn hoàn sắt nóng, uống nước đồng sôi, gươm đao đâm chém…. ngày đêm chết sống muôn lần, đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây, sự hình phạt tại A tỳ ngục, rất nặng nề ngỗ nghịch song thân” .

(Kinh Báo Hiếu)

” Ta trong nhiều kiếp quá khứ, nhờ từ tâm hiếu thuận, cúng dường cha mẹ, do công đức đó, nên sinh lên các từng trời thời làm Thiên đế, xuống nhân gian thì làm Thánh Vương” . (Kinh Hiền Ngu)

” Thuở Phật còn tại thế có một vị chư Thiên đến hỏi : “Bạch Đức Thế Tôn , làm sao để có được vận may?”

” Phụng dưỡng cha và mẹ là vận may tối thượng” .

(Kinh Hạnh Phúc)

(Kinh Phân biệt)

” Thờ trời đất quỷ thần không bằng có hiếu với cha mẹ, vì cha mẹ là hai vị thần minh cao nhất trong các thần minh” .

(Kinh Tứ Thập Nhị Chương)

” Hiếu hạnh đứng đầu trăm hạnh tốt. Hiếu cảm đến trời thì mưa hòa gió thuận, hiếu cảm đến đất thì muôn vật hóa sinh, hiếu cảm đến người thì mọi phúc tăng trưởng” .

(Khế kinh)

_ ” Ơn cha lành như núi Thái, nghĩa mẹ hiền sâu hơn biển cả. Nếu ta ở trong đời một kiếp, nói công ơn cha mẹ không thể hết” . _ ” Cha mẹ tại tiền như Phật tại thế, gặp thời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật vậy” .

(Kinh Tâm Địa Quán)

” Cha mẹ là Phạm Thiên Bậc đạo sư đời trước Xứng đáng được cúng dường Vì thương đến cháu con Do vậy bậc hiền trí Đảnh lễ và tôn trọng Dâng thức ăn nước uống Vải mặc và giường nằm Thoa bóp cùng tắm rửa Với sở hành như vậy Đời này người hiền khen Đời sau hưởng Thiên lạc” .

(Kinh Hạnh Phúc)

” Thế Tôn lại bảo A Nan Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo Mười tháng trường chu đáo mọi bề Thứ hai sanh đẻ gớm ghê Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần Điều thứ ba thâm ân nuôi dưỡng Cực đến đâu, bền vững chẳng lay Thứ tư ăn đắng uống cay Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con Điều thứ năm lại còn khi ngủ Ướt mẹ nằm khô ráo phần con Thứ sáu sú nước nhai cơm Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê Điều thứ bảy không chê ô uế Giặt đồ dơ của trẻ không phiền Thứ tám chẳng nở chia riêng Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo Điều thứ chín miễn con sung sướng Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam Tính sao có lợi thì làm Chẳng màng tội lỗi bị giam bị cầm Điều thứ mười chẳng ham trao chuốt Dành cho con các cuộc thanh nhàn Thương con như ngọc như vàng Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái sơn”. (Kinh Báo Ân)

” Này các Tỳ Kheo, sữa mẹ mà các Thầy thọ nhận nơi người mẹ từ vô lượng kiếp đến nay còn nhiều hơn nước của đại dương. Quý Thầy nên biết sữa của người mẹ là những giọt máu kết tinh thành những dòng sữa ngọt truyền đạt qua cho con, mỗi ngày đứa con bụ bẫm lớn lên đã rút tỉa tàn phá thân hình của người mẹ khô gầy héo mòn, chết sớm cũng vì con” . (Kinh Tương Ưng)

“Người con nào giàu có mà không biết hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ đó là cửa ngõ đưa đến bại vong” .

(Kinh Đại Vân)

” Người nào muốn báo ơn nghĩa to lớn cả cha mẹ, không có cách nào hơn là phát tâm Bồ đề cầu giác ngộ, rồi tìm cách hướng dẫn người thân của mình và chúng sanh đồng phát tâm Bồ đề, đó là cách báo ân rốt ráo” .

(Kinh Phương Tiện Phật Báo Ân)

” Người con chí hiếu dù có gặp đại nạn như tai trời, ách nước, địa chấn…. sẽ thoát hiểm một cách an toàn. Nếu giàu thì được hưởng trọn vẹn gia tài không bị nghịch cảnh, chướng duyên , nội nghịch ngoại thù, luật vua phép nước, trộm cướp mất mùa… Nếu nghèo thì đời sống trong sạch thanh nhàn, trời người yêu thương, danh thơm xông khắp, không bị cảnh nợ nần khổ sở, ít bịnh tật, được tăng tuổi thọ… Sau khi chết đuợc sanh Thiên”. (Kinh Hạnh Phúc)

(Kinh Tăng Chi I)

Như trên, chúng ta đã thấy đức Phật nói thật cụ thể, rõ ràng về ơn cha nghĩa mẹ và những phương cách báo hiếu thông thường mà ai cũng có thể làm được.

Rất mong rằng tất cả chúng ta đều ghi lòng tạc dạ, luôn nhớ nghĩ đến ân nghĩa sinh thành sâu dày thâm trọng của cha mẹ để tìm cách đáp đền trong muôn một.

Lời Phật Dạy Về Cuộc Sống Con Người, Lời Phật Dạy Về Đạo Làm Người, Lời Phật Dạy Về Chữ Nhẫn, Châm Ngôn Phật Dạy

2. Dứt bỏ nóng giận, diệt trừ tính kiêu căng, không luyến ái vật chất, không còn ham muốn dục vọng, sẽ giải thoát được mọi sự ràng buộc và không bao giờ bị phiền não.

3. Trong sạch và nhơ bẩn cũng đều tùy thuộc nơi mình. Không ai có thể làm cho người khác trong sạch hay ô nhiễm.

4. Cuộc sống của chúng ta được định hình bởi chính tâm trí của chúng ta. Chúng ta sẽ trở thành những gì chúng ta nghĩ.

5. Người chinh phục chính mình còn vĩ đại hơn một nghìn lần người chinh phục ngàn người trên chiến trường.

6. Nếu không tìm thấy ai để hỗ trợ trên con đường tâm linh, hãy đi một mình. Không ai đồng hành với người chưa trưởng thành cả.

7. Không có nỗi sợ hãi với những ai tâm trí không ngập tràn ham muốn.

8. Nếu có điều gì đáng làm, hãy làm nó bằng tất cả trái tim.

9. Chính bạn phải phấn đấu. Các chư Phật chỉ vạch ra con đường.

10. Những ai phá hủy được cội nguồn của sự ghen tị sẽ luôn bình yên trong tâm hồn.

11. Không có sự ô nhiễm nào lớn hơn sự thiếu hiểu biết.

12. Thế gian đau buồn bởi cái chết và sự tan rã. Nhưng người khôn ngoan không đau buồn vì họ nhận ra bản chất của thế giới.

13. Một người không thể gọi là khôn ngoan vì anh ta nói điều hay. Người khôn ngoan là những người kiên nhẫn và không bị ràng buộc bởi hận thù và sợ hãi.

14. Hàng ngàn ngọn nến có thể được thắp sáng bởi một ngọn nến và cuộc đời của ngọn nến ấy không hề bị tàn lụi. Hạnh phúc không bao giờ cạn đi khi ta biết sẻ chia.

15. Người không cao quý làm tổn thương đến các sinh vật sống. Người cao quý không làm tổn thương ai cả.

16. Như cây nến không thể cháy mà không có lửa; người không thể sống nếu không có đời sống tâm linh.

17. Nếu tìm thấy một nhà phê bình khôn ngoan để chỉ ra những lỗi lầm của mình, hãy làm theo anh ta vì bạn sẽ được hướng dẫn đến kho tàng bí ẩn.

18. Bình yên đến từ bên trong. Đừng tìm nó bên ngoài.

19. Khi đang sống trong bóng tối, tại sao bạn không đi tìm ánh sáng?

ảnh lời Phật dạy,bài học cuộc sống,suy ngẫm,Đức Phật,chân lý cuộc đời

20. Bí quyết để có sức khỏe cho cả tinh thần lẫn thể xác không phải là hờn trách quá khứ hay lo sợ về tương lai, mà là sống trong giây phút hiện tại một cách khôn ngoan và nghiêm túc.

21. Người có trí tuệ hãy thổi bay những cấu uế của bản thân mình, như một người thợ rèn thổi sạch những cặn bã của chất bạc, từng tí một, từng cái một, và từng lúc một.

22. Đừng cố xây dựng hạnh phúc trên sự bất hạnh của người khác, bạn sẽ vướng vào lưới của hận thù.

23. Người khôn ngoan có tính kỷ luật về thân, khẩu, ý. Họ thực sự kiểm soát rất tốt những điều đó.

24. Không ai có thể cứu ta ngoại trừ chính ta. Không ai có thể và không ai sẽ làm thế. Chúng ta phải đi trên con đường của chính mình.

25. Kiên quyết rèn luyện mình để có được sự bình yên.

26. Thiền định mang lại sự thông tuệ, không thiền định sẽ dẫn đến vô minh. Hiểu rõ những gì dẫn dắt bạn hướng về phía trước, những gì cản trở bạn và lựa chọn con đường dẫn đến sự thông tuệ.

27. Hãy cho đi, ngay cả khi bạn chỉ có một chút.

28. Hãy vững như bàn thạch để không bị lung lay trước giông bão, những người khôn ngoan cũng không bị ảnh hưởng bởi những lời khen chê theo cách đó.

29. Đừng lãng phí một phút giây nào, những phút giây lãng phí sẽ khiến bạn đi thụt lùi.

30. Nếu bạn quên niềm vui của cuộc sống và bị mắc kẹt trong những thú vui của thế gian, bạn sẽ ghen tị với những người đặt thiền định làm đầu.

31. Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.

32. Nếu bạn không muốn rước phiền não vào người, thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho bạn. Vì chính tâm bạn không buông xuống nổi.

33. Bạn hãy luôn cảm ơn những ai đem đến nghịch cảnh cho mình.

34. Bạn phải luôn mở lòng khoan dung lượng thứ cho chúng sanh, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm tổn thương bạn, bạn phải buông bỏ, mới có được niềm vui đích thực.

35. Khi bạn vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi bạn đau khổ, bạn hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn.

36. Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm hối hận cho ngày mai.

37. Bạn có thể có tình yêu nhưng đừng nên dính mắc, vì chia ly là lẽ tất nhiên.

38. Đừng lãng phí sinh mạng của mình trong những chốn mà nhất định bạn sẽ ân hận.

39. Khi nào bạn thật sự buông xuống thì lúc ấy bạn sẽ hết phiền não.

40. Mỗi một vết thương đều là một sự trưởng thành.

ảnh lời Phật dạy,bài học cuộc sống,suy ngẫm,Đức Phật,chân lý cuộc đời

41. Người cuồng vọng còn cứu được, người tự ti thì vô phương, chỉ khi nhận thức được mình, hàng phục chính mình, sửa đổi mình, mới có thể thay đổi người khác.

42. Bạn đừng có thái độ bất mãn người ta hoài, bạn phải quay về kiểm điểm chính mình mới đúng. Bất mãn người khác là chuốc khổ cho chính bạn.

43. Một người nếu tự đáy lòng không thể tha thứ cho kẻ khác, thì lòng họ sẽ không bao giờ được thanh thản.

44. Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác.

45. Hủy diệt người chỉ cần một câu, xây dựng người lại mất ngàn lời, xin bạn “Đa khẩu hạ lưu tình”.

46. Vốn dĩ không cần quay đầu lại xem người nguyền rủa bạn là ai? Giả sử bạn bị chó điên cắn một phát, chẳng lẽ bạn cũng phải chạy đến cắn lại một phát?

47. Đừng bao giờ lãng phí một giây phút nào để nghĩ đến người bạn không hề yêu thích.

48. Mong bạn đem lòng từ bi và thái độ ôn hòa để bày tỏ những nỗi oan ức và bất mãn của mình, có như vậy người khác mới khả dĩ tiếp nhận.

49. Cùng là một chiếc bình như vậy, tại sao bạn lại chứa độc dược? Cùng một mảnh tâm tại sao bạn phải chứa đầy những não phiền như vậy?

50. Những thứ không đạt được, chúng ta sẽ luôn cho rằng nó đẹp đẽ, chính vì bạn hiểu nó quá ít, bạn không có thời gian ở chung với nó. Nhưng rồi một ngày nào đó khi bạn hiểu sâu sắc, bạn sẽ phát hiện nó vốn không đẹp như trong tưởng tượng của bạn.

51. Sống một ngày là có diễm phúc của một ngày, nên phải trân quý. Khi tôi khóc, tôi không có dép để mang thì tôi lại phát hiện có người không có chân.

52. Tốn thêm một chút tâm lực để chú ý người khác chi bằng bớt một chút tâm lực phản tỉnh chính mình, bạn hiểu chứ?

53. Hận thù người khác là một mất mát lớn nhất đối với chính mình.

54. Mỗi người ai cũng có mạng sống, nhưng không phải ai cũng hiểu được điều đó, thậm chí trân quý mạng sống của mình hơn. Người không hiểu được mạng sống thì mạng sống đối với họ mà nói chính là một sự trừng phạt.

55. Tình chấp là nguyên nhân của khổ não, buông tình chấp bạn mới được tự tại.

56. Đừng khẳng định về cách nghĩ của mình quá, như vậy sẽ đỡ phải hối hận hơn.

57. Khi bạn thành thật với chính mình, thế giới sẽ không ai lừa dối bạn.

58. Người che đậy khuyết điểm của mình bằng thủ đoạn tổn thương người khác là kẻ đê tiện.

59. Người âm thầm quan tâm chúc phúc người khác, đó là một sự bố thí vô hình.

60. Đừng gắng sức suy đoán cách nghĩ của người khác, nếu bạn không phán đoán chính xác bằng trí huệ và kinh nghiệm thì mắc phải nhầm lẫn là lẽ thường tình.

61. Muốn hiểu một người, chỉ cần xem mục đích đến và xuất phát điểm của họ có giống nhau không, thì có thể biết được họ có thật lòng không.

62. Chân lý của nhân sinh chỉ là giấu trong cái bình thường đơn điệu.

63. Người không tắm rửa thì càng xức nước hoa càng thấy thối. Danh tiếng và tôn quý đến từ sự chân tài thực học. Có đức tự nhiên thơm.

64. Thời gian sẽ trôi qua, để thời gian xóa sạch phiền não của bạn đi.

65. Bạn cứ xem những chuyện đơn thuần thành nghiêm trọng, như thế bạn sẽ rất đau khổ.

66. Người luôn e dè với thiện ý của người khác thì hết thuốc cứu chữa.

67. Nói một lời dối gian thì phải bịa thêm mười câu không thật nữa để đắp vào, cần gì khổ như vậy?

68. Sống một ngày vô ích, không làm được chuyện gì, thì chẳng khác gì kẻ phạm tội ăn trộm.

69. Quảng kết chúng duyên, chính là không làm tổn thương bất cứ người nào.

70. Im lặng là một câu trả lời hay nhất cho sự phỉ báng.

71. Cung kính đối với người là sự trang nghiêm cho chính mình.

72. Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả.

73. Đến là ngẫu nhiên, đi là tất nhiên. Cho nên bạn cần phải “Tùy duyên mà hằng bất biến, bất biến mà hằng tùy duyên”.

74. Từ bi là vũ khí tốt nhất của chính bạn.

75. Chỉ cần đối diện với hiện thực, bạn mới vượt qua hiện thực.

76. Lương tâm là tòa án công bằng nhất của mỗi người, bạn dối người khác được nhưng không bao giờ dối nổi lương tâm mình.

77. Người không biết yêu mình thì không thể yêu được người khác.

78. Có lúc chúng ta muốn thầm hỏi mình, chúng ta đang đeo đuổi cái gì? Chúng ta sống vì cái gì?

79. Đừng vì một chút tranh chấp mà xa lìa tình bạn chí thân của bạn, cũng đừng vì một chút oán giận mà quên đi thâm ân của người khác.

80. Cảm ơn đời với những gì tôi đã có, cảm ơn đời những gì tôi không có.

81. Nếu có thể đứng ở góc độ của người khác để nghĩ cho họ thì đó mới là từ bi.

82. Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng gây thương tổn, đừng khoe tài cán của mình, đừng phô điều xấu của người, tự nhiên sẽ hóa địch thành bạn.

83. Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình.

84. Nhân quả không nợ chúng ta thứ gì, cho nên xin đừng oán trách nó.

85. Đa số mọi người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối.

86. Tâm là tên lừa đảo lớn nhất, người khác có thể dối bạn nhất thời, nhưng nó lại gạt bạn suốt đời.

87. Chỉ cần tự giác tâm an, thì đông tây nam bắc đều tốt. Nếu còn một người chưa độ thì đừng nên thoát một mình.

88. Khi trong tay bạn nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì bạn chỉ có mỗi thứ này, nếu bạn chịu buông xuống, thì bạn mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.

89. Nếu bạn có thể sống qua những ngày bình an, thì đó chính là một phúc phần rồi. Biết bao nhiêu người hôm nay đã không thấy được vầng thái dương của ngày mai, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành tàn phế, biết bao nhiêu người hôm nay đã đánh mất tự do, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành nước mất nhà tan.

90. Bạn có nhân sinh quan của bạn, tôi có nhân sinh quan của tôi, tôi không dính dáng gì tới bạn. Chỉ cần tôi có thể, tôi sẽ cảm hóa được bạn. Nếu không thể thì tôi đành cam chịu.

91. Bạn hy vọng nắm được sự vĩnh hằng thì bạn cần phải khống chế hiện tại.

92. Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Bạn càng nguyền rủa họ, tâm bạn càng bị nhiễm ô, bạn hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của bạn.

93. Người khác có thể làm trái nhân quả, người khác có thể tổn hại chúng ta, đánh chúng ta, hủy báng chúng ta. Nhưng chúng ta đừng vì thế mà oán hận họ, vì sao? Vì chúng ta nhất định phải giữ một bản tánh hoàn chỉnh và một tâm hồn thanh tịnh.

94. Nếu một người chưa từng cảm nhận sự đau khổ khó khăn thì rất khó cảm thông cho người khác. Bạn muốn học tinh thần cứu khổ cứu nạn, thì trước hết phải chịu đựng được khổ nạn.

95. Thế giới vốn không thuộc về bạn, vì thế bạn không cần vứt bỏ, cái cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp. Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng không thuộc về ta.

96. Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ.

97. Lấy từ bi và ôn hoà để thắng nóng giận. Lấy hiền lành để thắng hung dữ. Lấy bố thí và lòng rộng rãi để thắng tham lam. Lấy chân thật để thắng giả dối.

98. Lửa giận hờn một khi đã phát ra, có thể đốt cháy và làm tiêu tan muôn mẫu núi rừng công đức.

99. Hận thù diệt hận thù, là điều không thể có. Tình yêu diệt hận thù, là định luật ngàn thu.

100. Không có con đường dẫn đến hạnh phúc, hạnh phúc chính là con đường.

Lời Phật Dạy Về Cuộc Sống Con Người

Đạo Phật nói cuộc đời là biển khổ mênh mông không có ngày thôi dứt, vì nhân loại lúc nào cũng đấu tranh giành giựt, chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên để rồi giết hại lẫn nhau, lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu. Con người đau khổ bởi sinh-già-bệnh-chết, tâm đau khổ vì phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.

Trong gia đình khổ vì phải làm việc vất vả, nhọc nhằn để lo cơm áo gạo tiền, rồi thương yêu xa lìa khổ, oán ghét mà gặp nhau hoài lại càng khổ hơn, mong cầu mà không được cũng khổ, thân ốm yếu hoặc sung mãn quá cũng khổ.

Nghèo cùng với bao nỗi thiếu thốn, khó khăn, khổ là lẽ đương nhiên nhưng người giàu sang phú quý vẫn có những nỗi khổ niềm đau riêng. Ngoài xã hội lại khổ vì đấu tranh, giành giựt, hơn thua, phải trái, cứ như thế oán giận thù hằn ngày càng thêm chồng chất. Với hoàn cảnh thì phải khổ về thiên tai, sóng thần, động đất, bão lụt, hạn hán, mất mùa, dịch bệnh tràn lan vì sự ngu si mê muội của con người.

Chúng ta thường nghe người đời than thở: Trời ơi, tại sao tôi khổ quá vậy nè? Ông trời ngó xuống mà coi, làm sao cho tôi hết khổ đây trời ơi! Người đời thường trách đất kêu trời, than khổ đủ thứ chuyện vì nghèo khó, vì bệnh tật, vì thất nghiệp, vì thất tình, vì mất mát, vì chia lìa. Tuy nhiên, cũng có không ít người giàu có, khỏe mạnh, có sự nghiệp, có tình yêu nhưng vẫn kêu khổ, khổ ơi là khổ. Người già than khổ đã đành, người trẻ cũng lại than khổ. Người ngu dốt than khổ, kẻ thông minh cũng than thở đủ thứ chuyện. Nói tóm lại, già trẻ, lớn bé mỗi người đều có nỗi khổ niềm đau riêng.  

Khổ là sao?

Khổ là sự khó chịu, bất như ý, không toại nguyện, là trạng thái tâm lý trái ngược lại với vui vẻ, sung sướng, hạnh phúc, thoải mái, dễ chịu, hài lòng, lạc quan và thỏa mãn… Nỗi đau đớn, buồn phiền, lo lắng, sợ hãi, bất mãn, thất vọng, tuyệt vọng, đau nhức… đều được xem là khổ.

Chúng ta thường nghe nói “có thân là có bệnh”, hay nói cho rõ ràng hơn “có thân phải khổ vì thân”. Chính vì thế, ta cũng đừng trách tại sao phải như thế, con người đều khốn khổ vì mang thân bệnh.

“Khổ vì thân” có hai loại chính: bệnh khổ và tai nạn khổ, còn vô số cái khổ khác cũng làm cho con người ta điên đảo, từ chuyện nhức đầu, đau răng, cảm mạo cho đến những bệnh nan y do ảnh hưởng ô nhiễm của môi trường độc hại gây ra.

Như vậy, ai làm người cũng khổ vì thân hay bệnh khổ là điều tất yếu trên thế gian này. Nhưng, những cái khổ đó chưa quan trọng bằng cái khổ bởi vô minh trong nhiều đời gây ra, có nghĩa là không phân biệt được đúng sai, chánh tà, phải quấy, tốt xấu.

Một người bình thường nhìn thấy người khiếm thị hoặc tật nguyền, họ nghĩ rằng nạn nhân chắc là thống khổ lắm. Nếu nạn nhân đó bị bẩm sinh thì họ cũng có cảm giác bình thường như bao người bình thường khác về thân thể, còn người đang mù bỗng nhiên được chữa trị làm cặp mắt sáng lại thì có cảm giác sung sướng hơn người đang bình thường.

Chính vì vậy, một người đang sáng mắt và một bệnh nhân được chữa lành sáng mắt có cảm thọ khác nhau là do sự tác động tâm lý mà có. Nếu thân vật lý không bị tác động bởi trạng thái tâm lý thì cái gọi là khổ của thân vật chất chưa hẳn là thật khổ.

Cuộc sống của chúng ta có quá nhiều nỗi khổ niềm đau luôn luôn bám víu vào thân phận con người; khổ về bản thân như đau ốm, bệnh tật, già nua; khổ vì người thân trong gia đình như bị mất mát, chia lìa; khổ vì vợ chồng không cảm thông và tha thứ cho nhau nên dẫn đến ly dị; khổ vì con cái bụi đời, nghiện ngập, hút sách, bê tha, hư hỏng; khổ vì phải làm việc nhọc nhằn, vất vả để lo cho gia đình người thân như lo ăn, lo uống, lo mặc, lo chỗ ăn ở, lo nghèo giàu và đủ thứ chuyện khác; khổ vì hoàn cảnh như chiến tranh, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, mất mùa, dịch bệnh; khổ vì thi rớt, vì thất tình, vì của cải bị phá sản, vì thua bài bạc bán hết gia tài, vì bị giựt hụi mất hết một số tiền lớn v.v… Luận về những nỗi khổ ở đời thì bất cứ ai cũng có những nỗi khổ niềm đau của riêng mình. Thực khó mà kể ra cho hết được.

Khổ được biểu hiện qua phần thân và tâm. Cơ thể đau nhức là nỗi khổ ở thân này, chẳng hạn như cảm giác đau đớn do bệnh tật hay tai nạn và cảm thấy khó chịu do nóng lạnh, đói khát. Tâm đau khổ như bất mãn, phiền muộn, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi, bất an bởi những thứ không được hài lòng vừa ý.

TRÊN ĐỜI NÀY ĐIỀU GÌ LÀ KHỔ NHẤT?

Một thầy tỳ kheo nói: “Con người khổ nhất là do lòng tham dục phát sinh quá đáng, khi sự tham dục không được thỏa mãn, con người sẽ cảm thấy khổ đau. Nó có thể dằn vặc, hành hạ mình ghê gớm. Nhiều người chịu không nỗi phải quyên sinh tự tử.”

Thầy tỳ kheo khác lại nói: “Trong cuộc sống, khổ nhất là không được ăn uống no đủ, sự thèm khát trong thiếu thốn làm cho con người ta khốn khổ không gì có thể so sánh được.”

Thầy thứ ba không chịu nên nói: “Con người khổ nhất là khi tức giận, oán thù một ai đó, mặt mày trông dữ tợn, hiện tướng bốc lửa từ ánh mắt, ngay khi sân giận đó đã làm cho tâm khổ não bất an.”

Một thầy khác lại nói: “Con người khổ nhất là nỗi sợ hãi trước các loài cầm thú hoặc sự khủng bố của con người, không có một giây phút nào cảm thấy bình an.”

Đúng lúc ấy, Phật đang trên đường hoằng hóa độ sinh đã ghé lại thăm các đệ tử của mình. Mỗi thầy tỳ kheo bèn trình bày quan điểm “cái gì là khổ nhất” với Ngài. Phật nghe xong mới nói: “Các con đều chưa nói được cái gốc của khổ, tất cả những điều các con nói chỉ đúng một phần thôi, giống như người mù sờ voi vậy, mỗi người đều chỉ nói đúng một phần.

Trong số các con, có người từng là chim bồ câu tái sinh nên mới nói rằng tham dục là khổ, có người kiếp trước làm con chim ưng bị đói khát nên cho rằng sự đói khát là khổ, có người là rắn độc tái sinh nên nghĩ sân hận là khổ não, có người kiếp trước là thỏ nên luôn cảm thấy sợ hãi là khổ. Tất cả từ con người cho đến loài có tình thức đều phải chịu sự chi phối của sinh-già-bệnh-chết nên đau khổ vô cùng tận không luận là giàu nghèo hay sang hèn.”

Chúng ta thường bắt gặp những hình ảnh giản dị của người nông dân qua cuộc sống hàng ngày như người chồng dựng vội cái cày, cái cuốc để uống nước chè, trong khi bà vợ ném vội nắm thóc cho đàn gà rồi bước vào chuồng heo để tẩy uế và tắm mát cho chúng.

Trong những vật nuôi trong nhà, trâu, bò, ngựa, heo, chó, mèo, gà là những con vật không thể thiếu ở nông thôn. Họ lý giải chức năng của chúng thật chặt chẽ, rõ ràng. Con trâu, con bò cày ruộng. Con ngựa kéo xe, con chó giữ nhà, con mèo bắt chuột, con gà chạy lăng xăng, bươi mỗ kiếm chút đồ thừa thải.

Ngày xưa, có gia đình nọ làm nghề nông, trong nhà có nuôi một con trâu, hai mẹ con nhà ngựa, một con chó, một đàn heo cùng với đàn gà dăm ba chục con. Mỗi ngày, trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chiều tối mới về, còn chó ta chỉ việc nằm phè ở nhà dòm chừng trong ngoài trước sau.

Một hôm, trâu đi cày về thấy chó nằm dài trước cửa nhà, mắt nhắm lim dim trông thật nhàn hạ, thoải mái, sung sướng làm trâu ganh tị, tức tối muốn điên lên nên bèn nói lời mỉa mai: “Chú chó nhà mày thật hạnh phúc quá, ăn no rồi chỉ loanh quanh, lẫn quẩn trong xó nhà, lúc nào làm biếng thì nằm phè ra đó. Mày thật là có phước nhất nhà này”.

Chó nhà ta nghe trâu nói lời hậm hực, nặng nhẹ thì buồn bã trong lòng, nghĩ rằng trâu tuy to xác nhưng không có chút trí tuệ nào nên mới phát ra những lời lẽ so đo, ganh tỵ như thế.

Chó bèn nói với trâu rằng: “Này anh trâu ơi, anh không thể nào hiểu hết hoàn cảnh của tôi đâu, tôi nào có sung sướng, hạnh phúc gì như anh tưởng. Anh tuy làm lụng vất vả, nhọc nhằn ngoài đồng ruộng nhưng còn có thời gian để nghỉ ngơi. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật ra tôi rất mệt mỏi và căng thẳng lắm. Tôi tuy nằm lim dim mà trong lòng lúc nào cũng lo sợ phập phòng, cứ phải nơm nớp không yên vì sợ mất mát đồ đạc của ông bà chủ, không dám lơ là hay chểnh mảng một chút nào. Nếu ngủ quên hay sơ ý để xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được yên thân.

Đêm đêm, trong khi mọi người yên giấc ngủ ngon lành thì tôi có được nghỉ ngơi gì đâu, tôi phải vểnh lỗ tai lớn ra để nghe ngóng, dòm ngó động tĩnh trước sau đề phòng kẻ gian, hễ nghe có tiếng động gì thì phải sủa to lên để báo cho chủ nhà hay biết. Hôm nào hai vợ chồng chủ nhà vui vẻ thì tôi được cho ăn no đủ một tí, khi hai người giận nhau hay buồn bực chuyện gì thì họ đều trút đổ lên đầu tôi hết. Họ đánh, họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi như là con chó ghẻ vậy đó. Mỗi khi gia đình, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa thì họ chửi tôi là đồ ngu dốt, “bộ mày mắt đui hả?” Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ chửi rủa, đánh đập đuổi đi. Anh trâu à, anh thử suy nghĩ coi, anh và tôi ai sướng hơn ai?”.

Trâu nhà ta nghe nói vậy mới hiểu được hoàn cảnh khổ tâm của chó nên trong lòng rất ăn năn và hối hận vô cùng bởi những lời nói trịch thượng của mình.

Trâu ta liền xin lỗi chó: “Đúng là mày còn vất vả, khổ sở hơn tao rất nhiều. Tao với mày tuy ở chung một nhà mà chưa có một lần nào được trò chuyện, tâm tình nên mới hiểu lầm mà trách móc lẫn nhau. Bây giờ tao đã hiểu hết nỗi khổ, niềm đau của mày rồi. Tao nghe mày nói tao mới biết, cả hai chúng ta đều khổ cả, chẳng ai sung sướng gì đâu”.

Khi ấy, chó ta quay sang đàn gà đang chạy đùa tung tăng bươi móc, tìm kiếm thức ăn mà ganh tỵ: “Đúng là lũ gà sướng thật, vừa mới mở mắt ra đã được bà chủ cho ăn bữa sáng bằng những hạt thóc được mẹ con nhà ngựa chở từ ngoài đồng về.” Chó ta thèm chảy nước miếng khi thấy đàn gà vừa kiếm ăn, vừa đùa giỡn. Nó vừa than thở, vừa ước ao phải chi cũng được sinh làm gà thì sướng biết mấy.

Chú gà trống đầu đàn nghe chó ước vậy bèn quay sang nói rằng: “Này anh chó, chúng tôi chả sung sướng gì đâu. Tuy được ông bà chủ cho ăn và còn có nhiều thức ăn khác chung quanh sân vườn nhà nhưng chúng tôi cũng khổ lắm anh ạ. Ông chủ tôi nuôi gà trống để đi đá độ cho thỏa mãn thú tính tàn nhẫn, kích bác chúng tôi tàn sát nhau để vui trong sự oán giận, thù hằn của chúng tôi. Con người nuôi gà để lấy trứng bán và ăn, lúc nào họ thèm khát thì cắt cổ, nhổ lông, mần thịt chúng tôi để ăn uống, vui chơi thỏa thích. Thật ra chúng tôi cũng khổ lắm anh chó ơi!”

Trâu đang nghe lũ gà phân trần với chó thì tự nghĩ “rốt cuộc con người nuôi các loài vật chỉ với mục đích gánh vác bớt công việc nặng nhọc và làm thức ăn nhằm bồi bổ thân xác theo quan niệm trời sinh ra vạn vật. Thật là quá tàn nhẫn!”

Đang nghĩ vẩn vơ, trâu bỗng nghe tiếng chim hót ríu rít trên cành cây cao. Nó nhìn lên thấy các chú chim vui đùa bên nhau mà thầm ước ao được như thế rồi ngậm ngùi thương xót cho số phận của mình, chó và bọn gà sao quá khổ sở, nhọc nhằn. Trâu tự than thở: “Bọn chim trời, cá nước thật là diễm phúc và sung sướng làm sao. Chúng có thể tự do, tự tại bay lượn, bơi lội đó đây mà không bị ngăn ngại, không bị ai giam cầm, quản thúc, không phải làm việc nhọc nhằn, vất vả, không phải chịu nỗi khổ, niềm đau của kiếp làm tôi mọi cho con người. Giá mà chúng ta có được cuộc sống vui vẻ như các loài chim, cá thì vui sướng, hạnh phúc biết chừng nào.”

Khi ấy, một chú chim nghe lời trâu than vãn bèn đáp lên lưng trâu mà nói rằng: “Bác trâu ơi, bác đâu có biết chúng cháu cũng chả sung sướng gì như bác nghĩ. Tuy loài chim chúng cháu không phải trông nhà giữ cửa, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng, bó buộc, kèm kẹp của con người nhưng chúng cháu cũng có nỗi khổ, niềm đau riêng của mình bác trâu ạ.

Mạng sống của chúng cháu luôn bị đe dọa từng ngày, chúng cháu lo sợ các chú chim lớn rình mò chụp bắt đã đành, lại còn lo sợ những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng cháu bất cứ lúc nào không hay. Tổ của chúng cháu làm rất khó khăn, vất vả biết bao nhưng chưa chắc ở được lâu ngày vì sự phá hoại của con người. Trứng do chúng cháu sinh ra chưa kịp nở thì đã bị con người lén lấy mất.

Loài người lúc nào cũng biết thương yêu, chiều chuộng con cái của mình nhưng nào biết thương hại con của các loài vật. Các chú, các bác chỉ bị hành hạ làm lụng khổ sở, nhọc nhằn đôi chút, còn chúng cháu lúc nào cũng sống trong lo âu, sợ hãi vì hay bị loài người tìm cách tước đoạt mạng sống.

Các bác biết đó, đâu phải chết rồi là được yên thân, loài người còn tàn nhẫn hơn khi đem chúng cháu đi nhổ lông, vặt cánh, xẻ thịt, nấu nướng, làm đủ các món thức ăn khiến thân thể chúng cháu tan nát, rã rời. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ có trí khôn nên mặc tình sát sinh hại vật, nào có biết thương yêu, tôn trọng sự sống của muôn loài.

Các chú, các bác có cái khổ của các chú, các bác, còn chúng cháu cũng có cái khổ của chúng cháu, sống mà cứ phập phòng nơm nớp lo sợ trong từng phút giây, sống được ngày nào thì mừng cho ngày đó. Thật ra, trên cõi đời này không có loài vật nào được sung sướng cả, nếu có cũng phải trả một giá rất đắc đối với loài người vô liêm sỉ đó.”

Bầy cá đang ở dưới nước nãy giờ nghe bác trâu nói mình sung sướng, thoải mái quá nên cũng không đồng ý mà vội vàng phân bua: “Dạ, xin thưa với các bác, loài cá chúng con cũng không sung sướng, hạnh phúc gì lắm đâu. Nhà cá chúng con thường bị loài người giăng lưới đánh bắt, mỗi lần bị sát hại chết đến cả hàng ngàn, hàng vạn con, không sao kể hết tội lỗi của loài người.

Chúng con lúc nào cũng sống trong lo âu, sợ hãi. Loài người rất khôn ngoan và mưu ma chước quỷ. Nơi nào có chúng con ở là loài người dùng đủ mọi cách câu giăng, lưới bắt, tát cho bằng được. Cá lớn, cá nhỏ gì chúng đều lượm sạch ráo, chẳng tha con nào. Bắt bằng tay, bằng lưới không được thì chúng dùng điện chích hay bỏ thuốc độc để bắt cho được hết loài cá chúng con.”

Một chú ngựa con ở gần đó đang lui hui tìm chút cỏ non để qua cơn đói khát thì bỗng nhiên nghe mùi thơm phức làm bao tử chú cồn cào khó chịu, chú tò mò đến gần xem sự thể ra sao. Chú thấy bầy heo đang nhốn nháo khi con người mang thức ăn đến đổ vào máng, chúng tranh nhau táp phầm phập trông rất ngon lành, thoáng phút chốc các máng đều hết sạch, rồi mỗi con một chỗ nằm phè ra ngủ say sưa.

Ngựa con nhìn thấy mà thèm chảy nước miếng, vừa buồn tủi, vừa giận trách loài người sao quá bất công. Hai mẹ con ngựa làm lụng vất vả cả ngày mà chỉ ăn toàn cỏ khô, loài heo kia chẳng làm gì mà lại được ăn lúa mạch, bắp rang thơm phức.

Trong lòng bực bội, ngựa con tức tối về nhà tìm gặp ngựa mẹ để hỏi cho ra chuyện. “Mẹ ạ, sáng nay con vô tình đến chỗ nhà heo thấy chúng được ăn món ngon thượng vị, con nào cũng mập ú ù ra vẻ oai phong lẫm liệt, chẳng phải nhọc nhằn làm việc vất vả mà được ăn no đủ, tắm mát rồi nằm phè ra ngủ một cách ngon lành. Thật là sung sướng làm sao! Ước gì con cũng được như thế mẹ nhỉ?”

Nghe con mình nói như vậy, ngựa mẹ chẳng thèm trả lời mà bình thản, an nhiên gặm cỏ khô. Ngựa con ấm ức quá mới phân trần với ngựa mẹ: “Mẹ à, sao loài người quá bất công khi để loài ngựa chúng ta phải nhọc nhằn gánh vác, chuyên chở hàng hóa, đưa người đón bạn, vào sanh ra tử xông pha chiến trường để bảo vệ tổ quốc, chịu lao khổ trăm bề, vậy mà thức ăn chỉ toàn cỏ khô và nước lã, chẳng công bằng tí nào. Loài heo chúng nó thật có phước quá, chúng chỉ ăn no rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, chẳng phải làm gì cực nhọc mà thức ăn lại thơm ngon đáo để.”

Ngựa mẹ bảo: “Con à, mỗi loài đều có phước báo riêng, con không nên vì thế mà than thân trách phận. Chúng ta hãy chấp nhận cuộc sống hiện tại có gì ăn nấy, miễn sao tạm no đủ là được rồi, đừng vì muốn món ngon vật lạ mà khổ lụy trong hiện tại và mai sau. Con muốn ăn loại thức ăn đó cũng không khó gì, nhưng con hãy ráng chờ thêm vài ngày nữa thì sẽ biết rõ mọi chuyện.”

Tuy được ngựa mẹ khuyên nhũ kiên nhẫn chờ đợi nhưng ngựa con vẫn còn tiếc nuối khi nhớ lại hình ảnh ăn ngon, tắm mát, ngủ kỹ của nhà heo. Vài ngày sau, bầy heo bị loài người trói gô lại tất cả, kêu la eng éc nghe thảm não vô cùng. Ngựa con nghe thấy bèn chạy đến xem sao. Thật là một cảnh tượng quá hãi hùng và khủng khiếp. Chú thấy một người đồ tể đi đến chỗ bầy heo đâm thẳng vào tim chúng làm máu chảy xối xả, kèm theo đó là những tiếng kêu la thảm thiết, đau thương. Sau khi thọc huyết xong, họ đổ nước sôi lên khắp thân thể chúng rồi cạo lông nghe sồn sột, cuối cùng tất cả đều bị chặt đầu, mổ bụng, lột da xẻ thịt và cho lên xe chở đi.

Ngựa con bây giờ mới thức tỉnh, chú liền nhanh chân bỏ chạy về nhà, vừa thấy mẹ chú ta liền nói: “Mẹ ơi, giờ con đã hiểu ra rồi, con cám ơn mẹ rất nhiều.” Ngựa mẹ bảo: “Nghiệp duyên của chúng ta là ngựa thì mình phải có trách nhiệm vận chuyển hàng hóa, đưa đón con người, chuyên làm các việc nặng nhọc để tạo ra miếng ăn, sự sống cho loài người, chỉ chuyên tâm một điều làm việc nào biết việc đó. Loài ngựa chúng ta chấp nhận cuộc sống đạm bạc và rèn luyện trong gian khó, nếu sau này có sự cố gì ta còn có đủ khả năng để vượt qua. Con không thấy loài heo đó sao, chỉ vì ham ăn ngon, ngủ kỹ mà phải chịu quả khổ như vậy.”

Nếu nói về nhân quả thì loài heo trước kia đã từng gieo trồng phước đức, từng bố thí thức ăn thức uống cho nhân loại, nhưng đồng thời gieo nghiệp nhân giết hại do ngu si mê muội mà hiện đời hưởng phước báo ăn ngon, ngủ kỹ nhưng phải đoạ làm heo để bị giết hại trở lại. Heo trong thời kỳ sơ khai lạc hậu con người phải nuôi từ 6 tháng đến một năm rồi mới làm thịt. Ngày hôm nay công nghệ kỹ thuật tân tiến, heo chỉ nuôi hơn 3 tháng là có thể được đưa đến các lò mổ.

Chúng ta thấy rõ ràng nhân quả rất công bằng, sòng phẳng, làm phước thì được hưởng phước. Loài heo được ăn ngon ngủ kỹ mà không phải làm lụng nhọc nhằn, khổ sở; nhưng ngược lại, vì nhân giết hại do ngu si, mê muội nên chịu quả báo mạng sống ngắn ngủi và bị giết hại lại.

Con người vì không biết rõ thực tướng của vạn vật nên si mê chấp thân tâm làm ngã rồi dẫn đến chiếm hữu. Loài heo vì tham ăn ngon, ngủ kỹ nên mới bị đọa lạc như thế. Loài ngựa tuy phải nhọc nhằn, cực khổ làm lụng vất vả, ăn uống đạm bạc, phải ra công vận chuyển giúp đỡ loài người có phương tiện sinh sống, nhưng nhờ vậy chúng lại được tôi luyện.

Loài heo được cho ăn món ngon thượng hạng hằng ngày rồi nằm phè ra ngủ, thấy thế tưởng như ngon lành nhưng không ngờ đang gần kề cái chết mà không hay biết. Ăn ngon ngủ kỹ là căn bệnh trầm kha của nhiều người, đa số ai cũng thích như vậy từ chỗ tham ái chấp trước mà ra.

Trâu nghe chó, chim, gà, cá phân trần sự khổ não của chúng thì cảm thấy thương hại cho các loài vật mà ngửa mặt lên trời, oán trách tạo hóa sao quá bất công khi để các loài vật phải chịu khổ đau như thế. Tại sao thượng đế lại tạo ra nỗi bất công lớn lao như vậy khi chỉ có con người được sống sung sướng, hạnh phúc nhất trên cõi đời này.

Nói như thế rồi trâu ta buồn bã bỏ đi vào chuồng, nằm suy nghĩ mông lung về thân phận của nó và các loài vật khác sao mà khốn khổ quá. Nó nghĩ mà tức giận thượng đế vô cùng. Tại sao ông ta quá bất công, tàn nhẫn. Bất cứ loài vật nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại, cho đến chúa tể sơn lâm hung dữ, ác độc lừng danh như loài cọp mà cũng bị loài người dùng trí khôn để khống chế.

Trâu ta rống lên tiếng rống bi ai, não nuột: “Cuộc đời sao quá bất công, loài người được quyền ăn trên ngồi trước, có tri thức hiểu biết mà tại sao tàn ác, nhẫn tâm đối xử tệ bạc với các loài vật thế này. Ấy vậy mà họ lại được ăn sung mặc sướng, không phải chịu một sự đau khổ nào.”

Đang lúc đó, bỗng trâu nghe rõ ràng tiếng quăng chén, bát, đĩa, muỗng cùng nhiều thứ đồ đạc khác trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết hai ông bà chủ đang lớn tiếng gây gỗ, cãi vã, chửi mắng lẫn nhau.

Tiếng ông chủ gào lên trong cơn giận dữ: “Trời ơi, hãy ngó xuống mà coi, sao tôi phải chịu nhọc nhằn khổ sở đến thế này, làm người gì mà không bằng con trâu, con chó trong nhà nữa. Con trâu đi cày còn có được thời gian để nghỉ ngơi, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu, đa đoan với nhiều công việc, nào là phải lo nhà cửa, vợ con, cơm ăn, áo mặc, tiền bạc, đám tiệc, hội hè, đình đám đủ thứ, làm quần quật suốt cả đêm ngày mà không có lúc nào rảnh rỗi, nghỉ ngơi.

Tôi phải thức khuya dậy sớm, đầu tắt mặt tối, làm lụng nhọc nhằn, vất vả khổ sở như vậy là vì ai? Vậy mà bà vẫn không vừa ý, hài lòng để cho tôi được yên thân một chút, hễ thấy mặt tôi là bà hạch sách, cằn nhằn, càm ràm đủ thứ hết. Bà vừa phải thôi chứ, bà mà làm quá tôi sẽ cho cả nhà ra hết chuồng trâu mà ở để cho vừa lòng hả dạ mấy người.”

Nghe ông chủ nhà nổi nóng, to tiếng quát tháo ầm ỉ lên, trâu ta bỗng giật mình, bất giác mà ngậm ngùi than thở rằng: “Té ra, cuộc sống trên cõi đời này đâu có ai hoàn toàn được sung sướng mà dám bảo đảm mình không bao giờ nhọc nhằn, khổ sở đâu? Từ con người cho đến muôn loài  vật ai cũng phải khổ hết, vì có thân này là có khổ.”

Câu chuyện trên là một bài học sâu sắc nói về giá trị sống của muôn loài vật, muốn bảo tồn mạng sống phải chịu muôn vàn điều khổ đau. Trong cuộc sống, mỗi người đều có một hoàn cảnh, sự nghiệp và việc làm khác nhau. Từ người lãnh đạo đất nước cho đến thứ dân bần cùng đều phải làm việc để lo cơm áo gạo tiền và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Người nắm cán cân công lý thì chịu trách nhiệm chung lo duy trì hài hòa bảo đảm đời sống an vui, hạnh phúc cho toàn dân. Binh sĩ lo bảo vệ biên cương, bờ cõi, an ninh quốc gia. Thương nhân lo kinh doanh, buôn bán. Nông dân và công nhân tích cực lao động sản xuất. Tu sĩ lo gìn giữ đạo đức tâm linh để giúp nhân loại chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay hiện tại và cho cả tương lai.

Hạng người thấp kém thì hay trộm cướp, lường gạt của người khác, hút xách, đàn điếm gây ra tệ nạn xã hội làm khổ cho nhiều người. Hạng có địa vị thì lợi dụng quyền cao chức trọng để được ăn trên ngồi trước, hưởng thụ xa xỉ quá đáng trong khi nhiều người còn quá thiếu thốn, khó khăn.

Nhân đam mê hưởng thụ quá đáng sẽ khiến con người ngày càng sa đọa, gieo đau khổ cho mình và người, giống như loài heo được ăn no ngủ kỹ rồi chờ ngày bị con người phanh da xẻ thịt đau khổ vô cùng. Kẻ ngu si chỉ biết hưởng thụ đam mê nhất thời mà phải chịu khổ triền miên không có ngày thôi dứt. Người trí vì lợi ích an vui lâu dài cho chính mình và tha nhân nên luôn sống đơn giản, muốn ít biết đủ để có cơ hội phục vụ và đóng góp cho con người nhiều hơn.

Tham có nghĩa là tham lam, ham muốn quá đáng như tham sống sợ chết, tham tiền tài, tham sắc đẹp, tham danh vọng, tham ăn ngon ngủ kỹ… Do chấp thân là thật nên tham lam mọi nhu cầu vật chất để phục vụ thân này.

Lòng tham con người được ví như giếng sâu không đáy nên không biết đến đâu là đủ. Khi không có thì tham muốn cho có, khi có rồi thì tham muốn cho thật nhiều, tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sinh ra buồn phiền, giận dỗi, tìm cách trả thù dẫn đến tàn sát, giết hại lẫn nhau gây đau thương và làm tổn hại cho nhiều người.

Quả thật, lòng tham con người vô cùng tận như giếng sâu không đáy, chúng ta có thể dò được đáy sông, đáy biển nhưng không thể đo lường lòng tham của con người vì nó không có bến bờ nhất định.

Chính vì thế, tu sĩ Phật giáo giữ vai trò rất quan trọng trong cuộc sống hiện tại. Họ không phải là những người lười biếng, ăn bám xã hội. Họ có trọng trách thiêng liêng, cao quý là giúp nhân loại chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Thế gian này nếu con người sống không có nhân cách đạo đức tốt đẹp, không có luân thường đạo lý thì xã hội sẽ là một bãi chiến trường đẫm máu mà lịch sử loài người đã chứng minh thực tế rõ ràng. Từ mấy ngàn năm lịch sử, chiến tranh nhân loại xảy ra cũng vì lòng tham lam, ích kỷ của con người.

Đây là những câu chuyện ngụ ngôn mang tính triết lý sâu sắc về nền tảng nhân quả, từ nghiệp nhân si mê mà bị đọa lạc vào các loài súc sinh để trả quả khổ đau. Si là vô minh, là cái bất giác lầm lẫn không biết rõ sự thật nên thành ra có tham hay ham muốn quá độ. Do đó, si là cái khởi đầu bắt nhịp cầu cho tham lam, nóng giận bộc phát. Đúng ra, si là cái ngu tối thâm căn cố đế chẳng biết thế nào là đúng-sai, thật-giả.

Nhưng nếu trong cuộc sống ai cũng có ý thức sống bằng trái tim yêu thương và hiểu biết mà cùng nhau chia vui, sớt khổ, hay làm những việc thiện lành để đem lại an vui, hạnh phúc cho nhân loại thì thế gian này sẽ tốt đẹp biết chừng nào. Ngược lại, con người sẽ chỉ làm khổ nhau vì tâm tham lam, ích kỷ, hẹp hòi; vì tâm si mê, ganh ghét, tật đố, sân hận, muốn bảo vệ quyền lợi cho chủ nghĩa cá nhân.

Đó là một lẽ thực trong cuộc sống hiện tại nên Phật vì lòng từ bi, thương xót chúng sinh mà khuyên nhủ chúng ta không nên giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói dối hại người và không dùng các chất độc hại như rượu chè be bét, hút chích xì ke-ma túy mà làm khổ đau cho nhau.

Song, nếu quán chiếu theo tuệ giác của Thế tôn thì thế gian này khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Khổ và vui như hai mặt lật úp của một bàn tay, đan xen, chồng chéo nhau như một mạng lưới vô hình giăng bủa khắp cuộc đời chúng ta, không một ai có thể thoát được. Ngoại trừ đức Phật Thích-ca Mâu-ni và các chư vị đại Bồ tát, các Ngài đã vượt qua được- mất, khen-chê, tốt-xấu lẫn khổ-vui của cuộc đời để thành tựu đạo quả giác ngộ giải thoát, giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán. Ngài đã tìm ra chân lý kiếp người và biết cách làm chủ bản thân thoát khỏi mọi ràng buộc khổ đau.

Cuộc sống này người trẻ có những cái khổ của người trẻ, người già có những cái khổ của người già, người giàu có những cái khổ của người giàu và người nghèo có những cái khổ của người nghèo. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều có những cái không được hài lòng như ý. Ai cũng có những nỗi khổ về thân như nóng lạnh, bị muỗi mòng chích đốt…

Trong gia đình, con người khổ vì phải sinh-già-bệnh-chết. Ngoài xã hội, con người khổ vì đấu tranh, giành giựt miếng ăn để sống và đủ thứ nỗi khổ, niềm đau đến với con người như yêu thương, xa lìa nên khổ; oán ghét mà gặp nhau hoài là khổ; mong cầu mọi việc mà không được vừa ý cũng khổ. Khổ là một sự thật của muôn loài chúng sinh. Vậy, chúng ta muốn vượt qua nỗi khổ, niềm đau thì phải làm sao?

Có ai sống mà không lo lắng, không hối tiếc, không trông mong, không nhớ nhung, không sầu khổ, không nuối tiếc hay hy vọng một điều gì đó? Có ai sống mà không biết phiền muộn khổ đau, thất chí nản lòng, bi quan yếm thế, chán chường trong cô đơn tuyệt vọng? Có ai dám bảo đảm rằng ta hoàn toàn khỏe mạnh, thoải mái cả hai về mặt thể xác lẫn tinh thần? Chắc chắn là không có ai, ngoại trừ các vị đại Bồ tát và chư Phật thị hiện vào đời để giáo hóa chúng sinh.

Thế giới loài vật cũng có sự sống sinh hoạt song hành với loài người nên cũng bị vô minh chi phối. Loài vật chỉ sống theo quán tính, thói quen, không có sự nhận định, suy xét, tìm tòi, quán chiếu soi sáng như loài người bởi nghiệp si mê nhiều đời chiêu cảm.

Người ham hưởng thụ nhiều cho rằng chết là hết, không tin tội phước, nhân quả nghiệp báo sẽ tranh thủ tận hưởng khoái lạc trần gian bất chấp luân thường đạo lý, cuối cùng gây nhiều tội lỗi tày trời làm băng hoại đạo đức xã hội. Người bi quan yếm thế sẽ chán chường, chẳng muốn làm gì hết vì nghĩ có cố gắng cũng phí công vô ích, thà ăn không ngồi rồi còn sướng hơn.

Người mê tín khi nghe vậy cứ tưởng đấng sáng tạo đang trừng phạt con người nên càng cầu khẩn, van xin ban ân huệ, cuối cùng dẫn đến cuồng tín, si mê không biết phân biệt đúng sai. Người ăn không ngồi rồi, người đầu trộm đuôi cướp, người si mê nghiện ngập sẽ càng sa đoạ hơn khi tin vào những điều huyền hoặc vu vơ. Họ mặc tình ngang nhiên làm nhiều điều phi pháp để kiếm tìm sự hưởng thụ cho thỏa thích vì sợ sau khi chết sẽ làm ma ngáp ruồi. Tất cả những hạng người ấy đều phải chịu quả khổ đau vô cùng tận không có ngày thôi dứt vì quan niệm sai lầm.

Hiện tại, những quả báo chung của các loài có tình thức như thiên tai, sóng thần, động đất, lũ lụt, hoả hoạn, chiến tranh dường như đã được sắp sẵn và đang xảy ra trên thế giới này. Chúng ta có thể biết được nhờ vào mạng lưới thông tin, báo chí hằng ngày; nhưng chúng không đồng loạt, khi thì chỗ này, khi thì chỗ kia, hậu quả từ nhân phá hoại sự sống lẫn nhau trên trái đất.

Riêng con người thì thông minh hơn, ác độc hơn vì có hiểu biết hơn nên có thể giết hại tất cả các loài vật khác, thậm chí có thể giết hại luôn gia đình, người thân của mình. Con người phát triển, mở mang tới đâu thì tàn hại và huỷ diệt thiên nhiên, muôn loài vật tới đó. Giết hại con người thì mạng đền mạng hoặc chịu tù từ 10 năm cho đến chung thân, hơn thế nữa sẽ bị chi phối bởi luật nhân quả mà âm thầm nhiều kiếp bị chết yểu, bệnh hoạn và bị giết hại trở lại.

Giết hại con người thì quả báo nặng hơn các loài khác vì có cộng nghiệp người thân trả thù nên ảnh hưởng nhân quả rất lớn. Giết hại các động vật có tâm thức thì tuỳ theo mức độ cố ý hay vô tình mà thủ phạm phải chịu trả quả bị thương tật, chết chóc, hoặc có thể bị tai nạn chung với nhiều người như thiên tai, dịch bệnh và tai nạn giao thông… Rất nhiều nghiệp nhân khác làm hủy hoại trái đất để phục vụ nhu cầu cuộc sống cho con người như chặt phá cây rừng, khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi làm môi trường ô nhiễm, quả báo phải trả là tai hoạ chung của toàn nhân loại do nhân phá hủy sự sống mà ra.

Người con Phật với tinh thần từ bi, trí tuệ mỗi ngày hãy nên quán sát và xem xét từng hành động, lời nói, suy nghĩ của mình trong từng phút giây không lơ là, giải đãi, muốn ít biết đủ, không xan tham quá mức những nhu cầu hằng ngày.

Con người cần phải chủ động ngồi lại thương thuyết với nhau để cân bằng sinh thái của bầu vũ trụ bao la này, nếu không con người sẽ tự tiêu diệt lẫn nhau và sống trong oán giận thù hằn bởi nhân đấu tranh, giành giựt, chiếm đoạt.

Sở dĩ con người và muôn loài vật phải chịu nhiều đau khổ trong đời chính là do nhân ham muốn, luyến ái dục lạc mà chúng ta nỡ nhẫn tâm tàn sát, giết hại lẫn nhau. Loài vật vì ngu si, mê muội nên phải bị đọa lạc vào chỗ thấp hèn để trả quả xấu ác. Con người có phước hơn vì có hiểu biết và nhận thức sáng suốt, nếu biết vận dụng theo chiều hướng thượng thì đem lại an vui, hạnh phúc cho tất cả chúng sinh; ngược lại sẽ gieo đau thương, tang tóc cho muôn loài thì phải chịu quả báo khổ đau cùng cực.

Những nỗi khổ, niềm đau của muôn loài không bao giờ chấm dứt vì nhân tương tàn, tương sát lẫn nhau. Cho nên, ta nhận biết được cuộc đời là một trường đau khổ và cái khổ sẽ tác động đến tất cả mọi người từ vua chúa, quan quyền cho đến dân đen con đỏ nên phải biết khôn ngoan sáng suốt lựa chọn con đường hướng thượng để rèn luyện nhân cách đạo đức. Ta biết cách làm chủ bản thân mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời nhờ giữ gìn 5 Giới của nhà Phật: không giết hại, trộm cướp lường gạt, tà dâm, nói dối và dùng các chất kích thích như rượu, xì ke-ma túy để làm tổn hại cho nhân loại.

Những nỗi khổ, niềm đau trong kiếp người không bao giờ kể xiết. Nó đeo đẳng, chi phối đời sống của ta như bóng theo hình. Người nghèo phải khổ vì dãi nắng dầm mưa, đầu bán cho trời, lưng bán cho đất, nợ nần chồng chất, con cái thất học, bệnh tật đau yếu, vợ chồng ly tán.

Người giàu phải khổ vì quyền cao chức trọng, sợ người tài giỏi hơn mình, luôn sống trong lo âu vì sợ tiền tài bị mất mát và nỗi khổ đau nhất là con cái bất hiếu, phá sản vì bê tha, nghiện ngập. Xét cho cùng, đã có thân này là có khổ, cho nên ta cần phải cố gắng tu tâm dưỡng tánh để biết cách làm chủ bản thân mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Đức Phật vì lòng từ bi mà thương xót chúng sinh nên đã chỉ ra nỗi khổ niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.

Khổ là một sự thật. Phần lớn mọi người tìm đến chùa học hỏi, tu tập đều do gặp hoàn cảnh trắc trở, khổ đau trong đời sống hằng ngày. Mà khổ từ đâu ra? Từ sự chấp trước thân tâm này làm ngã là ta, là tôi, là mình nên muốn chiếm hữu, rồi từ đó tham muốn quá đáng mà sinh ra các hệ lụy khổ đau.

KHỔ ĐAU KHI MỚI SINH RA

Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam trên hai ngàn năm nay hầu như đã thấm nhuần trong lòng dân tộc về lẽ thật hư của cuộc đời chính là nhờ nói đúng lẽ thật, phù hợp với tinh thần khoa học hiện nay, giúp cho con người có nhận thức sáng suốt và hiểu biết đúng như thật. Cho nên, Phật giáo rất thực tế, không phải huyền hoặc.

Những người lớn tuổi không tìm hiểu đúng Chánh pháp do ảnh hưởng quá nhiều các tín ngưỡng dân gian nên vì vậy mà một số người nghĩ đạo Phật là bi quan yếm thế, chán chường. Đó chính là những nguyên nhân khiến cho Phật pháp đi đến suy tàn. Nếu chúng ta cứ để như thế thì các thế hệ Phật tử về sau chắc chắn sẽ tránh xa đạo Phật vì thấy đạo Phật không còn thích hợp với thời đại mới, với nền khoa học hiện đại.

Bây giờ, chúng ta sẽ tìm hiểu 8 loại khổ qua cách nhìn của đạo Phật: sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, yêu thương xa lìa khổ, mong cầu không như ý khổ, oán ghét gặp nhau khổ, thân này thịnh hay suy cũng đều khổ.

Chúng tôi xin dẫn bài kinh đầu tiên Chuyển Pháp Luân của đức Phật dạy 5 vị Tỳ-kheo trước kia đã từng theo Ngài tu khổ hạnh. Đó là bài kinh nói về Tứ diệu đế. Đây là bài kinh hết sức cụ thể, thực tế, không có gì khó hiểu hay huyền hoặc. Tứ diệu đế là bốn chân lý nhiệm mầu chắc thật, trong đó đế đầu tiên là Khổ đế, nghe từ Khổ đế mọi người đều vội vàng kết luận đạo Phật bi quan quá.

Khổ đế, chữ “đế” nghĩa là chắc thật, không sai chạy. Như vậy, cái khổ Phật đưa ra là một lẽ thật không ai chối cãi được. Khổ có mấy thứ? Đầu tiên là khổ về thân. Thân này có sinh-già-bệnh-chết, bốn thứ đó Phật nói là khổ. Có người chưa chịu sanh là khổ, vì lúc mới lọt lòng mẹ có biết gì đâu mà khổ. Nói không biết gì thì hơi quá đáng, nếu không biết thì ai khóc? Biết khóc tức là có cảm giác khổ, trăm đứa bé lọt lòng mẹ đều khóc, chứng tỏ chúng có cảm thọ khổ. Đó là khổ khi sinh.

Như vậy, đời sống của chúng ta thường gặp khổ nhiều hơn vui. Khi lọt lòng mẹ đã có cảm giác khổ nên trong cuộc sống kéo dài mấy mươi năm cũng khổ. Vì vậy, Phật nói sinh khổ chúng ta chối cãi được không? Thế nhưng, nhiều người lại cứ tưởng như vui, đó là vui trong tưởng tượng thôi chớ không có thật. Vậy mà thiên hạ cứ bảo cuộc đời là hạnh phúc bởi vì nó có nhiều thú vui làm cho con người đam mê say đắm, dính mắc vào đấy mà chịu muôn vàn sự khổ đau. Thực tế, hạnh phúc thì quá ít mà đau khổ thì quá ê chề. Đó là khổ thứ nhất, sinh khổ.

Sinh khổ là nỗi khổ trong sự sinh ra. Loài người khi ở trong thai đã có tình thức. Do có tình thức nên có sự cử động cảm xúc. Khi mẹ ăn thức lạnh vào cảm thấy như ở trong giá băng, lúc ăn thức nóng vào cảm thấy như bị nung đốt. Thai nhi sống trong chỗ chật hẹp, tối tăm và nhơ nhớp, vừa lọt lòng đã kêu khóc oa oa; rồi từ đó khi lạnh-nóng, đói-khát, muỗi kiến cắn đốt chỉ biết kêu khóc mà thôi. Huệ nhãn của Phật thấy rõ những chi tiết ấy nên Ngài mới xác quyết rằng sinh là khổ. Sinh khổ theo tuệ giác của Thế tôn có 5 loại:

– Thọ thai: Lúc thần thức gá vào thai mẹ, ở trong bụng mẹ chật chội và dơ bẩn, chịu nhiều bó buộc.

– Chủng tử: Sau khi thần thức gá vào tinh trùng của cha và noãn cầu của mẹ, thân thể sẽ tùy theo hơi thở của mẹ mà tồn tại, không được tự do thoải mái bởi do nghiệp lực chiêu cảm.

– Tăng trưởng: Thần thức, thân thể ở trong bụng mẹ tăng trưởng mỗi ngày, dưới ruột non, trên ruột già, nằm ở giữa như ở tù. Thai nhi sống nhờ thức ăn thức uống của mẹ và sự hô hấp mà phát triển theo từng giai đoạn.

– Khi được sinh ra: Trải qua gần 10 tháng, thai nhi đã phát triển đầy đủ, đây là thời điểm người mẹ chuyển dạ để sinh. Suốt thời gian dài nằm trong bụng mẹ, sự sống hoàn toàn nương vào mẹ, được mẹ nuôi dưỡng, nâng niu, che chở. Khi thai nhi rời khỏi bụng mẹ, thân thể với da thịt non mềm phải tiếp xúc môi trường mới với khí trời lạnh-nóng, gió-mưa, các vật dụng xúc chạm… sẽ cảm nhận đau buốt như bị châm chích. Bé đau nhưng chưa nói được mà chỉ biết khóc, vì thế chúng ta cần phải có thao tác nhẹ nhàng với em bé mới sinh ra.

– Chủng loại: Mỗi thai nhi đều có một hình tướng thân mạng nam hay nữ với tướng mạo đầy đủ, xinh đẹp hay khiếm khuyết, xấu xí…

Con người khổ trong sự sinh sống và khổ từ khi còn là bào thai trong bụng mẹ. Con phải nằm trong bụng mẹ chật hẹp là khổ, mẹ phải mang nặng đẻ đau biết bao khó nhọc cũng là khổ. Sinh con ra rồi thì cha mẹ cũng khổ vì phải lo lắng cưu mang và cho ăn uống để duy trì mạng sống. Con người sống trên đời phải mưu kế sinh nhai, làm việc nhọc nhằn vất vả nên cũng khổ.

Sự sinh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc mới sinh ra và kế tiếp là khổ trong đời sống. Khổ trong lúc sinh, người sinh và kẻ bị sinh đều khổ. Khi người mẹ mới có thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dã dượi, bất thần, mệt mỏi… Thai mỗi ngày mỗi lớn thì người mẹ mỗi ngày mỗi thêm mệt mỏi, nặng nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp.

Đến khi gần sinh, sự đau đớn hành hạ xác thân người mẹ không sao nói xiết, chỉ có những người từng làm mẹ mới cảm thông cho nỗi đau này. Dầu được thuận thai đi nữa thì mẹ cũng phải chịu sự dơ uế cả tháng trời, yếu đuối nhiều tháng vì tinh huyết hao mòn, ngũ tạng suy kém, nếu không có cha mẹ hai bên chăm sóc thì lại càng khổ não hơn. Còn rủi bị nghịch thai thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn trăm bề, có khi sau một lần sinh bị giải phẫu mà mẹ phải chịu tật nguyền suốt cả cuộc đời.

Còn con, từ khi mới đầu thai cho đến lúc chào đời cũng phải chịu nhiều điều khổ sở. Trải qua 9 tháng 10 ngày con bị giam hãm trong khoảng tối tăm, chật hẹp còn hơn cả lao tù ngục tối. Mẹ đói cơm, khát nước thì con ở trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập phòng. Mẹ ăn no thì con bị ép như bồng bột bị đè dưới thớt cối, khó bề cựa quậy. Đến kỳ sinh sản, thân con phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bể nên khi vừa thoát ra ngoài liền cất tiếng khóc vang: “khổ a! Khổ a!”

Xét về phương diện vật chất hay tinh thần, đời sống con người đều có nhiều khổ sở.  Về vật chất, con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men…

Để có được những nhu cầu cần thiết ấy, con người phải siêng năng làm việc vất vả nhọc nhằn, đổ mồi hôi sôi nước mắt mới mua được chén gạo bát cơm, manh quần tấm áo và các phương tiện sống khác. Về phương diện nhà ở thì có những gia đình phải thuê phòng trọ ở tạm qua ngày vì không có khả năng tạo dựng được một ngôi nhà nho nhỏ.

Cuộc sống của con người chẳng phải đợi đến cảnh đói khát mới gọi là khổ, ăn uống thất thường, thiếu thốn đủ mọi thứ cũng đã là khổ rồi. Đâu phải chỉ có những người nghèo hèn thiếu thốn, khó khăn mới khổ đâu? Người giàu có, sang trọng cũng vẫn khổ như thường. Muốn có tiền bạc vật chất dồi dào thì tất nhiên họ phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt mặt tối trong công việc, đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được.

Xét về phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều điều khổ tâm, nhiều khi còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Tóm lại, xét về vật chất hay tinh thần thì sự sống cũng mang theo nhiều cái khổ. Sinh khổ là như thế bởi vì nó là sự tiếp nối theo quy luật nhân quả nên đời người khổ là lẽ đương nhiên.

CÀNG VỀ GIÀ CÀNG KHỔ ĐAU NHIỀU HƠN

Nói đến sự khổ trong lúc tuổi già, con người khi già yếu thì mắt mờ tai điếc, gối mỏi lưng còng, chân tay run rẩy, ăn không có cảm giác ngon miệng, ngủ không ngon giấc, trí nhớ giảm sút đáng kể, làn da khô nhăn, răng thường đau nhức và rụng bớt. Người tuổi già thường hay lú lẫn, đây là nỗi khổ niềm đau của người già. Dù cho thanh niên cường tráng hay thiếu nữ khỏe mạnh thì theo thời gian rồi cũng phải đối đầu với sự già yếu này.

Chúng ta bây giờ thấy người già thì nên biết soi xét lại chính mình để có sự cảm thông và thương tâm đến họ. Thấy người khác già thì chúng ta biết mình cũng sẽ già, từ đó ta có sự tôn trọng, kính mến, quan tâm giúp đỡ những người già nhiều hơn. Đồng thời, chúng ta quyết tâm sống và tu tập để biết cách làm chủ bản thân mà thoát khỏi sự chi phối khổ sở của tuổi già.

Phật dạy sinh-già-bệnh-chết khổ, đó là một sự thật của kiếp người. Già là khổ. Vì sao già lại khổ? Hiểu biết, nhận thức giảm sút, mắt mờ tai điếc, đi đứng lọng cọng, gối mỏi lưng còng, ăn uống khó khăn… Già như vậy quả thật là khổ. Rồi sao nữa? Bệnh là khổ. Quý vị nào có vào bệnh viện sẽ thấy cảnh từ em bé sơ sinh cho đến người già bệnh phải nhập viện nhưng không đủ chỗ nằm, thậm chí phải nằm ngoài hành lang.

Người già lại thường chậm chạp, luống cuống trong mọi sinh hoạt hằng ngày khi ăn uống, đi đại tiểu tiện… và thường làm nhớp nhơ. Con cháu dù thân thương đến đâu cũng sanh nhàm chán, bực bội, xa lánh, sao lãng bổn phận. Chính những hành động, thái độ thiếu hiểu biết, vô trách nhiệm của con cháu đã khiến người già chịu nhiều đau khổ.

Chỉ có những người con chí hiếu dù ở hoàn cảnh nào cũng thương yêu, kính quí, chăm sóc chu toàn cho ông bà, cha mẹ. Quả thật, tuổi già thật đáng buồn tủi, khổ sầu nếu không biết tu sửa. Thời thanh niên cường tráng đã qua, thời già nua suy yếu đến, mạng sống con người cứ rút ngắn theo thời gian và cuối cùng thể xác đi dần đến hư hoại.

Có những người lớn tuổi già yếu rồi nhưng khi ngồi với nhau chỉ nói toàn những chuyện quá khứ hào hùng như để khoe hay, khoe giỏi nên khi con cháu không đáp ứng nhu cầu cần thiết thì cau có, giận dỗi, buồn phiền. Nhiều người bây giờ đã già mà vẫn không chịu biết mình đang già, nếu khéo nhìn lại thì sẽ thấy rõ mình đã già yếu, bây giờ cần phải dốc tâm tu tập, kiếm chút ít tư lương, tích tạo phước đức để ngày ra đi được an ổn, nhẹ nhàng.

Chúng ta dám nhìn thẳng vào sự thật là đã biết cách học theo hạnh giác ngộ của đức Phật. Lúc còn trai tráng, thái tử đang là một người có đầy đủ tất cả quyền uy, thế lực, văn võ song toàn. Vậy mà khi thấy người già thì liền biết mình rồi cũng sẽ già nua và ốm yếu như thế. Thấy rõ cuộc đời không có gì đáng để gọi là vui nên Ngài đã quyết chí xuất trần. Nhìn nhận, chiêm nghiệm và thấu tột được như vậy là chúng ta đã biết học theo cái nhìn của bậc giác ngộ.

Trong thực tế, con người khi già rồi các căn đều suy yếu, mắt mờ, tai lãng, lưng mỏi, chân run, ăn thấy kém ngon, ngủ không an giấc, trí nhớ chẳng còn minh mẫn, làn da khô nhăn, răng lần lần đau nhức và chuyển rụng.

Lắm kẻ tuổi già lờ lẫn, khi ăn mặc, lúc đại tiểu đều nhớp nhơ, con cháu dù thương tiếc giúp đỡ nhưng lâu ngày cũng sanh nhàm chán, muốn bỏ bê. Xét ra, cái già thật không có gì là vui thú, nếu chúng ta không biết tu tập chuyển hóa thì càng già càng khổ hơn.

THÂN THỂ BỆNH HOẠN ĐAU NHỨC HÀNH HẠ KHỔ

Thân bệnh là sự khổ đau trong cơn đau bệnh. Có thân là có bệnh, từ những loại bệnh nhẹ thuộc ngoại cảm đến các chứng bệnh nặng thuộc nội thương. Trong cuộc thế có rất nhiều người vướng phải những bệnh nan y như ung thư, lao, cùi, tiểu đường, tai biến… Vướng vào những bệnh nan y tự thân cảm thấy đau đớn lại tốn kém, hoặc không có tiền chạy chữa lại càng khổ hơn. Sự khổ lụy không chỉ riêng mình mà còn khiến cho gia đình, người thân bị ảnh hưởng theo. Bệnh khổ có 2 loại:

Thân bệnh: Thân bệnh là tất cả những chứng bệnh con người mắc phải, gánh chịu. Những chứng bệnh này đều do tứ đại không điều hòa mà phát sanh như địa đại không điều hòa thì thân thể nặng nề, phong đại không điều hòa thì thân thể bị tê cứng, thủy đại không điều hòa thì thân thể bị phù thũng, hỏa đại không điều hòa thì thân thể bị nóng bức.

Tâm bệnh: Trong lòng luôn ôm ấp những tâm lý khổ não, buồn thảm, bi ai, lo lắng, bất an, sợ hãi, cô đơn trong tuyệt vọng…

Rồi một lần khác thái tử thấy một người bệnh đang rên đau, ngài nghĩ hóa ra con người ta cũng có khi phải bệnh đau như vậy, cùng là thân người như nhau nhưng người kia đang bị bệnh thì có lúc ngài cũng sẽ bị bệnh như mọi người, đã bệnh thì phải đớn đau, khổ sở trăm bề không có gì là vui hết. Từ đó, thái tử thấy được sự tạm bợ của thân người và sự sống này không có gì bền chắc, ý chí xuất trần trong ngài càng được nung nấu mạnh mẽ hơn.

Chúng ta thấy được như vậy thì không còn nhầm tưởng thấy mình khỏe mạnh mãi để sanh tâm ngã mạn, xem thường người khác. Đồng thời, chúng ta sẽ cảm thông, thương yêu người bệnh và tìm cách để vượt lên, không bị bệnh hoạn khổ đau chi phối.

Từ đó, chúng ta sẽ có tâm đồng cảm, thông cảm, thương yêu bệnh nhân, tôn trọng mọi người, không thờ ơ hay xem thường một ai. Chúng ta thấy người khác bệnh thì liền biết rồi mình cũng sẽ bệnh như mọi người. Người đó bệnh đau, lo sợ, hoang mang thì đến lúc chúng ta bệnh, ta cũng sẽ có những nỗi đau và tâm trạng giống như họ.

Thấy người khác bệnh, ta biết mình rồi cũng sẽ bệnh, từ đó thấy rõ thân này mong manh, giả tạm, không chắc thật nên ta không bám víu, dính mắc. Khi chúng ta không bám víu thân này, cảnh sống này thì các mê lầm, khổ não sẽ không còn. Đồng thời, chúng ta sẽ cảm thông, thương yêu, tôn trọng người bệnh nên thiện căn được tăng trưởng và giảm sự chấp ngã về thân này.

CHẾT LÀ NỖI KHỔ LỚN LAO NÊN AI CŨNG SỢ

Thứ tư là chết khổ. Như chúng ta thấy, người thân khi sắp lâm chung đau đớn, quằn quại rất thống khổ. Đó là chưa kể thần thức hôn mê, người sắp chết thấy những cảnh giới gì đó hiện ra, lòng họ hoảng sợ, kêu gào, than khóc thật thảm thương.

Ai cũng tham sống sợ chết, muốn sống dai, sống già, sống thọ, cho nên nhiều người tìm cách để luyện trường sanh bất tử nhưng cuối cùng rồi ai cũng phải chết. Và chết là một sự thật không tha bất cứ một ai, dù là đức Phật cũng phải xả thọ mạng này khi hết duyên đời. Mình muốn sống hoài mà không được nên ai không biết tu gần chết rất khổ sở vì không biết mình sẽ đi về đâu.

Mọi người đều muốn sống an vui, chết nhẹ nhàng, nhưng việc ấy rất khó toại nguyện, mà phần nhiều thân thể con người luôn bị bệnh khổ hành hạ đau đớn cho đến khi chết. Thân đã bị bệnh khổ như thế, tâm lại càng hãi hùng, lo sợ, tham tiếc tài sản của cải mình tạo ra, luyến tiếc vợ con trước khi nhắm mắt lìa đời nên lại càng khốn khổ hơn. Chết quả thật là rất khổ nên ai cũng sợ. Chết khổ có 2 loại:

Cơn bệnh kéo lâu dài, mạng sống hết nên phải chết.

Chết do duyên bên ngoài đưa đến, còn gọi là chết bất đắc kỳ tử như gặp chuyện không may, bị người giết hại, bị tai nạn mà chết, bị chết nước hoặc lửa thiêu, hay vì chiến tranh loạn lạc mà chết.

Khi đi ra 4 cửa thành, thái tử thấy một người chết, ngài liền nhìn lại và nhận ra rằng, người ấy chết rồi thì cũng đến lúc mình cũng sẽ chết. Ngài càng thấy rõ sự tạm bợ của kiếp người, chí xuất trần càng nung nấu mãnh liệt hơn.

Mới ngày nào đây còn liệt liệt, oanh oanh, sao bây giờ chỉ còn lại một tấm thân tàn ma dại nằm bất động, ai làm gì cũng không biết. Chúng ta bây giờ tận mắt chứng kiến cảnh người chết thì mới thấy tấm thân này quá mỏng manh, kiếp người quá ngắn ngủi, cõi đời thật phù du, giả tạm.

Nếu chúng ta thấy rõ được sự mong manh của kiếp sống con người, thấy được khoảng thời gian sống và chết kề cận một bên thì chúng ta sẽ tỉnh giác mạnh hơn, không bao giờ có sự tranh cãi nhau nữa. Tranh cãi, giận dữ là do người kia không tự làm chủ được chính họ. Chính khi đang giận dữ họ cũng rất khổ sở chứ không sung sướng gì. Mình là người tỉnh táo làm chủ được cảm xúc mới thấy rõ nên thông cảm và thương họ, tội nghiệp cho người ta. Thấy được như vậy thì chúng ta sẽ thương được người hại mình mà không tạo nghiệp khổ đau.

Phật nói thân hiện tại của chúng ta đây mang tính chất đau khổ từ lúc mới sinh cho đến khi trưởng thành rồi già-bệnh-chết, tất cả đều phải trải qua nhiều thống khổ. Đó là một lẽ thật. Mới nghe người ta thấy đạo Phật như bi quan, nhưng thực tế đạo Phật rất lạc quan và yêu đời. Tại vì đạo Phật nói rõ lẽ thật của cuộc đời để mọi người không lầm lẫn mà biết cách làm chủ bản thân trên những khổ vui đó.

Như một ai đó đang gánh một gánh nặng suốt một chặng đường dài nên cảm thấy mỏi mệt, đuối sức, nếu lúc đó để gánh nặng xuống thì họ vui hay khổ? Chắc chắn là vui! Còn gánh nặng trên vai thì còn khổ, để xuống hết nặng rồi nên vui, sau khi biết khổ rồi mới thấy vui chớ cái vui ấy không ngoài sự khổ. Cũng chính vì thế, đạo Phật nói rõ nguyên nhân của sự khổ đau để chúng ta biết cách chuyển hóa, tiêu trừ, khi đó khổ hết thì vui đến.

YÊU THƯƠNG XA LÌA KHỔ

Kế đến là 4 thứ khổ về tâm, tổng cộng vừa khổ thân và khổ tâm là 8 thứ. Nếu kể tiếp theo thì thứ năm là “yêu thương xa lìa khổ”, khổ do thương mến nhau mà phải bị mất mát, bị xa lìa. Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly thì thật không có gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.

Sanh ly khổ: Một gia đình đang sống trong cảnh đầm ấm vui vầy thì bỗng vì hoàn cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy đến như giặc giã, bão lụt, hỏa hoạn… làm cho kẻ ở đầu này trông đợi, người ở góc kia nhớ chờ. Thật đau lòng xót dạ!

Điều này trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc ta càng thấy rõ. Biết bao thanh niên xa gia đình, người thân dấn thân nơi chiến trận chết chóc đau thương không ngày gặp mặt. Người ở nhớ thương, kẻ đi sầu khổ não nề. Ái nhiều thì khổ nhiều, nếu không có ái thì khổ không thành, bởi vì đâu phải ai đi xa mình cũng khổ, chỉ người mình thương yêu nếu đi xa ta mới khổ đau trong nhung nhớ. Khổ này gốc từ tham ái mà ra. Do khao khát, mong muốn được sống gần người mình thương yêu mà phải xa lìa cho nên khổ. Đó là cái khổ của “sanh ly”.

Chết vĩnh biệt khổ: Mặc dù xa cách nhau nhưng người còn sống thì còn có ngày gặp gỡ, chết đi rồi bao thuở được sum vầy. Chính vì vậy, đứng trước cảnh chết chóc đau thương, kẻ ở người đi thương tiếc ngậm ngùi. Do đó, lâm phải cảnh tử biệt này có người đã xót thương rầu rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ; có người đau đớn, khổ sở cho đến tuyệt vọng muốn chết theo người quá cố.

Trong 4 hiện tượng của vô thường sinh-già-bệnh-chết thì “chết” là cái làm cho mọi người lo lắng, sợ hãi nhất. Những người không được may mắn nên bị bệnh nan y như ung thư, bệnh hủi, sida sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống đời mà thôi.

Chúng ta thấy một người bệnh khi hấp hối bị hành hạ xác thân đau đớn trong khổ sở rồi mới biết cái chết là đáng sợ. Người sắp chết mệt mỏi thở không ra hơi, méo miệng, uốn mình, giăng tay, bẻ chân… Chúng ta thử rờ vào người chết thì thấy lạnh ngắt như đồng, thân thể cứng đơ như khúc gỗ.

Con người đang trong cảnh thương yêu mặn nồng chẳng ai muốn xa lìa, nhưng hoàn cảnh trớ trêu kẻ ở người đi trong nỗi nhớ niềm thương. Cái khổ phải biệt ly đối với hai người thương yêu nhau như thế nào thì cái khổ phải hội ngộ đối với hai người ghét nhau cũng như thế ấy.

OÁN GHÉT MÀ GẶP NHAU HOÀI CÀNG KHỔ HƠN

Thứ sáu là “oán ghét mà gặp nhau hoài khổ”. Ngược lại với mến thương là oán ghét. Người mình ghét mà cứ hiện diện trước mặt hoài làm ta rất bực bội, khó chịu, muốn họ đi đâu cho khuất mắt. Nhưng ngặt nỗi, trên đời này người mình thương thì cứ phải chịu xa lìa, còn kẻ mình ghét lại thường hay gặp gỡ. Cái khổ oán ghét này gốc từ sân hận mà ra, do sân hận nên chúng ta rất khổ sở khi làm việc chung với người mình oán ghét.

Chưa nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con quyến thuộc giữa vợ chồng, anh em, có khi vì một lý do gì đó mà sanh ra bất hòa cũng đủ khó chịu rồi, muốn lánh mặt nhau mà mỗi khi đi ra đi vào lại phải gặp nhau mãi, quyết không nói chuyện với nhau mà nhiều khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng khó chịu.

Oán tắng hội khổ là cái khổ đối với những người mình không ưa thích hay ghét cay ghét đắng, muốn tránh cho khuất mắt mà không thể tránh được vì phải làm việc và sống chung với nhau. Trong cuộc đời ai cũng có người mình mến thương, ưa thích, nhưng cũng có người mình thù hằn, ghét bỏ vì một lý do nào đó.

Ngược lại với thương yêu là sự thù hằn, ghét bỏ. Không có gì đau khổ bằng thù ghét mà gặp nhau hoài. Thương và ghét là hai vế đối nghịch nhau, đã thương thì không ghét, đã ghét thì không thương. Vì ta hay ích kỷ, hẹp hòi nên khi thương không được thì sinh ra thù hằn, ghét bỏ, từ sự ganh ghét đó mà mình có thể hãm hại người kia bằng mọi cách.

Thù ghét sẽ làm cho ta xấu xí, khổ đau hơn vì tâm niệm ích kỷ, oán giận, hờn mát trong lòng nên lúc nào cũng mong muốn người ấy bị hại, bị khổ, bị mất mát, bị đau thương, thậm chí còn muốn người đó mau chết đi càng sớm càng tốt.

Khi ta thù ghét ai thì trước tiên ta sẽ khổ trước vì thái độ bực tức không bằng lòng với hiện tại. Người kia chưa khổ nhưng ta đã tự tàn phá sắc đẹp của mình, thậm chí có khi ta không giằng được cơn nóng giận nên đánh đập, hành hạ người thân vì không biết cảm thông và tha thứ. Ta cứ muốn người kia như bản sao của mình, khác đi một chút thì mình không chịu, mình bám víu, chấp trước, thậm chí nhiều khi mình còn ngoan cố, ép buộc người kia phải làm theo.

Ta bây giờ đâu phải như đứa trẻ khi còn tấm bé, ta đang lớn khôn và trưởng thành nên khi mất mát hay bị tổn thất vấn đề nào đó thì phải biết bình tĩnh để suy xét, nhận định. Nhờ vậy, ta không bị mê mờ bởi thói quen ích kỷ, hẹp hòi mà sinh ra thù ghét.

Thế giới con người do không có tình thương chân thật nên lúc nào cũng oán giận, thù hằn, ghét bỏ nhau mà sinh ra chiến tranh binh đao tàn sát, giết hại lẫn nhau không thương tiếc. Có khi ta nhân danh đấng thần linh, thượng đế để trừng phạt thiên hạ, tạo ra biết bao nỗi khổ niềm đau làm tổn hại cho nhau.

Vì ta thương yêu trong ích kỷ, hẹp hòi do không có hiểu biết nên mình dễ dàng hành hạ, đánh đập người thân khi không làm chủ được cơn sân hận. Ai có tâm niệm thù ghét như thế sẽ không bao giờ tìm được sự an lạc nội tâm vì trong lòng lúc nào cũng chất chứa bao phiền muộn, đau khổ.

Khi ta thương yêu, quý trọng lẫn nhau một cách chân tình, tình thương đó có sự bù đắp lâu dài nên mình tìm cách bảo vệ và gìn giữ chúng, đến khi cảm thấy bị người phụ bạc, ruồng bỏ, tìm đến người bạn khác thì cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng giữa chợ đời yêu thương nên tiếc nuối, khóc lóc, hờn giận và cuối cùng dẫn đến thù hằn, ghét bỏ.

Một khi ai đã ôm cảm xúc đó vào lòng thì giống như một lưỡi dao bén đang từ từ cứa vào thân thể làm ta thất vọng, đau khổ đến tột cùng. Ta không còn sáng suốt nữa mà điên cuồng trong vô vọng. Nếu đã dùng hết cách mà không chuyển hóa được cảm xúc thù ghét thì ta phải biết rằng mình đang rơi vào hố sâu của ngục tù tội lỗi.

Ai dại gì phải chịu như thế trong khi ta có trái tim biết yêu thương, hiểu biết, trái tim tha thứ biết cảm thông. Ta chỉ nhớ, biết mình như thế thì bao nhiêu cảm xúc oán giận, thù hằn, ghét bỏ không có chỗ ẩn núp. Như ta đã biết, mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, mình có trái tim hoàn hảo và đẹp nhất, tại sao phải tự trói buộc lấy nhau vì tâm niệm thù ghét đó để làm cho gia đình, người thân, bè bạn không có cơ hội gần gũi sống yêu thương nhau.

Một khi đã thù ghét nhau rồi thì thế giới bao la sẽ trở thành một góc trời đen tối, nhỏ hẹp. Gặp một người mà ta hằng oán ghét bấy lâu nay, muốn tránh xa mãi mà cũng không sao tránh được, hoàn cảnh này nếu là với gia đình, người thân thì lại càng thống khổ hơn nữa.

Thương và ghét là hai điều kiện có thể làm cho con người khổ đau hay hạnh phúc, thương quá sinh nhớ nhung bi lụy cũng khổ, ghét quá mà ngày nào cũng gặp càng khổ hơn. Đúng ra, ta rất khó thương một người chưa từng thương mình, có khi họ thù ghét mình và đã làm cho mình đau khổ. Thương yêu là bản chất của con người, nhưng đa số chỉ thương yêu trong sự ích kỷ, hẹp hòi và có điều kiện nên không bao giờ có lòng khoan dung, độ lượng, cảm thông và tha thứ. Chính vì sự thương yêu hẹp hòi đó mà dẫn đến ghen tuông, ganh ghét rồi làm khổ cho nhau.

Trong cuộc sống, khi con người không có tình yêu thương chân thật với nhau mà chỉ sống trong căm ghét, hận thù thì thế gian này sẽ là bãi chiến trường đẫm máu vì ai cũng muốn tranh danh, đoạt lợi mà tìm cách hủy diệt lẫn nhau.

Ai cũng nắm được chiếc chìa khóa của sự yêu thương và ghét bỏ nhờ biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc mà sống thành thật, biết sẻ chia và quý kính, tôn trọng lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.

MONG CẦU KHÔNG ĐƯỢC NHƯ Ý KHỔ

Thứ bảy là “mong muốn mà không được như ý khổ”. Những gì mình muốn mà không được thì khổ. Ví dụ đi thi mong muốn được đậu mà lỡ rớt thì sao? – Khổ quá! Ngoài việc thi cử ra còn bao nhiêu thứ cầu mong khác nữa. Như trong công việc làm ăn, trong tình cảm… nhiều người muốn tự vẫn vì cầu mong mà không được toại nguyện.

Con người khổ khi không được toại nguyện, như ý do tham muốn, khao khát quá đáng những nhu cầu cần có của bản thân. Chẳng hạn như lúc đói thì muốn có cái ăn cái mặc đầy đủ, lúc no lại muốn giàu sang phú quý, có kẻ hầu người hạ.

Ngoài ra còn có những nỗi khổ trong cuộc sống. Ở đời nếu được những việc như ý thì người ta vui, không như ý thì buồn, buồn tức là khổ. Mỗi người chúng ta thử nhìn lại cuộc đời mình xem được nhiều điều như ý hay bất hạnh khổ đau? Người có diễm phúc thì điều bất như ý ít hơn, nhưng tất cả đều có việc bất như ý. Đã bất như ý thì khổ hay vui? Đương nhiên là khổ!

Con người chịu khổ khi phải tiếp xúc với những thứ mình không thích hoặc oán ghét. Người ta ở đời hễ hy vọng càng nhiều thì thất vọng càng lắm. Bất luận trong một vấn đề gì, số người được toại nguyện thì quá hiếm hoi mà kẻ bất như ý thì không sao kể xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp người ta phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm tổn trí, mất ăn bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành công. Thế rồi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành, sự đau khổ không biết đâu là bờ bến.

Chúng tôi xin nêu lên vài thí dụ về những thất vọng mà người đời thường gặp nhiều nhất.

Thất vọng vì công danh: Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi ngon mà phần đông người đời ưa thích, nhưng miếng mồi ấy phải đâu dễ giành giật được. Không nói gì đến những kẻ nhảy dù muốn làm quan tắt nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường hợp những kẻ mong cầu danh vọng một cách chánh đáng bằng năng lực, tài trí của mình thôi cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng may ra mới được thành công.

Thất vọng vì phú quý: Số người thất vọng vì công danh đã nhiều, nhưng số người thất vọng vì phú quý cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu nhiều người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta, nhưng rồi mưu gian chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến bị nhục nhã theo thật là khổ.

Thất vọng vì tình duyên: Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người phải điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái thử hỏi mấy ai được toại nguyện, nhan nhãn trên báo chí hằng ngày những câu chuyện tình duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh thật không sao kể xiết. Đấy là “cầu không được cho nên khổ”.

THÂN NĂM ẤM KHÔNG HÒA HỢP KHỔ

Điều thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ, tức sự khổ về 5 ấm hưng thịnh. 5 ấm là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc ấm thuộc về thân, 4 ấm kia thuộc về tâm hay còn gọi là phần tinh thần.

Điều thứ tám này bao quát 7 món khổ trước: thân thì sanh-già-bệnh-chết, đói, khát, nóng, lạnh, vất vả nhọc nhằn; tâm thì buồn giận, thương ghét, phải quấu, tốt xấu, đúng sai, trăm điều phiền lụy.

Khổ do thân 5 ấm này chung hợp lại, vì sự chung hợp này được kết nối bởi các nhân duyên có khuynh hướng trái nghịch, bên trong luôn mâu thuẫn, chống trái nhau, vì vậy mà khổ. Nhiều người còn trẻ nghe nói thân này khổ không tin vì họ nghĩ đến tương lai hạnh phúc, như vậy làm sao khổ được. Có người nói rằng khi nào xúc chạm phải những điều trái ý mới khổ, nếu xúc chạm những điều như ý thì đâu có khổ.

Phật nói thân này là gốc của khổ. Tại sao? Tại vì thân này vô thường đổi thay nên rồi ai cũng sẽ già, bệnh và cuối cùng là chết. Quý Phật tử khi 30 tuổi ít ai nhớ rằng mình sẽ già chết mà cứ nhớ hồi còn mười tám, hai mươi.

Phật nói thân này biến hoại vô thường cho nên khổ, chớ không có cái vui lâu dài. Thật ra, Phật dạy khổ không có nghĩa để chúng ta ôm ấp nỗi khổ đó suốt đời. Phật nói khổ để mình biết rõ nguyên nhân để tìm cách chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Khổ không phải tự dưng mà có, chính Tập đế là những cội gốc của phiền não, là tập nhân tạo thành nên quả khổ. Cội gốc phiền não đó còn được gọi là căn bản phiền não gồm 6 thứ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. 6 thứ này là nhân tạo thành quả khổ cho con người, nếu ai diệt hết 6 thứ đó sẽ hết quả khổ.

Cho đến ngã mạn, tức thấy ta cao, ta quan trọng, do thấy như thế nên khi sắp mất rất khổ. Bây giờ nếu thấy ta là hư giả, tạm bợ thì có phách lối với ai không, thân này sắp hoại có khổ không? Sở dĩ chúng ta khinh người là vì thấy mình cao quí quá, quan trọng quá. Bây giờ thấy mình là tạm bợ, giả dối thì đâu có gì quan trọng, không trọng mình nên đâu có khinh người. Rõ ràng, chỉ cần chúng ta có một chút trí tuệ thấy đúng như thật thì khổ về sinh-già-bệnh-chết sẽ từ từ giảm bớt.

Nếu lý giải bằng trí tuệ thì thân này thật không có gì quan trọng hết, chẳng qua chỉ là một nhóm nhân duyên tụ hội lại chớ có gì đâu. Nhiều người thường vỗ ngực xưng “tôi”, nhưng hỏi cái gì là tôi thì trả lời không chạy. Nếu da thịt là tôi thì khi nó bệnh bác sĩ mổ bỏ đi thì cái tôi đó thành gì? Chỉ cần da thịt có vết thương hôi thối thì lúc đó mình quí hay muốn bỏ? Khi còn lành lặn ta thấy quí, khi nó hư hoại xem không ra gì, bỏ đi không chút thương tiếc. Rõ ràng, “cái ta” không phải những gì mình đang mang đây.

Lúc nào mình cũng thấy cái ngã là quí, là thật nên khổ vì nó. Nếu chúng ta biết cái ngã không thật, không quí thì bỏ nó một cách dễ dàng, không đau khổ tí nào hết. Còn ngã mạn vì thân là còn đau khổ, hết ngã mạn mới hết đau khổ. Đó là năm ấm xí thạnh khổ.

Con người vì lòng ham muốn quá mức như giếng sâu không đáy, khi chưa được thì muốn cho bằng được, khi được rồi thì lại sanh nhàm chám muốn tìm thứ khác. Người biết tiết chế được lòng tham thì cuộc sống an nhàn và thảnh thơi, không bị cuộc sống ràng buộc.

Từ nghiệp nhân ngu si, mê muội mà nhân loại đã tạo ra từ vô thủy kiếp đến nay, nếu không có duyên và may mắn gặp được thầy lành bạn tốt thì cuộc đời chúng ta có thể rơi vào ngõ cụt, đó là một sự thật.

Do si mê, tham đắm mà chấp thân-tâm làm ngã, từ đó muốn chiếm hữu về mình nên suy nghĩ, hành động sai lầm, thấy có ta, người và muôn loài, muôn vật nên bám chấp vào đó. Ý là đầu dây mối nhợ của phiền não, nó thường hay suy tư, nghĩ ngợi nên gọi là ý nghĩ; nó hay nhớ nghĩ về quá khứ hoặc hiện tại gọi là ý niệm; nó hay tưởng tượng, mơ mộng hão huyền nên gọi là ý tưởng và nó có công năng phân biệt, hiểu biết nên gọi là ý thức.

Do phân biệt, hiểu biết sai lầm nên ý thức không rõ được thực tướng của các pháp là vô ngã, không có chủ thể cố định, từ đó sinh ra thấy biết sai lầm mà chấp ta, người, chúng sinh. Sự bám víu vào “cái ta” rồi đến “cái của ta” như vợ ta, con ta, nhà ta, tài sản của ta, đất nước của ta. Dưới cái nhìn của người thế gian như thế đâu có gì sai quấy, thế gian này nếu không bám víu vào “cái ta” và “của ta” thì con người sẽ sống ra sao?

Vì cuộc sống này như vậy nên chúng ta không thể làm khác được, còn sự sống là còn có tham muốn, nhưng ta phải tham muốn thế nào cho phải lẽ. Ở đây, Phật vì lòng từ bi chỉ cho ta biết thân-tâm này không thật ngã để mọi người bớt luyến ái, chấp trước mà làm khổ cho nhau. Thật ra, đã làm người khó có ai muốn ít biết đủ, chỉ một bề mong cầu được nhiều mà không bao giờ nhàm chán. Tham muốn càng nhiều thì tội lỗi càng phát sinh, càng gây ân oán, hận thù cho nhau không có ngày thôi dứt.

Do vô minh mà sinh ra vọng động. Do có vọng động mà sinh ra vọng thức. Do có vọng thức mà sinh ra phân biệt có đủ thứ ta, người, chúng sinh. Do có sự phân biệt ta, người mà sinh ra xúc chạm. Do có sự xúc chạm mà sinh ra cảm thọ. Do có cảm thọ mà sinh ra tham ái, luyến tiếc và từ đó bám víu, dính mắc vào sự hiện hữu của nó nên sống chết, khổ não, ưu sầu, buồn lo đủ thứ.

Chữ “sân” trong Hán cổ biểu hiện một môi trường sống khi con người cảm thấy không hài lòng vừa ý, bực tức, xung đột, bất bình dẫn đến mâu thuẫn đối kháng gây hận thù và làm khổ đau cho nhau. Sự tức giận của con người có nhiều cấp độ khác nhau như nói lời mỉa mai, cay cú, hằn học, mắng chửi, giận dữ, quát tháo, hờn mát, oán thù, đánh đập, chửi bới, hù dọa, triệt tiêu và hủy diệt nhau.

Sân hận là âm Hán Việt, là từ ngữ chỉ chung cho loại phiền não có tính cách bốc lửa. Sân có nghĩa là nóng giận, mỗi khi có sự việc bất bình không được hài lòng, vừa ý là nó bộc phát mạnh ra bên ngoài. Hận có nghĩa là hờn mát âm ỉ sôi sục bên trong, nói cho đủ là giận hờn.

Một khi con người sân hận cộng với giận hờn mà không đủ khả năng hóa giải thì lâu ngày trở thành thù ghét, do đó lúc nào cũng muốn tìm cách trả thù hay rửa hận. Giận là lời nói tắt của từ nóng giận, hờn là từ nói tắt của chữ hờn mát, gọp chung lại là giận hờn.

Sân hận có nghĩa là giận hờn. Khi chúng ta giận hờn ai đó mà cứ ghim mãi trong lòng thì lâu ngày trở nên thù hằn, ghét bỏ rồi tìm cách trả thù thích đáng, khi có cơ hội là ra tay liền. Giận hờn là một thói quen xấu có tính cách hại người, hại vật, dù nặng hay nhẹ thì chắc chắn cũng làm tổn hại đến những người xung quanh. Không phải ai khi đã thức tỉnh thì chỉ một lúc là các tập khí, thói quen xấu dứt trừ được hết. Kết quả còn tùy theo sự huân tập tật xấu nhiều hay ít của mỗi người.

Trong khi đó, Phật dạy thân này do bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại mà thành nên không có gì là thực thể cố định cả. Cái được gọi là ta, là của ta cũng không thật, ai chấp vào đó thì sinh ra luyến ái, bám víu mà lầm tưởng là thật ta nên mới chấp ngã, từ đó sinh ra chiếm hữu. Ai nghĩ và làm như vậy tức là người vô minh nên lúc nào cũng sống trong đau khổ, lầm mê.

Tâm thì suy tư nghĩ tưởng, hết nhớ chuyện này đến nhớ chuyện kia không lúc nào dừng nghĩ, khi thì nghĩ tốt, lúc thì nghĩ xấu, có khi thì hiền như nai tơ, có lúc thì lại dữ như cọp sói. Người có chút ít công phu do kiên trì, bền bỉ, biết cách buông xả vọng niệm nên có khi ngưng bặt mọi suy nghĩ.

Từ cái thấy “thân kiến” là cái thấy sai lầm về thân, tức chấp vào sự hiện hữu của cơ thể con người là tôi, là của tôi nên từ đó bắt đầu chiếm hữu. Ai đụng đến “cái tôi” này thì có sự phản kháng mãnh liệt, do đó dấy khởi phiền não tham-sân-si mà dẫn đến tranh đấu giành phần thắng lợi về cho riêng mình để loại trừ lẫn nhau.

Quan niệm về thân kiến này sẽ trường tồn mãi mãi và chỉ có hai con đường để ta chọn lựa, một là lên thiên đàng hưởng phước báo tối cao, hai là xuống địa ngục chịu khổ đau lâu dài. Đó là cái thấy sai lầm do không có sự thể nghiệm thực tế, không có sự trải nghiệm bản thân mà làm cho con người mất hết quyền làm chủ chính mình trong cuộc sống hiện tại.

“Biên kiến” là cái thấy một bên, nghĩa là tin có một linh hồn bất tử sống đời không thay đổi, tức là thường còn mãi mãi cùng quan niệm chết là hết, tức là không còn gì nữa, chỉ có một đời sống hiện tại mà thôi. Linh hồn bất tử là cái hồn sáng không bao giờ mất, nói như vậy có phù hợp với chân lý hay không?

Thường thì con người thế gian lấy bản ngã làm tâm điểm, nhân danh đấng thần linh thượng đế để tạo ra sự bất công và muốn chiếm hữu nên đã gây ra nhiều tội lỗi cho muôn loài vật. Tất cả những điều này là do cái thấy biết sai lầm của một số người thế gian, họ lạm dụng sự thiếu hiểu biết của nhân sinh mà áp đặt số mệnh để con người phải chấp nhận phục tùng một cách mù quáng như một tín đồ mà không có quyền góp ý xây dựng trên tinh thần yêu thương đùm bọc, giúp đỡ sẻ chia để cùng nhau sống với trái tim hiểu biết.

Ý thức được khổ đau do sự si mê chấp ngã gây ra mà con người đành lòng nhẫn tâm giết hại lẫn nhau để bảo tồn cái thân vô thường bại hoại này, chúng ta thử lắng dừng tâm tư một chút để nhìn thấy rõ cuộc đời là một dòng trôi chảy biến thiên không dừng hẳn ở một phút giây nào, không đứng mãi một vị trí nào.

Quan niệm cố giữ và chiếm hữu là nguyên nhân của sự thấy biết sai lầm do sự si mê chấp ngã mà ra. Thân này rồi cũng phải già nua mà chúng ta muốn trẻ mãi không già, thân này bệnh hoạn đau nhức mà chúng ta muốn sống hoài không bệnh, thân này thở ra mà không còn thở vào thì coi như bị ngủm cù đèo mà chúng ta muốn sống hoài không chết. Một sự thật quá rõ ràng mà ít ai nhìn thấy, chúng ta thử quán chiếu cuộc đời này với những cái có hình tướng coi nó có mãi trường tồn hay không.

Thân này sinh-già-bệnh-chết mà chúng ta muốn nó không già-bệnh-chết làm sao được? Chúng ta thường xuyên quán chiếu về thân như thế và luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên, nhờ vậy những tâm niệm tham-sân-si dần dần rơi rụng bớt theo thời gian cho đến khi ý không còn suy nghĩ xấu nữa mà hay làm các điều thiện lành và không bám víu vào việc làm tốt đó thì thành tựu viên mãn công hạnh Bồ tát.

8 cái khổ trên không phải tự có mà do các thứ bệnh sinh ra là bệnh tham, bệnh sân, bệnh si, bệnh mạn, bệnh nghi, bệnh ác kiến. Riêng bệnh nghi có chia ra hai thứ. Thứ nhất là nghi do phân vân, không quyết đoán điều hay lẽ thật. Cái nghi này làm chướng ngại việc tu. Cái nghi thứ hai trong nhà Thiền thường dùng câu “đa nghi đa ngộ”, nghĩa là nghi nhiều ngộ nhiều. Tại sao? – Vì cái nghi của nhà Thiền là nghi để phăng tìm, do phăng tìm mới sáng lên, còn cứ một bề nghe sao hay vậy, không thắc mắc gì cả thì không bao giờ hiểu thấu đáo được nên mới nói “đa nghi đa ngộ”. Cái nghi này là nghi tốt, giúp cho chúng ta tiến trên con đường tu.

Cuối cùng là bệnh ác kiến, đây là bệnh rất trầm trọng. Chữ “kiến” là nhận định, chữ “ác” là sai lầm. Khi nhận định và thấy biết sai lầm, ta lại cố chấp nhận định của mình là đúng thì trở thành ác mà gây ra tội lỗi. Vì nhận định sai lầm mà cố chấp vào đó sẽ dẫn đến dám làm những điều tai họa cho nhân loại. Do đó, ác kiến là cái nguy hiểm nhất. Song, ở thế gian lại có nhiều ác kiến.

Ví dụ, chúng ta nghĩ tu là được vui, được sinh về các cõi lành hoặc được giải thoát nên cứ tu cho mình mà không nghĩ tới những người chung quanh như cha mẹ, anh em…, không cần biết tới mọi chuyện trong sinh hoạt hằng ngày, ai ra sao mặc họ, miễn ta yên ổn tu là được. Nếu có người khuyên bảo, nhắc nhở thì ta liền nổi quạu bảo Ma vương phá không cho tu. Ta nghĩ về mình nhiều quá nên càng tu mọi người chung quanh càng chán mình bởi họ thấy ta ích kỷ. Tu mà để cho người ta phiền hà, khó chịu cũng là cố chấp. Cho nên, ác kiến cũng là một trở ngại trên đường tu của chúng ta.

Phật gọi 6 thứ bệnh đó là 6 thứ phiền não căn bản, nếu dẹp sạch 6 thứ này ta mới được an vui thật sự. Như vậy, Phật nói khổ không phải để chúng ta chịu khổ mà nói khổ để chúng ta biết cách chuyển hóa hết gốc khổ đau thì được an vui, hạnh phúc.

Chính vì thế mới có đế thứ ba là Diệt đế, nghĩa là diệt sạch hết nhân khổ. Khi hết khổ, Phật nói hết khổ chớ không nói vui. Tại sao? Thường thường chúng ta cứ mắc kẹt trên từ ngữ đối đãi khổ-vui, nhưng sự thật hết khổ là vui rồi, vì cái vui này trong tỉnh giác nên thấy biết đúng như thật.

Chúng ta nên biết khổ vốn không tự có mà do nhân tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến mới có. Nếu những nhân làm cho mình khổ được diệt hết thì chúng ta sẽ an vui, hạnh phúc. Phật dạy ngay nơi thân này sẵn có tánh sáng suốt thanh tịnh mà hằng chiếu soi muôn sự vật, chúng ta muốn tánh sáng suốt thanh tịnh hiển bày thì phải chuyển hóa tâm phiền não tham-sân-si. Chính bản thân mình phải tự gạn lọc những nhân xấu ác gây ra đau khổ, khi chúng ta chuyển hóa hết nhân đau khổ thì tự nhiên được an vui, tự tại. Diệt hết các nhân khổ gọi là Diệt đế, tức hết khổ.

Đạo đế là những phương tiện, những cách thức để chúng ta ứng dụng tiêu diệt các nhân khổ theo lời Phật dạy. Như vậy, bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật rất cụ thể, rất thực tế, không có gì xa rời với thế gian. Đó là vấn đề cần được nêu lên để chúng ta thấy rõ cái gì thực, cái gì hư mà tìm cách gạn lọc và tu tập.

Người học Phật phải thấy rõ điều cốt yếu của đạo Phật là giúp mọi người thoát khỏi khổ đau trong luân hồi sống chết, muốn cứu khổ thì phải chỉ cái khổ cho người ta thấy, kế đó chỉ rõ nhân gây ra đau khổ để tiêu diệt nó. Nhân đau khổ hết thì quả đau khổ cũng hết theo, muốn thế phải có phương pháp cụ thể để ứng dụng một cách thiết thực chớ không phải cầu nguyện suông mà được.

Hiểu sâu sắc quy luật duyên sinh và nhân quả thì con người sẽ hạn chế được rất nhiều nỗi khổ, niềm đau xảy ra cho mình và người khác. Nếu chúng ta bớt tham lam thì không có khổ của sự mong cầu quá đáng, bớt ái ngã thì không có khổ khi xa lìa người thân.

Đức Phật rất thực tế, cụ thể, không viển vông mơ hồ. Chúng ta tu theo Phật không bao giờ tin suông, khi nào xét thấy rõ ràng nhân quả tương ưng ta mới tin và làm theo.

Ví dụ, Phật dạy 8 cái khổ trên là do 6 nhân phiền não căn bản mà có. Thật ra, thân và tâm có mối tương quan mật thiết với nhau, do đó những nỗi khổ ở thân sẽ dẫn đến những nỗi khổ ở tâm và ngược lại, những nỗi khổ ở tâm cũng dẫn đến những nỗi khổ ở thân. Như khi thân đau nhức thì tâm trạng khó chịu, bực bội, dễ sinh nóng giận. Khi tâm âu lo, buồn phiền, căng thẳng thì cơ thể uể oải, mệt mỏi, ăn không ngon, ngủ không yên.

Tuy nhiên, có thể nói đau đớn là những gì khó chịu nơi thân và nỗi khổ là những gì khó chịu nơi tâm, bởi vì có nhiều trường hợp có đau nhưng không khổ, hoặc chỉ khổ chút ít thôi. Điều này còn tùy thuộc vào sự tu tập của mọi người, ai hiểu đạo chỉ đau ở thân chứ không khổ ở tâm.

Như người lớn vô tình bị đứt tay chỉ có đau chứ không có khổ, trẻ em đứt tay thì có cả nỗi khổ lẫn niềm đau. Những vị tu hành có định lực và tuệ giác, có sự quán chiếu thâm sâu thì những nỗi khổ, niềm đau không chi phối được người đó.

Cuộc sống này có rất nhiều nỗi khổ, niềm đau do chúng ta tham ái và chấp ngã mà ra. Càng coi trọng bãn ngã, càng tham muốn nhiều thì nỗi khổ, niềm đau sẽ có cơ hội phát sinh. Nhất là những người có sắc đẹp, hình tướng, dung mạo dễ coi, họ sẽ đau khổ nhiều khi bị người khác coi thường, khinh chê.

Nỗi khổ, niềm đau cũng dễ bị khuếch đại làm tăng thêm sự chấp ngã do cái “tưởng” của con người. “Tưởng” là tri giác, hồi ức, sự nhớ lại những gì mình thấy nghe, hay biết. Ví dụ, một người bệnh không đến nỗi nào nhưng cứ nghĩ mình bị bệnh nan y nên ngày đêm lo sợ khiến ăn không ngon, ngủ không yên, tinh thần mệt mỏi, bệnh tật càng trở nên trầm trọng. Tất cả đều do “tưởng” mà ra. Khi chúng ta biết rõ cuộc đời vui ít khổ nhiều là do lòng tham muốn quá đáng thì sẽ biết cách tiết chế dục vọng bằng phương pháp “muốn ít biết đủ”.

NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CÁC SỰ KHỔ ĐAU           

Khi chúng ta nói về khổ đau, đa phần người ta rất dễ đồng ý, nhưng khi nói đến nguyên nhân của đau khổ thì ngay cả người Phật tử đôi khi cũng khó có được sự nhất quán cái gì là nguyên nhân của đau khổ.

Đức Phật nói cuộc đời là bể khổ theo cái vòng lẫn quẫn của nhân quả thiện ác, tốt xấu đan xen chằng chịt, cho nên nước mắt chúng sinh do khổ đau đem tích chứa lại còn nhiều hơn nước trong bốn biển. Cái khổ là một sự thực hiển nhiên, đã làm người thì ai cũng phải chịu đau khổ ít hay nhiều. Dù giàu nghèo hay sang hèn thì ai cũng có cái khổ riêng của mình nhưng người đời ít ai dám nhìn nhận vào bản chất thật của nó.

Tựu trung cái tâm lý chung của người đời là sợ đau khổ và sợ cả việc nghĩ đến đau khổ nên luôn luôn có thái độ lẫn tránh, che đậy hay muốn quên đi bằng cách ẩn mình trong những vui thú nhất thời. Do đó, người đời ít khi muốn bàn đến đau khổ vì ai cũng muốn sống trong sự vui tươi và ai cũng mong cầu hạnh phúc.

Nguyên nhân chính của đau khổ là “dục”, tức là lòng ham muốn không có giới hạn như biển sâu không đáy. Con người khổ vì ham muốn sống đời không chết nên cố luyện trường sanh bất tử, ham muốn chiếm đoạt, ham muốn khoái lạc về vật chất lẫn tinh thần, ham muốn tình cảm, nói tóm lại con người ham muốn đủ thứ hết dù phải rơi vào vòng tội lỗi.

Khi tham muốn được rồi lại muốn nhiều thêm nữa, muốn mà không được thì sinh ra sân hận tìm cách trả thù. Con người khi thiếu thốn quá cho rằng đó là khổ, bởi thiếu thốn nên ta mong muốn có được đầy đủ, nhưng mong muốn mà không được như ý là khổ, được rồi lại mất càng khổ hơn, mọi đau khổ ở đời đều do nguyên nhân chính là dục.

Thân xác chúng ta luôn luôn có những nhu cầu cần được thoả mãn như ăn no mặc ấm, ngủ nghỉ thoải mái, vui chơi giải trí, nhà cao cửa rộng. Đó là những điều kiện mà ta cho là hạnh phúc, rồi đến các nhu cầu sinh hoạt khác như hưởng thụ khoái lạc, danh vọng, chức tước và quyền lực.

Khi chúng ta mưu cầu tìm kiếm hạnh phúc cá nhân, tất nhiên ta phải đụng chạm đến nhiều người khác vì họ cũng đang tìm như ta vậy. Sự ham muốn quá đáng làm cho ta mù quáng, do đó chúng ta chỉ muốn hưởng thụ trên sự đau khổ của kẻ khác.

Đức Phật ví sự vui khổ ở đời cũng như những cảm giác khó chịu của người gánh nặng. Khi chúng ta đổi vai đang gánh nặng thì sẽ cảm thấy dễ chịu và vai có gánh thấy nặng nề khó chịu, ta cứ thế mà đổi vai qua lại để có được một chút dễ chịu.

Do đó, chúng ta nên biết cái vui lúc nào cũng đi liền với cái khổ, chỉ khi nào chúng ta bỏ gánh nặng xuống hoàn toàn thì mới chấm dứt hẳn cảm giác khổ vui. Bỏ gánh xuống nghĩa là chúng ta đã chuyển hóa được tham muốn, tức là chúng ta đã tự tại, giải thoát vậy. “Chiến thắng mười vạn quân còn dễ hơn chiến thắng lòng mình, chúng ta tự thắng được mình là chiến công oanh liệt nhất.”

Vào một lần nọ khi lên 8 tuổi, thái tử ngồi xem các nông dân cày ruộng trong lễ hạ điền, tức lễ cày ruộng đầu năm. Khi đất bị cày lên, ngài thấy đủ thứ loại côn trùng tìm cách chạy trốn trong hoảng loạn, chim chóc thấy thế sà xuống gắp ăn. Rồi phía trên cao, những con chim lớn hơn đang canh chụp bắt các con chim nhỏ đó.

Nhìn thấy cảnh tượng chúng ăn nuốt lẫn nhau theo quy luật lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu, ngay khi ấy thái tử cảm nhận được quy luật sống chết của muôn loài vật. Con vật này sống và tồn tại là từ sự chết chóc đau thương của con vật kia. Con này được sống thì con kia phải ra đi trong oằn oại đau đớn vô cùng. Và tương tự như thế với sự sống của con người, biết bao nhiêu loài vật khác phải chịu đau thương chết chóc để nhân loại được tồn tại.

Ngày xưa chưa có quan niệm ăn chay, nhưng khi thấy cảnh các loài vật ăn nuốt lẫn nhau theo nguyên lý lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu thì thái tử đã thấy thương tâm bởi sự sống của chính mình mà làm khổ đau chúng sinh khác. Bây giờ tinh thần ăn chay đã được lan rộng khắp cả thế giới, rất nhiều người thích ăn chay vì tu tập, vì từ bi, vì thương xót, vì giảm bệnh, vì ý thức sự khổ đau khi làm tổn hại các loài vật. Tuy nhiên, thế gian này đại đa số con người vẫn không chấp nhận việc ăn chay vì họ quan niệm rằng vật dưỡng nhân.

Nếu sự thật “vật phải dưỡng nhân”, có nghĩa con vật được sinh ra để phục vụ con người, để bồi bổ sức khỏe cho con người thì chúng ta tội gì phải ăn chay lạt đạm bạc. Cái hiểu biết và nhìn nhận như thế là chưa có sự đồng cảm với muôn loài vật, là sự tham lam, ích kỷ của con người không có lòng từ bi thương xót chúng sinh.

Thái tử khi còn nhỏ đã biết thương tâm khi nhìn thấy các loài chim ăn côn trùng bởi vì trong ngài đã có tâm từ bi rộng lớn thương yêu bình đẳng tất cả chúng sinh. Chúng ta nỡ lòng nào đi cắt cổ mổ họng, chiên xào nấu nướng những con vật mà không hề nghĩ đến sự đau đớn tột cùng của nó, rồi còn biện luận rằng “vật dưỡng nhân”.

Nếu thực sự các loài vật được sinh ra để nuôi dưỡng con người thì con gà, con vịt, con cá, con heo, con bò, con trâu… có thật sự tự nguyện đến mời chúng ta làm thịt, hay là chúng ta vì ham ăn ngon nên khiến chúng phải kêu la thất thanh trong hoảng sợ? Con người quá khôn ngoan, thông minh và lanh lợi, con vật dù lớn tới đâu cũng bị con người khống chế rồi bắt giết. Khi chúng ta rượt bắt thì chúng hoảng sợ và chạy trốn. Chúng chạy trốn tức là chúng sợ đau đớn, sợ bị giết, sợ chết chóc. Như vậy, loài vật chúng không sẵn sàng để cho con người làm thịt, chỉ vì chúng ta tham ăn món ngon vật lạ nên phải giết chúng để ăn rồi đổ thừa vật dưỡng nhân.

Chúng ta khi có tu tập sẽ thấy rõ cái vòng lẫn quẫn của sự giết hại nhau là do không có hiểu biết, không có lương tâm, không có tính người và không có lòng từ bi đối với muôn loài vật. Chúng ta không nên vì tẩm bổ cho mình mà để cho các loài vật phải chịu khổ đau. Nghĩ được như vậy thì lòng từ bi của mình được phát triển nên chúng ta ăn chay là để tăng trưởng lòng từ bi. Ngoài ra, nếu chúng ta không giết hại thì không mắc nợ mạng sống, không bị bệnh tật hiểm nghèo hành hạ đau đớn, không bị 6 căn khiếm khuyết hoặc chết yểu.

Trước đây khi chúng ta chưa biết ăn chay vì quan niệm sai lầm “vật dưỡng nhân”, quý Phật tử có thể giết heo, mổ trâu, làm gà, làm vịt, làm cá chim đủ loại… Hôm nay, chúng ta đủ duyên đi chùa thực tập hạnh buông xả, phát triển lòng từ bi nên ta ăn chay, sống đời hiền thiện để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Khi đã tu tập thuần thục chúng ta mới thấy ăn chay làm cho tâm trí ngày càng thêm sáng suốt nên phân biệt được đúng sai, phải quấy, chánh tà… Khi tâm từ tăng trưởng thì chắc chắn chúng ta sẽ được sống vui tươi, an ổn, không sợ oán thù vay trả.

Ăn chay lâu dài khuôn mặt chúng ta sẽ trở nên hiền từ, thân tướng được trang nghiêm, trong lòng cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng. Còn khi ăn mặn các chất tanh hôi sẽ làm cho mình thêm si mê, tham lam và sân hận nên dễ dàng nóng nảy, mất tự chủ mà làm tổn hại người khác.

Khi còn nhỏ dại và không đủ nhận thức sáng suốt em bé dễ hờn dễ khóc, nhưng chỉ cần người khác vỗ về đôi chút là em bé trở lại trạng thái bình thường. Vậy nên ta muốn có ánh sáng bình minh, muốn vượt thoát cơn khổ đau tuyệt vọng thì ta phải làm mới lại chính mình bằng cách làm chủ bản thân từ thân-miệng-ý. Cây khô mọc theo triền núi một khi đã sống rồi thì dù có phong ba bão táp cũng không thể làm nghiêng ngã được, chúng ta cần phải sống lại con người chân thật của mình như thuở ban đầu hồn nhiên suốt năm tháng trẻ thơ.

Nếu biết nhìn sâu vào nội tâm ta sẽ cảm ơn những ai đã từng làm cho mình dày vò đau khổ, nhờ họ mà ta biết rõ năng lực trong ta còn yếu kém mà cố gắng tu tập chuyển hoá nhiều hơn. Chính những nỗi đau ấy khiến cho năng lực của ta càng thêm thâm hậu vì ta đã ý thức sâu sắc về giá trị của cuộc đời mà quyết tâm làm mới lại chính mình bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Ta hãy tin chắc rằng mọi thứ trên đời này đều vô thường, cái gì rồi cũng sẽ đổi thay. Ta sẽ không còn tuyệt vọng nữa bởi vì trong ta đã có chất liệu của tình thương.

Thế gian này với vô vàn nỗi khổ niềm đau, mỗi người khổ mỗi cách, có người khổ vì thiếu thốn đói rét, có người khổ vì không gia đình người thân, có người khổ vì gia đình không hạnh phúc. Ai cũng khổ, khó có ai được niềm vui trọn vẹn. Vậy mà Phật nói cuộc đời là khổ thì chúng ta lại nói đạo Phật bi quan, yếm thế. Rõ ràng con người luôn chối bỏ sự thật, chạy trốn sự thật và không chấp nhận sự thật. Chúng ta thử nghiệm lại trên thế gian này từ người giàu sang cho tới người nghèo khó có ai lại không khổ, có ai được sống hoàn toàn vui vẻ, hạnh phúc?

Khổ đau không phải tự nhiên đến mà tại chúng ta tạo nghiệp si mê lầm lẫn do thiếu sáng suốt vì thấy biết sai lầm. Có người nghe Phật dạy đời là khổ, thân là vô thường, vạn vật đều biến chuyển đổi thay thì cho rằng Phật bi quan. Nhưng khi chúng ta thấy rõ được lẽ thật thì sẽ bớt chấp trước, dính mắc vào cuộc sống tạm bợ vô thường, chính nhờ vậy mà ta biết cách chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Chúng ta phải dám nhìn nhận sự thật mới thấy thân tâm này là vô thường, tạm bợ để bớt tham đắm, luyến ái mà tạo ra nỗi khổ, niềm đau cho mình và người. Chúng ta hãy thường xuyên quán chiếu như vậy để thấy rõ mạng sống trong hơi thở mà giảm bớt tham muốn quá đáng.

Chúng ta cứ cắm đầu lo hết việc này đến việc khác trong khi việc làm sao để gạn lọc thân tâm cho được trong sáng, tốt đẹp để bớt tham-sân-si thì ít quan tâm tới. Phần nhiều Phật tử đi chùa học Phật chỉ muốn tu để đời sau được sung sướng hơn, đẹp đẽ hơn, nhiều của cải vật chất hơn chớ không muốn được giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.

Nhân quả báo ứng theo ta như bóng với hình, nổi khổ niềm đau sẽ theo ta từ đời này đến kiếp khác không có ngày thôi dứt. Chính vì sự sống của mình mà chúng ta phải giết hại các loài vật cho nên có cuộc sống là có khổ đau. Thái tử khi còn nhỏ đã thấy rõ ràng tất cả các loài có tình thức đều phải chịu như thế.

CUỘC ĐỜI CÓ THẬT SỰ KHỔ ĐAU HAY KHÔNG?

Tất nhiên, đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọ và nhận thức của mỗi người. Nguyên nhân của sự đau khổ do bản thân mình gây ra hay do tác động bởi hoàn cảnh xã hội, nhưng khổ đau có nguồn gốc từ sự tưởng tượng của con người.

Người đã thật sự giác ngộ chỉ khổ thân chứ không khổ tâm, bởi vì thân và tâm có mối tương quan mật thiết với nhau, do đó những nỗi khổ ở thân sẽ tác động đến nỗi khổ ở tâm nếu không biết tu. Như khi thân đau nhức thì tâm trạng cảm thấy khó chịu, bực bội, dễ sinh ra nóng giận và hờn mát. Khi tâm buồn phiền, lo lắng quá mức thì cơ thể uể oải, mệt mỏi, ăn không ngon, ngủ không yên.

Thông thường, người ta hay dùng từ “khổ đau” để chỉ chung cho nỗi khổ, niềm đau qua thân vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, chúng ta có thể biết rõ đau nhức là những gì khó chịu nơi thân và nỗi khổ tâm là ray rức, bực bội, tức tối và buồn phiền.

Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thực ra, người nghèo có nỗi khổ của người nghèo và người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn giàu mà không được nên họ khổ. Người giàu muốn giàu thêm do lòng tham lam, nhưng khi giàu rồi họ lo sợ đủ thứ, sợ mất mát, sợ hao hụt, sợ trộm cắp, sợ bị phá sản, sợ người khác lợi dụng nên khổ. So ra, người giàu có nhiều nỗi khổ hơn vì phải tìm cách gìn giữ và phát triển thêm.

Nhiều người hay than rằng “sao tôi cực khổ quá vậy”. Họ gộp chung cực với khổ thành một trong khi bản thân của sự cực nhọc chưa chắc đã là khổ. Chỉ vì ta phân biệt, tính toán quá nhiều rồi ta kháng cự lại nó, ta muốn mình không phải vất vả nhiều nhưng vẫn có đầy đủ mọi thứ như những người giàu có nên ta khổ.

Có những người làm công tác cứu hộ biết lao vào lửa dữ, chui xuống lòng đất hay đi ngang qua lằn tên mũi đạn sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng nhưng vì trách nhiệm, vì tình thương nên họ không hề xem đó là nỗi khổ, niềm đau, chỉ mong làm sao cứu sống người.

Chúng ta thường than thở với nhau nhiều nhất là sự đau khổ, hễ đau là phải khổ và xem nó như một sự thật không thể thay đổi được từ xưa cho đến nay. Thay vì than vãn “khổ quá” thì ta hãy nên tìm ra nguyên nhân vì sao chúng ta đau khổ. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng ta không phải là một cá thể tồn tại biệt lập mà ta phải luôn chịu sự tác động tương quan từ bạn bè, gia đình đến xã hội và cả thế giới với muôn loài vật.

Đối với những mất mát quá lớn, tất nhiên chúng ta cần phải có thời gian để chấp nhận và điều hòa trở lại bình thường. Có nhiều người hay than vãn trời mưa thật khổ, nắng quá cũng khổ, kẹt xe cũng khổ, bị lỗi hẹn cũng khổ, thức ăn không vừa miệng cũng khổ và được nhiều người thương cũng khổ… Chúng ta hay đổ thừa hoàn cảnh làm cho mình khổ, thật ra không ai có thể làm cho ta khổ nếu ta biết được nguyên nhân của nó bằng hiểu biết đúng đắn.

Ngoài ra, chúng ta hãy nên thường xuyên luyện tập cho mình cách đối mặt với khó khăn, không trốn tránh cuộc sống và cũng đừng quá cầu mong sự an toàn để rèn luyện sức kham nhẫn của mình. Những đứa trẻ lớn lên trong môi trường được gia đình, người thân bảo bọc quá đầy đủ, muốn gì được nấy sẽ dễ dàng vấp ngã trước biến động của cuộc đời.

Đúng, khổ đau là một thực tại không ai có thể chối cãi được nhưng tính chất của nó vốn không cố định. Suy cho cùng, ta cần phải biết ơn khổ đau bởi khổ đau vừa giúp ta ý thức được cái gì là hạnh phúc, vừa giúp khả năng chịu đựng trong ta lớn mạnh để ta có thể phát huy hết khả năng sẵn có nơi chính mình.

Nếu chúng ta không bị lạc đường trong đêm tối vô minh, ta sẽ khó biết mình sợ hãi đến mức nào. Nếu không bị người khác xúc phạm, ta sẽ khó biết mình nóng giận nhiều hay ít. Thông qua những chướng duyên nghịch cảnh của sự sống ta mới thấy rõ những nỗi khổ, niềm đau đã tìm ẩn sẵn bên ta bởi do cố chấp thân tâm này làm ngã.

a-Khổ khổ

Nghĩa là khổ vì làm việc nhọc nhằn vất vả; khổ vì đói khát, lạnh nóng; khổ vì bệnh tật, tai nạn; khổ vì chiến tranh, thiên tai, lũ lụt… Đây là mức độ khổ thông thường mà ai cũng có thể cảm nhận được.

Khổ là chữ nói tắt, nói đầy đủ là chữ “Khổ đế” được dịch nghĩa từ chữ Dukkha, nghĩa là khó chịu đựng, khó kham nhẫn, nói rộng ra là những gì làm cho mình khó chịu, đau đớn như ốm đau, đói khát, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi… “Đế” nghĩa là một sự thật vững chắc, đúng đắn.

Theo lời Phật dạy, sự khổ ở thế gian thì vô cùng tận, có thể phân loại ra làm 3 thứ khổ hay 8 thứ khổ.

Cái khổ này chồng chất lên cái khổ kia, bản thân đã là đau khổ mà hoàn cảnh chung quanh ta lại còn vô số các sự khổ khác cứ đè nặng trên đôi vai của con người nên gọi là “khổ khổ”. Đã là chúng sinh tức loài có tình thức thì đương nhiên phải chịu nhiều khổ ải trong cuộc sống. Hơn nữa, cái thân này cũng không bền chắc, lâu dài, trái lại rất mong manh vì thở ra mà không thở vào coi như mạng sống chấm dứt. Chúng ta khát nước năm bảy ngày, ngạt thở độ năm ba phút, đứt một mạch máu, bị tai nạn bất đắc kỳ tử là mạng sống chấm dứt rồi chuyển sang đời khác.

Đã là chúng sinh tất nhiên còn nhiều cái khổ khác chất chồng lên chúng ta không sao tránh khỏi được như bệnh tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu cao thuế nặng… Chính vì thế nên gọi là “khổ khổ”.

b-Hoại khổ

Tất cả mọi hiện tượng từ con người cho đến muôn loài vật trong bầu vũ trụ bao la này đều bị vô thường chi phối, con người thì sinh-già-bệnh-chết không thể tồn tại mãi được cho nên khổ.

Con người dù có sức mạnh bao nhiêu, quyền thế địa vị cao cả, giàu có sang trọng, thậm chí một số người luyện trường sanh bất tử nhưng cuối cùng rồi ai cũng phải chết.

c-Hành khổ

Nghĩa là khổ vì duyên sinh, tức trạng thái khổ ở kiếp này mà còn là nền tảng cho đau khổ ở kiếp sau. Cái khổ này nối tiếp nhau kéo từ đời này sang đời khác không có ngày thôi dứt bởi con người ngu si, mê muội chấp thân tâm này làm ngã nên mới chiếm hữu và bám víu.

Về phương diện vật chất ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, biến hoại và hủy diệt. Về phương diện tinh thần ta cũng không hề làm chủ bản thân, tự do tự tại được. Tâm tư ta thường bị vẩn đục bởi những dục vọng tham muốn thấp hèn luôn lôi kéo và chi phối ta trong từng phút giây.

Tư tưởng ta luôn thay đổi, biến chuyển, hết nghĩ cái này đến suy tính cái kia. Nó cứ lăng xăng từ chuyện này sang chuyện khác như khỉ vượn chuyền cành không bao giờ dừng nghỉ.

Nếu xét sâu xa hơn nữa, trong mỗi ý nghĩ, cử chỉ, hành động như ta giận, ta thương, ta ghét, ta muốn thứ này, ta thích thứ kia phần nhiều do thói quen chấp trước cho rằng cái hay suy tư, nghĩ tưởng là ta. Tóm lại, ta không được tự do, ta bị chi phối bởi những ý tưởng, dục vọng và sự tham muốn quá đáng. Đó là “Hành khổ”.

Có rất nhiều loại nỗi khổ, niềm đau nhưng chúng xuất hiện và tồn tại lâu hay mau là do sự tham ái và chấp ngã mà ra. Càng chấp ngã nặng nề thì càng tham ái và bám víu vào đó mà có nhiều nỗi khổ, niềm đau. Nhất là những người có nhan sắc xinh đẹp, dễ thương, họ sẽ luyến ái bám chấp vào vẻ đẹp của thân thể, chính vì thế họ sẽ đau khổ gấp nhiều lần so với người bình thường.

Ai tham lam, luyến ái nhiều thì sẽ rất sợ chết, họ lo lắng sợ hãi mỗi khi bị bệnh tật hoặc tai nạn. Người Phật tử chân chính thấm nhuần lời Phật dạy nên hiểu rõ thân tâm và hoàn cảnh mọi thứ đều duyên sinh, vô ngã, vô thường, không gì bền chắc lâu dài nên vui vẻ, không tiếc nuối khi mình lâm trọng bệnh hoặc lúc sắp từ giã cõi đời.

Nỗi khổ, niềm đau cũng dễ bị khuếch đại làm gia tăng thêm bởi sự “tưởng tượng quá mức” của con người. Chúng ta hay tưởng tượng, nhớ lại và hình dung về những gì mình đã thấy nghe. Như một người bệnh không đến nỗi nào nhưng vì sợ chết nên ngày đêm lo sợ khiến cho người đó ăn không ngon, ngủ không yên, tinh thần mệt mỏi, bệnh tật càng trở nên trầm trọng hơn. Tất cả đều do sự “tưởng tượng” của con người mà ra.

Nỗi khổ do thiếu thốn về vật chất hoặc sự vất vả, nhọc nhằn thì ít mà nỗi khổ, niềm đau thì nhiều là do tâm so sánh, phân biệt bởi nhận thức sai lầm do chấp ngã thân tâm này là thật, bởi tưởng tượng như vậy nên ta càng thêm khổ não, bất an.

Chúng ta sống ở hoàn cảnh nào thì phải nương theo hoàn cảnh đó, người muốn ít biết đủ không tham cầu quá đáng sẽ chẳng phải lo sợ gì cả. Khi ta có xe đạp thì đi xe đạp, có xe máy thì đi xe máy, nếu không có xe thì đi bộ cũng chẳng sao.

Chúng ta hay tiếc nuối, tưởng nhớ về quá khứ, hay mong cầu, mơ tưởng đến tương lai mà không biết bằng lòng với những gì đã có trong hiện tại. Quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa đến, vậy mà ta cứ tiếc nuối và hy vọng cho nên khổ. Sướng khổ nhiều hay ít là do tâm, tức là sự khổ về tinh thần.

Danh Ngôn Về Số Phận

2. Thơ, ca dao, tục ngữ, châm ngôn chế cười té ghế – Phần 2

5. Danh ngôn Ca dao, tục ngữ, danh ngôn “Ai có người bạn trung thành thì có thể cho rằng mình có hai tâm hồn.

7. Nếu bạn muốn biến những ước mơ của mình thành hiện thực, điều đầu tiên mà bạn cần phải làm là thức dậy.

12. Hãy cản đảm khi đời thách thức bạn , hãy sử dụng cả con tim và trí óc để mở ra con đường dẫn tới hạnh phúc của riêng mình.

13. Các Bạn Đang Xem Bài Viết Thơ Buồn Số Phận, Chùm Thơ Về Số Phần Nghèo Đầy Xót Xa Tại Danh Mục Những Bài Thơ Hay Về Cuộc Sống của Blog TinBanDoc.

16. 100 câu nói hay về công cha nghĩa mẹ mà con cái phải khắc cốt ghi tâm, hiểu về đức hi sinh cao cả của bậc sinh thành không gì có thể diễn tả hết thành lời.

18. Henry David Thoreau – Giới thiệu bài viết Điều ta nghĩ về bản thân quyết định số phận ta.

20. Là kẻ làm sách danh ngôn nên tôi nắm rất vững lai lịch và sự chìm nổi số phận của nhiều câu danh ngôn nổi tiếng.

23. Ngay khi người con gái thứ ba, nàng Gameunjangagi sinh ra, gia cảnh của cả nhà phất lên nhanh chóng và họ sớm trở nên giàu có không ngờ.

25. Từ Khóa: cham ngon con nguoi, cham ngon cuoc song so phan, cham ngon so, cham ngon song so phan, châm ngôn về con người, cham ngon ve con nguoi, châm ngôn về số phận, châm ngôn về số phận con người, danh ngÔn con nguoi, danh ngon dao phan, danh ngôn nói về số phận, danh ngon noi ve so phan con nguoi, danh.

27. Về dấu hiệu của Thời Cuối Cùng, Thánh Phaolô liệt kê một số thói hư, tật xấu: “Người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung.

31. Tổng hợp danh ngôn số phận hay nhất, những quan điểm của những người nổi tiếng về số phận, những câu nói về số phận hay nhất.

33. 03/11/2023 · Nghe Lời Phật Dạy Mỗi Tối Tiêu Trừ Nghiệp LÒNG NHẸ Ngủ Sâu giấc Mọi Sự May Mắn Suôn Sẻ vô cùng – Duration: 58:22.

39. Sự định đoạt cuộc đời của một người được hưởng hạnh phúc hay chịu đau khổ, sống lâu hay chết sớm.

40. Bên cạnh đó các Cô cũng có thể dạy giáo án tìm hiểu về một số bộ phận trên cơ thể bé.

41. 25/08/2023 · Mục Lục:” Những câu nói hay về số phận trong tình yêu & cuộc sống” Status số phận hay nhất trong cuộc đời & nhân sinh” Danh ngôn số phận & những trích dẫn hay nhất về định mệnh Bạn có tin vào số phận không.