Tho Ca Dao Tuc Ngu Che Hai Huoc / Top 14 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Dtdecopark.edu.vn

Danh Ngon Che Hai Huoc

2. Thơ, ca dao, tục ngữ, châm ngôn chế cười té ghế – Phần 1

3. Cười té ghế với những thí sinh cả gan troll Mười Khó TRƯỜNG GIANG ở Thách Thức Danh Hài–Thách thức danh hài là chương trình truyền hình thực tế đầu tiên tương tác trực tiếp với danh hài và là nơi mà người chơi khiến danh hài cười sẽ nhận tiền thưởng.

7. Câu chúc Tết hài hước dí dỏm độc nhất vô nhị tặng người thân và bạn bè, giúp bạn có thêm nhiều ý tưởng hay ho, độc lạ trong ngày đầu xuân sắp tới đây.

8. Ngày 8/3 đã đến ngoài việc các đáng mày râu chuẩn bị quà và câu chúc 8/3 cho những người phụ nữ quanh mình như vợ, mẹ, chị gái,… và chúng ta cũng hãy thư giãn một chút với Hình ảnh chế ngày 8/3 vô cùng […].

9. Ảnh Chế Hài Hước Obama Hay Nhất, ảnh chế hài hước nhất chỉ có tại Việt Nam, anh che hai nhat, anh che tong thong obama.

10. Tuyển tập những câu danh ngôn vui và hài hước nhất, trích dẫn vui.

20. 101 câu nói hài hước cho cuộc sống vui vẻ Những câu nói hài hước, chém gió, vui vẻ hay nhất hi vọng sẽ mang lại cho các bạn phút giây thư giãn thoải mái.

23. Những hình ảnh vui chế hài hài hước ngày thiếu nhi , hài hước , mang tính giải trí cao.

25. Tình yêu buồn thì nhiều bài học sâu sắc nhưng đừng nghĩ tình yêu vui chỉ đơn thuần là cười.

26. Dân gian xưa có câu “Một nụ cười bằng mười than thuốc bổ”, vì thế tại sao chúng ta không cười nhiều hơn.

30. Có rất nhiều người khi chưa tìm hiểu kỹ đã nói ngôn tình là những câu chuyện sến súa do tự tác giả đặt ra, cũng có người cho rằng ngôn tình là một thể loại hấp dẫn, đưa chúng ta vào thế giới tình yêu một cách mãnh liệt.

31. Website luôn cập nhật những bộ truyện mới thuộc các thể loại đặc sắc như truyện tiên hiệp, truyện kiếm hiệp, hay truyện ngôn tình một cách nhanh nhất.

32. Những câu nói hay, hài hước về Ranh ngôn – Cái gì mình ngu, hãy cố gắng biến nó thành phong cách.

37. Ngày Valentine là ngày hạnh phúc của rất nhiều người tuy nhiên còn một đại bộ phận chưa có gấu gọi tắt là dân FA, Valentine năm nay đang tới gần, mọi người lại truyền tay nhau những ảnh chế valentine độc đáo mừng ngày valentine tràn ngập hạnh phúc trong ngày lễ đặc biệt này, những ảnh chế hài hước này.

40. Những câu thơ chế hay không chỉ mang đến cho độc giả những tiếng cưởi bởi sự hài hước mà còn chứa đựng những góc nhìn châm biếm về cuộc sống.

45. Bộ ảnh chế hài hước về ngày lễ Valentine (lễ tình yêu) – Album tuyển tập chia sẻ những hình ảnh hài hước về tình yêu nhằm mang lại những giây phút thư giãn thật thoải mái cho mọi người.

Đặc Điểm Hai: Tục Ngữ Ca Dao Nói Về Kinh Nghiệm Lao Động Sản Xuất Sử Dụng Nhiều

Tải bản đầy đủ – 128trang

2.1.1. Nghề trồng lúa:

Nhƣ trong chƣơng I chúng tôi đã phân tích, trong số những câu tục

ngữ nói về trồng trọt thì những câu nói về kinh nghiệm làm ruộng (gieo

trồng, cày cấy và gặt hái) lại chiếm đa số (có 174 câu trên tổng số 438

câu, chiếm tỷ lệ 39,7%). Còn ca dao thì cũng có tới 99 bài nói về nghề

này (chiếm tỷ lệ 61,87%) mặc dù có những bài ca dao không chỉ nói về

kinh nghiệm về trồng lúa mà còn đề cập cả đến kinh nghiệm khác nữa. Ví

dụ:

Tháng chạp là tháng trồng khoai,

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.

Tháng ba cày ruộng vỡ ra,

Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng.

Tháng năm gặt hái đã xong,

Nhờ Trời một mẫu năm nong thóc đầy.

Năm nong đầu em xay, em giã,

Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.

Sang năm lúa tốt tiền nhiều,

Em đem đóng thuế đóng sưu cho chồng.

Đói no có thiếp có chàng,

Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình.

Có thể nói, cha ông ta đã đúc kết đƣợc những kinh nghiệm hết sức

quý báu và phong phú về nghề làm ruộng.

Nói đến trồng trọt thì từ xƣa tới nay trồng lúa đã và đang là một

trong những nghề chủ đạo sản xuất ra lúa gạo. Nếu nhƣ trƣớc đây, sản

xuất ra lúa gạo trƣớc hết là nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nƣớc thì khoảng

một thập kỷ trở lại đây, ngƣời nông dân Việt Nam không chỉ sản xuất ra lúa

gạo cho nhu cầu nội địa mà còn để xuất khẩu. Và gạo đã trở thành một trong

những mặt hàng nông sản xuất khẩu nhiều nhất của Việt Nam.

Về trồng lúa, ca dao có rất nhiều bài:

82

Bao giờ Mang hiện đến ngày,

Cày bừa cho chín, mạ này đem gieo.

Bao giờ nắng rữa bàng trôi,

Tua Rua quặt lại, thời thôi cấy mùa.

Tua Rua thì mặc Tua Rua,

Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền.

Cày nông xấu lúa, xấu màu

Thiệt mình, thiệt cả con trâu kéo cày.

Và tục ngữ cũng vậy:

– Cấy thưa hơn bừa kỹ.

– Cấy thưa thừa thóc, cấy mau dốc bồ.

– Cấy thưa thừa thóc, cấy dầy cóc được ăn.

– Cơm quanh rá, mạ quanh bờ.

– Chiêm cấy to tẽ, mùa cấy nhẻ con.

– Làm ruộng tháng năm, coi chăm tháng mười.

Có thể nói, trong ca dao cũng nhƣ trong tục ngữ nói về kinh nghiệm trồng

lúa, chúng ta có thể thấy xuất hiện rất nhiều từ mà hễ chỉ cần nghe nhắc

đến những từ đó là ngƣời đọc hay ngƣời nghe có thể nhận diện ngay lớp

từ đó nói về ngành nghề gì. Chẳng hạn nhƣ tên của rất nhiều loại lúa mạ

cũng nhƣ những đặc điểm của chúng : lúa chiêm, lúa mùa, lúa dé, lúa

von, lúa bông vang, mạ, mạ chiêm, mạ mùa, chiêm gon, chiêm hoa

ngâu,…trong các câu tục ngữ sau đây:

– Chiêm cấy to tẽ, mùa cấy nhẻ con.

– Chiêm cứng, ré mềm.

– Lúa bông vang thì vàng con mắt.

– Lúa chín hoa ngâu đi đâu chẳng gặt.

– Lúa ré là mẹ lúa chiêm

– Mạ chiêm đào sâu chôn chặt, Mạ mùa vừa đặt vừa đi.

83

– Mạ chiêm tháng ba không già, Mạ mùa tháng rưỡi ắt là không non.

Chắc chắn khi nghe hay đọc đƣợc những từ trên đây ai cũng sẽ nhận ngay

ra đây là những từ chuyên dùng trong gieo trồng và cấy lúa dù có thể họ

không thể biết hết về đặc tính của các loại mạ, các loại lúa, không rõ thời

gian nào thì ngƣời nông dân bắt đầu gieo trồng trên những loại ruộng,

loại đất nhƣ thế nào và với kỹ thuật cày ra sao cấy cũng nhƣ thời điểm

nào thì họ cấy gặt. Nhƣ vậy, trong nghề trồng lúa, từ xa xƣa, bao thế hệ

nông dân đã đúc kết nên một hệ thống từ khá phong phú. Có thể liệt kê sơ

bộ ra ở đây nhƣ sau:

– Lớp danh từ: giống, giống lúa, lúa, vụ lúa, vụ chiêm, vụ mùa, lúa

chiêm, lúa mùa, lúa dé, lúa gon, lúa bông vang, ruộng, đồng ruộng,

bờ ruộng, ruộng ngấu, mạ già, mạ úa, mạ mùa, mạ chiêm, mạ non,

thóc gạo, ruộng cao, ruộng thấp, ruộng khô, ruộng sâu (cấy trước),

ruộng gò (cấy sau), ruộng góc, hàng sông, hàng con, bụi lúa, …

– Lớp động từ: cấy, cày, bừa, gặt hái, làm ruộng, làm mùa, làm mạ, gặt

chiêm, cấy trốc, cấy lúa, cấy thưa, cấy mau, vãi lúa, đi cày, cày sâu bừa

kỹ, bừa cạn, cày sâu, cày nông, cắt rạ, trỗ (lúa, ngô bắt đầu ra hoa)…

Có thể, nhiều từ thuộc lớp từ này sẽ đƣợc sử dụng trong nhiều ngữ

cảnh, nhiều loại văn bản khác nhau. Ví dụ nhƣ từ cấy có thể đƣợc coi là

một thuật ngữ trong y sinh học (cấy phôi) với ý nghĩa là gieo, cấy tế bào

vào cơ thể. Nhìn chung, lớp từ này dù đƣợc dùng trong ngữ cảnh nào, loại

văn bản nào thì ngƣời đọc lẫn ngừi nghe có thể xác định ngay: đó là

những từ chuyên dùng trong một nghề mà hiện nay có tới khoảng 75%

dân số Việt Nam theo làm – nghề trồng lúa.

Thêm vào đó, một hệ thống từ vựng về gieo trồng cày cấy nhƣ nêu

trên xuất hiện từ rất xa xƣa và tồn tại cho đến nay trong kho tàng văn hoá

dân gian Việt Nam có thể coi là một trong những bằng chứng sống động,

và quan trọng để chứng minh Việt Nam là một trong những cái nôi đầu

tiên của nền văn hóa văn minh lúa nƣớc trong khu vực và trên thế giới.

84

đồng thời, nó cũng minh chứng cho lịch sử lâu đời của dân tộc Việt Nam

từ thuở khai sinh.

2.1.2. Trồng trọt các loại cây khác

Ngoài cây lúa là loại cây lƣơng thực chủ đạo, ngƣời nông dân Việt

Nam còn trồng trọt khá nhiều loại cây khác. Do vậy, căn cứ vào những

câu tục ngữ, những bài ca dao mang chủ đề kinh nghiệm trong lao động

sản xuất, chúng ta cũng sẽ gặp hàng loạt tên các loại cây trồng, trong số

đó, có cả những cây lƣơng thực nhƣ khoai, đậu, ngô, đỗ, cà, bầu, bí nhƣ:

Đất đập nhỏ, luống đánh to,

Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào.

Phân tro chăm bón cho nhiều,

Đậu ngô hai gánh một sào không sai.

Tháng chạp là tiết trồng khoai,

Tháng giêng tưới đậu, tháng hai cấy cà

Bên cạnh đó, ngƣời nông dân còn trồng cả các loại cây ăn quả nhƣ

chanh, mít, dừa, chanh, cam, quýt…:

– Cảnh cau, màu chuối

– Mít chạm cành, Chanh chạm rễ

– Mít tròn, dưa vẹo, thị méo trôn…

2.2. Về những từ chuyên dùng nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm

Cũng nhƣ trong chƣơng một chúng tôi đã phân tích, ở nƣớc ta,

cùng với nghề trồng trọt (mà chủ yếu là trồng lúa) thì nghề chăn nuôi,

đánh cá, trồng dâu nuôi tằm… cũng chiếm vị trí rất quan trọng trong lao

động sản xuất nông nghiệp.

Trong nghề chăn nuôi, từ xƣa chăn nuôi gia súc và gia cầm đã trở

thành ngành chủ đạo. Đặc biệt là trong chăn nuôi các loại gia súc, chúng

tôi nhận thấy con trâu là loại gia súc đƣợc ngƣời nông dân dành cho nhiều

tình cảm nhất. Tổng số câu tục ngữ nói về kinh nghiệm chọn giống và

chăn nuôi trâu mà chúng tôi thống kê đƣợc là 35 câu còn, ca dao là 6 bài.

85

Trƣớc hết, có thể thấy trong các loại gia súc, con trâu là con vật

quen thuộc và gần gũi nhất đối với ngƣời nông dân. Hơn thế nữa, đối với

họ thì “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Vì vậy, ngƣời dân lao động Việt

Nam đã đƣa hình ảnh con trâu vào trong nhiều bài ca dao. Xuất hiện ở đó,

con trâu dƣờng nhƣ đƣợc coi nhƣ là bạn cần mẫn của ngƣời nông dân

trong lao động sản xuất:

Trâu ơi! Ta bảo trâu này!

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.

Cấy cầy vốn nghiệp nông gia,

Ta đây, trâu đấy ai mà quản công!

Bao giờ cây lúa còn bông,

Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

Tiếng gọi Trâu ơi thật gần gũi. Ngƣời ta là ai thì trâu cũng là ai, thật bình

đẳng, thân thiết. Và cũng chính vì đƣợc tình cảm gần gũi đối với con trâu

nhƣ vậy nên ngƣời nông dân Việt Nam rất hiểu và cũng rất có kinh

nghiệm trong việc chọn giống khi mua để có con trâu nhƣ ý cũng nhƣ rất

có kinh nghiệm trong việc chăm nuôi để chúng có thể giúp ích tối đa cho

mình trong sản xuất. Điều này thể hiện qua cách chọn và sử dụng từ của

ngƣời sáng tác.

Khi chọn giống mua trâu thì những con đƣợc việc sẽ là những con

mà tóc chóp, hoa tai:

– Trâu hoa tai, bò gai sừng.

– Trâu tóc chóp, bò mũ chấn.

Còn những con mà: tóc tạng, khoang nạng, vang trừng thì không nên

mua vì đó là những con trâu rất phàm ăn mà lại dữ, rất nguy hiểm. Vì

vậy khi quyết mua thì cần phải xem xét kỹ lƣỡng và nên lựa nái, xem vó,

xem sừng:

– Mua trâu lựa nái, mua gái lựa dòng.

– Mua trâu xem sừng, mua chó xem chân.

86

– Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi.

Và nên:

– Cày trâu loạn, bán trâu đồ.

Và trong quá trình chăn nuôi thì họ cũng rút ra nhiều kinh nghiệm với

những con trâu nhƣ trâu he, trâu trắng, trâu hay, trâu gầy, trâu chậm,

trâu ngơ… thì sẽ có những đặc điểm gì cần chú ý. Phải nói rằng, để tìm

từ ngữ và cách diễn đạt thích hợp để nêu lên đặc điểm của từng loại nhƣ

vậy quả là linh hoạt:

– Trâu chậm uống nước dơ, Trâu ngơ ăn cỏ héo.

– Trâu hay không ngại cày trưa.

– Trâu thịt thì gầy, trâu cầy thì béo.

– Trâu trắng đi đến đâu, mất mùa đến đấy.

Đó là một loạt kinh nghiệm về chăn nuôi trâu – con vật đƣợc coi là gần

gũi nhất với ngƣời nông dân. Qua tục ngữ cũng nhƣ ca dao nói về kinh

nghiệm chọn giống và chăn nuôi trâu, bằng cách diễn đạt giản dị và

những từ ngữ phong phú, chính xác, ngƣời đọc cảm nhận thấy ngƣời

nông dân Việt Nam dƣờng nhƣ đã dành cho con trâu một tình cảm thân

thiết, dƣờng nhƣ đã coi con trâu nhƣ một ngƣời bạn thực sự của mình

trong công việc và dƣờng nhƣ đã hiểu khá rõ về tính cách cũng nhƣ đặc

điểm của chúng.

Bên cạnh đó, những gia súc đƣợc nhắc đến trong ca dao tục ngữ

nói về kinh nghiệm chăn nuôi còn có con lợn (ca dao có 1 bài chiếm tỷ lệ

0,66%, tục ngữ có 13 câu chiếm tỷ lệ 5.25%) và con bò (ca dao: 3 bài

chiếm tỷ lệ 2%, tục ngữ 15 bài chiếm tỷ lệ 3,42%). Tuy nhiên có thể thấy,

trong quan niệm và cách đối xử, bò lợn hay cả những gia cầm nhƣ gà vịt

đều ở địa vị thấp hơn trâu rất nhiều vì nhiều khi bò, lợn đƣợc nhắc tới thì

bị coi nhƣ thức ăn và bị có thành kiến là dốt nát.

Trong những câu tục ngữ nói về kinh nghiệm chăn nuôi lợn, các

tác giả cũng đƣa ra một loạt từ để chỉ đặc điểm cũng nhƣ tính chất của nó

87

nhƣ lợn đực là những con chuộng phệ, lợn sề là những con chuộng chỗm,

lợn đói một bữa bằng người đói nửa năm, lợn đói một năm không bằng

tằm đói một bữa…

Còn trong kinh nghiệm chăn nuôi bò thì:

– Bò đẻ tháng năm, nỏ bằm thì hư.

– Bắt lợn tóm giò, bắt bò tóm mũi.

Đồng chiêm xin chớ nuôi bò,

Mùa đông tháng giá bò dò làm sao?

Bên cạnh chọn giống và chăn nuôi gia súc, kinh nghiệm chọn

giống, chăn nuôi gà, vịt và đánh bắt, nuôi thả cá cũng nhƣ nghề trồng dâu

nuôi tằm cũng đƣợc ngƣời xƣa đã đúc kết lại khá súc tích bằng cách chọn

lựa từ vựng sao cho hợp lý mà lại hàm chứa đƣợc đầy đủ thông tin muốn

truyền đạt. Ở những nghề này, có thể liệt kê một loạt từ vựng khá điển

hình mà khi tiếp nhận là ngƣời đọc có thể phần nào nhận diện nó liên

quan đến lĩnh vực nào. Sở dĩ chúng tôi nói phần nào là bởi vì nếu những

từ và cụm từ này đứng một mình và tách ra khỏi văn cảnh là câu tục ngữ

hay bài ca dao thì cũng rất có thể ngƣời đọc hay ngƣời nghe liên tƣởng

tới một lĩnh vực nào đó chứ không hẳn là liên tƣởng đến kinh nghiệm về

các nghề mà chúng tôi đang đề cập đến. Ví dụ:

– Nghề trồng dâu nuôi tằm ( tục ngữ có 18 bài chiếm tỷ lệ 4,1%, ca dao

có 23 bài chiếm tỷ lệ 15,33%): chăn tằm, ươm tơ, dâu, tằm xuân, nong

tằm, nong kén, nén tơ, nuôi tằm, tằm đỏ cổ, vỗ dâu vào, chăn tằm lấy

tơ, dâu cỏ lá nhỏ, dâu tàu to lá, giống dâu ưa nước…

– Nghề chọn giống và chăn nuôi gà, vịt (tục ngữ có 11 câu chiếm tỷ lệ

2,51%, ca dao có 2 bài chiếm tỷ lệ 1,33%): gà cỏ, gà cựa dài (thì rắn),

gà cựa ngắn (thì mềm), gà đen chân trắng, gà trắng chân chì, gà ri,

gà nâu, nuôi gà…

– Nghề nuôi thả và đánh bắt cá (tục ngữ có 23 câu chiếm tỷ lệ 5,25%, ca

dao có 4 bài chiếm tỷ lệ 2,66%): ao sâu tốt cá, cá mè, cá chép, vãi

88

chài, làm nghề chài cá, cầm chài, vãi cá, vào lộng ra khơi, đi biển làm

nghề, giong câu, …

3. TIỂU KẾT

Nói tóm lại, ca dao tục ngữ truyền đạt kinh nghiệm lao động sản

xuất bên cạnh những đặc điểm khá đặc sắc về ngữ âm, thì những đặc

điểm về từ vựng lại khá đơn giản.

Thứ nhất, về cơ bản, ca dao tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất

trong nông nghiệp nên hệ thống từ vựng đƣợc lựa chọn sử dụng bao gồm

một tỷ lệ khá nhiều từ chuyên dùng trong trồng trọt (đặc biệt là gieo trồng

và cày cấy lúa, cũng nhƣ là trồng trọt các loại cây nông nghiệp và các loại

cây ăn quả) và chăn nuôi (những loài gia súc phục vụ trực tiếp cho công

việc cày bừa của nhà nông nhƣ trâu bò, và các loài gia cầm nhằm cải

thiện kinh tế nhƣ gà vịt). Đây những từ mà chúng tôi tạm gọi là từ thƣờng

gặp trong sản xuất nông nghiệp: trong trồng trọt và chăn nuôi. Chúng tôi

tạm gọi nhƣ vậy vì đây là hệ thống từ vựng mà khi nhắc tới thì phần lớn

ngƣời ta sẽ liên tƣởng tới nghề nông.

Thứ hai, trong ca dao và tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất, các

tác giả chủ yếu sử dụng từ thuần Việt với cách diễn đạt giản dị không khó

hiểu. Số lƣợng từ Hán Việt chiếm tỷ lệ thấp, đặc biệt là trong ca dao; còn

từ địa phƣơng đƣợc dùng rất ít, trong ca dao hầu nhƣ không xuất hiện.

Sở dĩ, các tác giả từ thời xƣa đã rất quan tâm và chú trọng trong

việc lựa chọn từ ngữ để đúc kết lại những kinh nghiệm quý báu trong ca

dao và tục ngữ nói về kinh nghiệm lao động sản xuất hoàn toàn không có

gì khó hiểu. Trái lại, điều đó đƣợc giải thích bằng những lý do xác đáng

và hợp lý. Lý do chính là đối tƣợng hƣớng tới của tục ngữ ca dao nói về

kinh nghiệm sản xuất là đại đa số những ngƣời thuộc tầng lớp nông dân.

Mặc dù, ngày nay, nông dân Việt Nam đã có sự khác biệt rất lớn so với

nông dân Việt Nam cách nay chỉ khoảng hai mƣơi, ba mƣơi năm nhƣng

nhìn chung, nông dân là những ngƣời quanh năm vất vả, “bán mặt cho

89

đất, bán lưng cho trời”, những ngƣời ít có điều kiện học hành. Hơn thế

nữa, nhiều ngƣời trong số họ có khi cả đời không bƣớc chân ra khỏi cổng

làng do vậy cũng không có cơ hội tiếp xúc thế giới bên ngoài và mở

mang kiến thức… Với những đối tƣợng này, việc không sử dụng nhiều từ

Hán Việt cũng nhƣ từ địa phƣơng là hoàn toàn có lý và dễ hiểu. Vì nếu

một câu tục ngữ, một bài ca dao muốn đi vào tâm thức ngƣời đọc, ngƣời

nghe thì trƣớc hết nó không thể đƣợc tạo nên bằng nhiều từ ngữ xa lạ và

khó hiểu mà từ Hán Việt cũng nhƣ từ địa phƣơng đƣợc coi là lớp từ mà ai

ai khi gặp cũng có thể hiểu ngay và hiểu một cách chính xác.Thậm chí có

khá nhiều từ Hán Việt nhiều khi còn gây khó hiểu hoặc hiểu sai nghĩa cho

ngay cả những ngƣời có chút học vấn.

Vì vậy, để cho tất cả những ngƣời nông dân suốt ngày, suốt tháng

đầu tắt mặt tối có thể tiếp thu những kinh nghiệm quý báu, các tác giả từ

thời xƣa đã cố gắng sử dụng ít những lớp từ gây khó hiểu mà chú trọng

sử dụng nhiều từ thuần Việt cũng nhƣ cách diễn đạt dễ hiểu, dễ nhớ đối

với ngƣời đọc. Và kết quả của việc chọn lựa cách sử dụng từ vựng đó

chính là những thành quả mà ngƣời nông dân đạt đƣợc. Nhiều kinh

nghiệm mà bao đời truyền lại đã trở thành những bài học ăn sâu vào tâm

thức biết bao thế hệ nông dân. Những kinh nghiệm đó đã giúp cho ngƣời

nông dân đỡ vất vả hơn, chủ động hơn sáng tạo hơn trong công việc của

mình cũng nhƣ có đƣợc nhiều vụ mùa bội thu hơn, đời sống ngày càng

đƣợc cải thiện và trở nên khấm khá hơn.

Cuối cùng, từ vựng trong câu ca dao tục ngữ nói về kinh nghiệm

sản xuất đƣợc lƣu truyền trong bao thế hệ ngƣời Việt là một trong những

bằng chứng quan trọng chứng minh một hiện thực rằng Việt Nam là một

trong những cái nôi đầu tiên của nền văn minh nông nghiệp lúa nƣớc

trong khu vực và trên thế giới.

90

PHẦN KẾT LUẬN

ao động là quá trình mà con ngƣời phát triển lý trí cũng nhƣ tôi

L

luyện cảm quan thẩm mỹ. Do đó, quá trình lao động là quá trình

phát triển khoa học và văn nghệ. Những sáng tác dân gian trong mỗi thời

kỳ lịch sử đều có liên hệ chặt chẽ với lao động và ngƣợc lại, những sản

phẩm trong quá trình lao động ấy, những sáng tác truyền miệng lại cũng

có mối liên hệ chặt chẽ với lao động sản xuất, đƣợc sản sinh trên cơ sở

của lao động sản xuất. Cũng nhƣ các loại văn học truyền miệng khác,

hiện thời chúng ta chƣa thể biết đƣợc tục ngữ và ca dao đã xuất hiện vào

một thời kỳ nhất định nào trong lịch sử tồn tại của con ngƣời. Nhƣng

chúng ta có thể tin đƣợc loại tục ngữ nói về kinh nghiệm lao động của

ngƣời Việt và nói về các hiện tƣợng tự nhiên chắc đã phải ra đời từ rất

sớm, tƣơng ứng với sự phát triển rất sớm của nền kinh tế nông nghiệp của

nƣớc ta. Chính vì vậy, chúng tôi quyết định chọn ca dao, tục ngữ nói về kinh

nghiệm sản xuất trong nông nghiệp làm đối tƣợng chính của đề tài.

Nội dung chính của luận văn:

* Về nội dung: Kinh nghiệm trong lao động sản xuất đƣợc đúc kết

lại trong ca dao và tục ngữ trong hai mảng nội dung lớn là trồng trọt và

chăn nuôi. Đây là hai nghề chính trong sản xuất lao động nông nghiệp

của Việt Nam tự bao năm nay. Và cũng chính bởi lẽ đó mà có thể nói,

những câu tục ngữ ca dao đúc kết những kinh nghiệm trong lao động sản

xuất cũng chiếm một vị trí quan trọng trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt

Nam.

* Về đặc điểm ngữ âm: ca dao cũng nhƣ tục ngữ Việt Nam mang

chủ đề kinh nghiệm lao động sản xuất đều là những đơn vị mang đặc

trƣng chung của thơ ca Việt Nam là có vần và có nhịp. Đây có thể nói là

91

hai đặc điểm nổi bật của của ca dao tục ngữ nói chung và ca dao tục ngữ

nói về kinh nghiệm lao động sản xuất nói riêng.

– Ca dao mang chủ đề kinh nghiệm lao động sản xuất chủ yếu

đƣợc sáng tác theo thể lục bát và tuân thủ nghiêm chỉnh hiệp vần chung

của thể thơ lục bát: chữ cuối câu trên phải vần với chữ thứ 6 câu dƣới và

mỗi hai câu mỗi đổi vần, và vần luôn là vần bằng. Nhờ có vần, mỗi dòng

ca dao không chỉ trở nên hài hoà, dễ nhớ, có nhạc điệu mà nó còn có thể

truyền tải thông tin một cách đầy đủ và trọn vẹn hơn.

Về nhịp điệu, ca dao nói về kinh nghiệm sản xuất rất đa dạng và

linh hoạt. Nhờ vậy, những bài ca dao truyền đạt kinh nghiệm quý báu

trong lao động sản xuất trở nên không đơn điệu, tẻ nhạt, cứng nhắc mà

trái lại, nhờ có sự đan xen của các cách ngắt nhịp khác nhau ấy mà những

kinh nghiệm quý báu ấy đƣợc truyền tải một cách trọn vẹn theo đúng tâm

nguyện của những ngƣời đi trƣớc.

– Về đặc điểm ngữ âm của tục ngữ nói về kinh nghiệm lao động:

Tục ngữ đúc kết kinh nghiệm lao động sản xuất gồm hai loại: Loại câu

không gieo vần và loại câu có gieo vần

+ Loại câu không gieo vần có thể là những tuy không vần vè nhƣng

đƣợc chia làm hai vế rất cân đối nhau về ý tứ những cũng có thể là những

câu không cân đối nhƣng khi đọc lên nghe rất xuôi tai. Ở những câu tục

ngữ thuộc loại không gieo vần và cũng đặt không đối, ngƣời sáng tác có

mục đích duy nhất là truyền lại kinh nghiệm của mình nên chỉ cốt sao cho

ý đúng, lời gọn mà thôi.

+ Loại câu có gieo vần: nhìn chung, vị trí hiệp vần của tục ngữ Việt

Nam nói chung và tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất rất đa dạng vần

rất phong phú với các loại vần khác nhau nhƣ vần lƣng, vần liền, vần

cách tiếng. Nhìn chung, các kiểu vần này không tồn tại riêng rẽ mà luôn

kết hợp một cách linh hoạt trong các đơn vị tục ngữ.

92

Phong Cảnh Việt Qua Tục Ngữ, Ca Dao, Thơ Ca

Ai lên làng Quỷnh hái chèHái dăm ba lá xuống khe ta ngồi! Hà Nội: Muốn ăn cơm trắng cá mèThì lên làng Quỷnh hái chè với anhMuốn ăn cơm trắng cá rôThì lên làng Quỷnh quẩy bồ cho anh!

Đường vô xứ Nghệ quanh quanhAi về Hà Nội ngược nước Hồng Hà

Đường ra Hà Nội như tranh vẽ rồng

Bườm giong ba ngọn vui đà nên vuiĐường về xứ Lạng mù xa…Có về Hà Nội với ta thì vềĐường thủy thì tiện thuyền bèĐường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang

Ai đi trẩy hội chùa HươngLàm ơn gặp khách thập phương hỏi giùmMớ rau sắng, quả mơ nonMơ chua sắng ngọt, biết còn thương chăng?

Ngày xuân cái én xôn xaoCon công cái bán ra vào chùa HươngChim đón lối, vượn đưa đườngNam mô đức Phật bốn phương chùa này.

Ra đi anh nhớ Nghệ AnNhớ Thanh Chương ngon nhútNhớ Nam Đàn thơm tương…

“Tiếng đồn cá mát sông GăngDẻo thơm ba lá, ngon măng chợ Cồn.”

Hà Tĩnh:

Ai về Nhượng Bạn thì vềGạo nhiều, cá lắm, dễ bề làm ăn.

” Yến sào Vinh SơnMẹ bồng con ra ngồi ái TửCửu khổng cửa rònNam sâm Bố TrạchCua gạch Quảng KhêGái trông chồng đứng núi Vọng PhuBao giờ nguyệt xế, trăng luNghe con chim kêu mùa hạ, biết mấy thu gặp chàng. Sò nghêu quán HànRượu dâu Thuận Lý…”

Quảng Trị:

Đi mô cũng nhớ quê mìnhNhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.

“Quít giấy Hương CầnCam đường Mỹ LợiVải trắng Cung ViênNhãn lồng phụng tiêuĐào tiên Thế miếuThanh trà Nguyệt biếudâu da làng TruồiHạt sen Hồ Trịnh…”

Quảng Nam:

Nem chả Hòa VangBánh tổ Hội AnKhoai lang Trà KiệuRượu thơm Tam kỳ…

Cô gái làng SonKhông bằng tô don Vạn Tường.

Quảng Ngãi:

Ai về Quảng Ngãi quê taMía ngon, đường ngọt, trắng ngà dễ ănMạch nha, đường phổi, đường phènKẹo gương thơm ngọt ăn quen lại ghiền

“Mứt gừng Đức PhổBánh nổ Nghĩa HànhĐậu xanh Sơn Tịnh”.

Mạch nha Thi PhổBánh nổ Thu XàMuốn ăn chà làLên núi Định Cương

Bình Định:

“Gỏi chính Châu TrúcBánh tráng Tam quanNón lá Gò GăngNem chua chợ Huyện”

Công đâu công uổng công thừaCông đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan

Muốn ăn bánh ít lá gaiLấy chồng Bình Định sợ dài đường đi…

Quảng Nam nổi tiếng bòn bonChả viên Bình Định vừa ngon vừa lànhChín mùi da vẫn còn xanhMùi thơm cơm nếp, vị thanh đường phèn…

Bình Định có núi Vọng PhuCó đầm Thị Nại, có cù lao XanhEm về Bình Định cùng anhĐược ăn bí đỏ nấu canh nước dừa

“Xoài đá trắngYến xào Hòn Nội Phú Yên:

Sắn Phương lụa”

Vịt lộn Ninh HòaTôm hùm Đinh BaNai khô Diên KhánhCá tràu Võ cạnhSò huyết Thủy Triều…

Phan Rí, Phan Thiết (Bình Thuận) :Cô kia bới tóc cánh tiênGhe bầu đi cưới một thiên cá mòiChẳng tin giở thử ra coiRau răm ở dưới cá mòi ở trên

Miền Nam

Sài Gòn:

Trầu Bà Điểm xẻ ra nửa láThuốc Gò Vấp hút đã một hơiBuồn tình gá nghĩa mà chơiHay là anh quyết ở đời với em?

Chị Hươu đi chợ Đồng NaiBước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò

Đất Sài Gòn nam thanh nữ túCột cờ Thủ Ngữ thật là caoVì thương anh em vàng võ má đàoEm tìm khắp chốn nhưng nào thấy anh.

Tiếng đồn chợ xổm nhiều khoaiĐất đỏ nhiều bắp, La Hai nhiều đường.

Khánh Hòa:

Đường Sài Gòn cong cong quẹo quẹo Gái Sài Gòn khó ghẹo lắm anh ơi

Đèn Sài Gòn (Cầu Tàu) ngọn xanh ngọn đỏ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ nhu Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ.

Đi đâu mà chẳng biết ta Ta ở Thủ Đức vốn nhà làm nem.

Nhà Bè nước chảy chia hai Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về

Biên Hòa có bưởi Thanh Trà Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh.

Chợ Sài Gòn cẩn đá Chợ Rạch Giá cẩn xi măng Giã em xứ sở vuông tròn Anh về xứ sở không còn ra vô.

Trúc mọc bờ ao kêu bằng trúc thủy Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa. Viết thư thăm hết mọi nhà Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em

Chợ Sài Gòn đèn xanh đèn đỏ Anh coi không tỏ anh ngỡ đèn tàu Lấy anh em đâu kể sang giàu Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em.

Anh ngồi quạt quán Bến Thành Nghe em có chốn anh đành quăng om! Anh ngồi quạt quán Bà Hom Hành khách chẳng có, đá om quăng lò.

Bình Dương:

Ăn bưởi thì hãy đến đâyVào mùa bưởi chín, vàng cây trĩu cànhNgọt hơn quít mật, cam sànhBiên Hòa có bưởi trứ danh tiếng đồn

Biên Hòa bưởi chẳng đắng theĂn vào ngọt lịm như chè đậu xanh.

Chim bay về núi Biên HòaChồng đây vợ đó ai mà muốn xa

Ai ơi về Đại Phố ChâuThăm núi Châu Thới, thăm cầu Đồng Nai.

Đồng Nai gạo trắng nước trongAi đi đến đó thời không muốn về

Đồng Nai nước ngọt gió hiềnBiên Hùng muôn thuở tiếng truyền an vui

Ai qua Phú Hội, Phước Thiền (Thành)Bâng khuâng nhớ mãi sầu riêng Long Thành

Hết gạo thì có Đồng NaiHết củi thì có Tân Sài chở vô

Sông Đồng Nai nước trong lại mátĐường Hiệp Hòa lắm cát dễ điGái Hiệp Hòa xinh như hoa thiên lýTrai Hiệp Hòa chí khí hiên ngang.

Long An:

Gái Tầm Vu đồng xu ba đứaCon trai Thủ Thừa cưỡi ngựa xuống mua

Đèn nào cao bằng đèn Ba GácGái nào bạc bằng gái chợ GiồngAnh thương em từ thuở mẹ bồngBây giờ em khôn lớn, em lấy chồng bỏ anh(Bến Lức – Long An)

Anh muốn về Long An, Vàm CỏMấy lời em to nhỏ, anh bỏ sao đànhChừng nào chiếc xáng nọ bung vànhNúi kia hết đá, anh mới đành xa em.

Bến Tre:

Bến tre dừa ngọt sông dàiNơi chợ Mõ Cày có kẹo nổi danhKẹo Mõ Cày vừa thơm vừa béoGái Mõ Cày vừa khéo vừa ngoanAnh đây muốn hỏi thiệt nàngLà trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng?

Bến Tre biển rộng sông dàiAo trong nuôi cá, bãi ngoài thả nghêu

Muối khô ở Gảnh mặn nồngGiồng Trôm, Phong Nẫm dưa đồng giăng giăng

Bến Tre trai lịch, gái thanhNói năng duyên dáng ai nhìn cũng ưa.

Tiền Giang:

Gò Công giáp biển nổi tiếng mắm tôm chàMắm tôm chua ai ai cũng chắc lưỡi hít hàSài Gòn, chợ Mỹ ai mà không hay.

Sông vàm Cỏ nước trong thấy đáyDòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàngAi về Mỹ Thuận, Tiền GiangCó thương nhớ gã đánh đàn năm xưa?

Phượng hoàng đậu nhánh vông nemPhải dè năm ngoái cưới em cho rồiNgã tư chợ Gạo nước hồiTui chồng mình vợ còn chờ đợi ai.

Đồng Tháp:Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánhNước Tháp Mười lóng lánh cá tôm

Muốn ăn bông súng mắm khoThì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm

Tháp Mười nước mặn đồng chuaNửa mùa nắng cháy, nửa mùa nước dâng.

Tháp Mười sinh nghiệp phèn chuaHổ mây, cá sấu thi đua vẫy vùng

Ai ơi về miệt Tháp MườiCá tôm sẳn bắt, lúa trời sẳn ăn.

Đèn nào sáng bằng đèn Sa ĐécGái nào đẹp bằng gái Nha MânAnh thả ghe câu lên xuống mấy lầnThương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run.

Hoa Sa ĐécNem Lai Vung vừa chua vừa ngọtQuít Lai Vung võ đỏ ruột hồng

Cần Thơ gạo trắng nước trong Cần Thơ:

Bến Ninh Kiều

Ai đi đến đó thời không muốn về

Đất Cần Thơ nam thanh nữ túĐất Rạch Giá vượn hú chim kêuQuản chi nắng sớm mưa chiềuLên voi xuống vịnh cũng trèo thăm em.

Cần Thơ là tỉnh, Cao Lãnh là quêAnh đi lục tỉnh bốn bềMãi lo buôn bán không về thăm em.

Bạc Liêu:Sông nước Bạc Liêu Lục tỉnh có hạt Ba XuyênBạc Liêu chữ đặt, bình yên dân ràyMâu Thìn vốn thiệt năm nayMột ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang.Phong Thạnh vốn thiệt tên làngGiá Rai là quận, chợ làng kêu chung.Anh em Mười Chức công khùngBị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan…

Bạc Liêu nước chảy lờ đờDưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu.

Kiên Giang:

Vịt nằm bờ mía rỉa lôngCám cảnh thương chồng đi thú Hà Tiên

Trai nào khôn bằng trai Long MỹGái nào mũ mỹ bằng gái Hà Tiên.

U Minh, Rạch Giá thị hóa Sơn TrườngDưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.

Cà Mau:

Rau đắng nấu với cá trêAi đến đất Mũi thì “mê” không về!

Cà Mau khỉ khọt trên bưngDưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.

Cà Mau hãy đến mà coiMuỗi kêu như sáo thổiĐĩa lội lềnh như bánh canh.Rừng U Minh là nơi trú ngụ của nhiều loài thú rừng, chim muông.Rừng quốc gia U Minh Hạ

Mỗi địa danh, mỗi vùng miền có một kho tàng ca dao dân ca nói riêng, nói lên vẽ đẹp về thiên nhiên, về con người, về món ăn đặc sản. Nhưng tất cả đều mang một nét chung đó là thể hiện tình cảm, những suy nghĩ của con người Việt Nam về những vùng đất trù phú của quê hương ta.

Mỗi câu ca dao, tục ngữ, những bài thơ đều phảng phất những nét đẹp về con người, về sự trù phú mà thiên nhiên đã ban tặng cho những vùng đất nơi đây. Nơi mà con người hiền hòa, thân thiện và hiếu khách, quanh năm cần mẫn với ruộng đồng, chịu thương chịu khó. Nơi mà những vùng đất với những con người anh dũng, bất khuất chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng ngã xuống để mang lại độc lập tự do, ấm no cho đất nước. Nơi có những tài nguyên màu mỡ, phong phú mà thiên nhiên, tạo hóa đã ưu ái ban tặng cho con người Việt Nam chúng ta.

Ca Dao Tục Ngữ Bình Định

‘Bình Định nón Gò Găng

Bún Song thần An Thái

Lụa Đậu tư Nhơn Ngãi

Xoài Tượng chín Hưng Long

Mặc ai mơ táo ước hồng

Tình quê em giữ một lòng trước sau.

Bình Định có hòn Vọng Phu

Có đầm Thị Nai có Cù Lao Xanh.

Em về Bình Định cùng anh

Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa.

1.Muốn ăn bánh ít lá gai

Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi.

2.Bình Định có núi Vọng Phu Có Đầm Thị Nại có Cù Lao xanh.

3.Công đau công uổng công thừa Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan.

4.Mẹ ơi đừng đánh con đau Để con đánh trống hát tuồng mẹ nghe.

5.Ai về Bịnh Định mà coi Con gái Bình Định cầm roi đi quyền.

6.Ai về Bình định thăm bà Ghé vô em gởi lạng trà Ô long. Trà Ô long nước trong vị ngọt Tình đôi mình như đọt mía lau chúng tôi đi bờ lở một mình Phất phơ chéo áo giống hình trò

Ba Trò Ba đi học trường xa

Cơm canh ai nấu mẹ già ai coi

8.Chẳng tham ruộng cả ao liền Tham vì cái bút cá nghiên anh đồ.

Tiếng đồn Bình Định tốt nhà Phú Yên tốt lúa, Khánh Hoà tốt trâu

.Công đâu công uổng công thừa Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan

.Em về Đập Đá quê cha Gò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chồng

13.Anh về Đập Đá , Gò găng Bỏ em kéo vải sáng trăng một mình Tiếng ai than khóc nỉ non Vợ chàng lính thú trèo hòn Cù Mông

14.Chiều chiều én liệng Truông Mây Cảm thương Chú Lía bị vây trong thành

15.Non Tây áo vải cờ đào Giúp dân dựng nước xiết bao công trình

16.Cây Me cũ, Bến Trầu xưa Dẫu không nên tình nghĩa cũng đón đưa cho trọn niềm

17.Ngó vô Linh Đỗng mây mờ Nhớ Mai nguyên soái dựng cờ đánh Tây

18.Hầm Hô cữ nước còn đầy Còn gương phấn dũng , còn ngày vinh quang

19.Bình Định có đá Vọng Phu Có đầm Thị Nại có Cù lao Xanh Lụa Phú Phong nên duyên nên nợ Nón Gò găng khắp chợ mến thương

20.Bên kia sông, quê anh An Thái Bên này sông, em gái An Vinh Thương nhau chung dạ chung tình Cầu cha mẹ ưng thuận cho hai đứa mình lấy nhau

21.Cưới nàng đôi nón Gò Găng Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn Ai về Tuy Phước ăn nem Ghé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm

22.Rượu ngon Trường Thuế mê li Gặp nem Chợ Huyện bỏ đi sao đành

23.Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Gi Sông xanh, núi cũng xanh rì Vào Nam, ra Bắc ai cũng đi con đường này Nghìn năm gương cũ còn đây Lòng ơi! Phải lo nung son sắt kẻo nữa đầy bể dâu – Cầu Đôi nằm cạnh Tháp Đôi Dễ chi nhân ngãi mà rời được nhau

24.Tháp kia còn đứng đủ đôi Cầu còn đủ cặp huống cho tôi với nường ( nàng) Suốt bốn mùa xuân, hạ, thu, đông Thiếp ngồi dệt vải chỉ mong bóng chàng Dừa xanh trên bến Tam Quan Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu Ôm đàn gảy khúc Cầu hoàng Thiếp xin gõ nhịp để chàng lựa dây Bao giờ rừng quế hết cây Dừa Tam Quan hết nước thì em đây mới hết tình Dừa xanh sừng sững giữa trời Đem thân mà hiến cho đời thuỷ chung

25.Muốn ăn bánh ít nhân mè Lấy chồng Hòa Đại đạp chè thâu đêm Muốn ăn bánh ít nhân tôm Lấy chồng Hòa Đại ăn cơm củ mì

26.Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di Sông xanh núi cũng xanh rì Vào Nam ra Bắc cũng đi đường này chúng tôi về Phù Mỹ nhắn nhe Nhắn chị bán chè sao vậy chẳng lên?

Anh về dưới vạn thăm nhà

Ghé vô em gởi lạng trà Ô Long

chúng tôi về Bình Định thăm cha Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em

29.Quy Nhơn có tháp Chòi Mòi Có đầm Thị Nại chạy dài biển đông

30.Khéo khen con tạo trớ trêu

Nắn nguyên Bãi Trứng nhớ tổ tiên là Âu Cơ

32.Ai về thăm cảnh An Khê

Sông Ba chồng nhớ vợ nhà Sông Côn