Tranh của thiền sư Nhật Bản Hakuin Ekaku (. 1686 -1769 ) 1. Khỉ trong tục ngữ, ca dao:
Chuyền qua chuyền lại rớt ùm xuống sông.
Hứa hươu hứa vượn: hươu vượn ở núi nhanh nhẹn thấy đó mất đó, nên “hứa hươu hứa vượn” là hứa suông, hứa cho qua chuyện, không có gì ch ắc chắn.
Chim kêu, vượn hú biết nhà má đâu?: Nỗi lòng cô gái hiếu thảo không muốn cha mẹ gả con xa, đồng thời có ý khuyên chúng ta không nên ép duyên, mà hãy để cho con cái được tự do lựa chọn hôn nhân dựa trên tình yêu.
Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi Em đây luống những ngậm ngùi tuổi Thân.
Tâm viên ý mã: Tâm ý tán loạn chạy như vượn như mã, không tập trung.
Vượn sống, ăn, ngủ trên cây, bắt phải lìa cây sẽ chết rũ. Tình yêu cũng vậy, buộc phải lìa nhau “quân tại tương giang đầu, thiếp tại tương giang vĩ” thì sẽ “muôn năm sầu thảm/ Nhớ thương còn một nắm xương thôi/ Thân tàn ma dại đi rồi/ Rầu rầu nước mắt, bời bời ruột gan” (thơ Hàn Mặc Tử).
Thiền Tông Bản Hạnh: Bảnin năm 1745, ở phần phụ ghi như sau:
” Yên Tử sơn Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang tôn giả Vịnh Hoa Yên Tự phú. ( có nghĩa là: Phú Vịnh Chùa Hoa Yên của ngài Huyền Quang, tổ thứ ba Trúc Lâm núi Yên Tử).
Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726): từng trụ trì hai chùa lớn nhất của hệ phái Trúc Lâm Yên Tử là chùa Quỳnh Lâm và chùa Long Động.
Thiền Sư Huyền Quang (1254-1334) thi đỗ T rạng Nguyên làm trong Viện Nội Hàn, tiếp sứ Bắc triều… Lúc 51 tuổi treo ấn từ quan theo Vua Trần Nhân Tông đi tu, là tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử . Người ta xem Sư cùng Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông và ngang hàng với 6 vị tổ của và 28 vị tổ của Thiền Ấn Độ. Lê Quý Đôn khen thơ Sư “ý tinh tế, cao siêu, lời bay bướm, phóng khoáng”.Tác phẩm của Sư gồm có:
Vịnh Hoa Yên Tự Phú: (Phú vịnh Chùa Hoa Yên) ếtheo thể phú gồm 98 vế trong đó có nhắc đến vượn 2 lần, xin trích 3 đoạn như sau:
Ngự sử mai hai hàng chầu rạp, Trượng phu tùng mấy chạnh phò quanh. Phỉ thuý sắp hai hàng loan phượng, (cây phỉ thúy) Tử vi bày liệt vị công khanh. (bụi tử vi) Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng (óc là gọi) Vượn bồng con kề cửa nghe kinh.
Thi sĩ Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370): từ nhỏ nổi tiếng thần đồng, năm 15 tuổi đỗ hoàng giáp. Đỗ tiến sĩ cùng khoa với Mạc Ðĩnh Chi. Năm 24 tuổi làm Giám quân, năm 28 tuổi đi sứ nhà Nguyên. Tính cương trực, tài kim văn võ, có công trong việc xây dựng, bảo vệ đất nước, làm quan qua 5 đời vua triều Trần. Ông có 5 tác ph ẩm:
Trong bài thơ ” Yên Tử sơn Long Động tự” có tả tiếng vượn kêu trăng (viên minh nguyệt) ai oán buồn thảm sau đây:
Yên Tử sơn Long Động tự
Nhà sử học nhận xét ” Ông tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử, bách gia, binh thư thao lược đều am hiểu cả”.
Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh làm quan . Sau có 10 năm phiêu dạt (1407-1417) trong văn thơ ông có nói nhiều đến “thập niên phiêu chuyển” (mười năm phiêu dạt) lênh đênh góc biển chân trời. Có người đoán ông đã từng sang Tàu trong thời kỳ nàydựa trên một số thơ của ông có nhắc đến nhiều địa danh ở Trung Hoa
Chụm tự nhiên một thảo am Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi Dầu lòng đi Bắc liễn về Nam
Thơ văn Nguyễn Trãi gồm lẫn Nôm thuộc các lãnh vực văn học, lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi… song đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên . Các tác phẩm còn lại phần lớn được sưu tập trong bộ ỨcTrai Thi Tập của Dương Bá Cung khắc in năm .
Ngập ngừng bưng chén ly bôi, Tình sum họp chiếu chăn càng mãi mãi Hay là cá nước chẳng ưa màu phấn đạiÐem duyên em buộc lại chàng TôXui nên kẻ Hán người Hồ. Nghĩ mình muôn dặm thương người năm canh.Nhớ duyên kỳ ngộ ba sinh,Trăm năm xin gửi chút tình lại đây.
gồm 105 bài thơ chữ Hán. Quốc Âm Thi Tập gồm 254 bài chữ Nôm. Ông được xem như nhà thơ đầu tiên làm thơ chữ Nôm, cũng là người có số lượng thơ luật chữ Nôm nhiều nhất trong thơ cổ điển VN.
Đoản trạo hệ tà dương, Thông thông yết thượng phương. Vân quy Thiền sáp lãnh, Hoa lạc giản lưu hương.Nhật mộ viên thanh cấp, Sơn không trúc ảnh trường. Cá trung chân hữu ý, Dục ngữ hốt hoàn vương (vong).
tự Quỳnh Hương, không rõ năm sinh năm mất, là chị em họ với vua Nữ sĩ Ngô Chi Lan: Lê Thánh Tông , một trong những nhà thơ nữ đầu tiên trong văn học sử VN , được Nguyễn Trãi nhận làm con nuôi cải thành họ Nguyễn tên là Hạ Huệ. Năm 1442, cha mẹ nuôi bị vu tội giết vua bị án tử hình, Bà liền cải dạng lấy lại tên thật trốn ở nhiều nơi cho đến khi thái tử Lê Tư Thành lên nối ngôi vua, bà mới dám trở về. Bà nổi tiếng đẹp người, đẹp nết, giỏi thi ca, thông hiểu , viết chữ đẹp, nên được Vua ban hiệu là Kim Hoa nữ học sĩ cho dự nhiều cuộc xướng họa thơ văn, đảm đương việc dạy lễ nghi, văn chương cho các cung nữ.
“Việt Nam khởi tổ xây nền”.
Thi hào Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585): Năm 45 tuổi Ông mới chịu đi thi và đỗ Trạng nguyên , làm quan được Trình Tuyền Hầu rồi thăng Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi là Trạng Trình.
Khi Ấu Chúa tin dùng nịnh th ần, triều chính nhiễu nhương chia bè kết phái, Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ xin trị tội 18 lộng thần, nhưng không được chấp thuận, năm 1542 ông xin về quê trí sĩ (sau 8 năm làm quan) dựng am Bạch Vân, lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm Nghinh Phong… mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, được các môn sinh tôn là “Tuyết Giang “, học trò có nhiều người hiển đạt như Phùng Khắc Khoan …
Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu Nguyễn Bỉnh Khiêm Có một đàn xà đánh lộn nhau
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang chất triết lý, suy tưởng, thời thế… gồm chữ Hán: Bạch Vân am thi tập có khoảng 1,000 bài, nay còn lại khoảng 800 bài. Chữ Nôm: Bạch Vân quốc ngữ thi tập sáng tác từ khi qui ẩn hiện còn lại khoảng 180 bài. Ngoài ra, còn nhiều (bi ký), một số khắc vào đá đã được tìm thấy.
còn gọi là ” Sấm Trạng Trình ” là những lời tiên tri bằng thơ về các biến cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm (1509-2019).
Đình đài ai dựng ở nơi này, Tam Giang khẩu đường dạ bạc Chặt hết cành tùng, trứng hạc bay. Ngọ mộng tỉnh lai vãn, Tà nhật yểm song phi. Phong kính duy thuyền tảo, Sơn cao đắc nguyệt trì. Ỷ bồng thiên lý vọng, Hợp nhãn cách niên ty (tư). Mạc cận thương nhai túc, Ðề viên triệt dạ bi. Ðêm đậu thuyền ở Sơn Ðường Ngủ trưa, tỉnh dậy muộn, Bóng xế dọi song tây. Gió mạnh, neo thuyền sớm, Non cao, thấy nguyệt chầy. Dựa mui, nghìn dặm ngóng, Chớp mắt, một năm đầy. Chớ đậu thuyền gần núi, Vượn hú đêm buồn lây. Một cung gió thảm mưa sầu, Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay! Ve ngâm vượn hót nào tày, Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.Hỏi rằng: “Này khúc ở đâu? Hang đá năm nào vừa đục phá, Tượng vàng đêm trước mất còn đây? Mây ngừng chốn chốn sư yên giấc, Chiều xuống non non vượn oán ai? Ðốt nén hương đàn tiêu tuệ nghiệp, Quay đầu đã cách vạn trùng nhai.
Ngay trong phần đầu của tập có tựa đề “Trình tiên sinh quốc ngữ”, lần đầu tiên 2 chữ Việt Nam đã được nhắc đến:
Thành Thăng Long Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Nguyễn Công Trứ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An Anh Giả Điếc Trong thiên hạ có anh giả điếc, Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây! Chẳng ai ngờ “sáng tai họ, điếc tai cày”, Lối điếc ấy sau này em muốn học. Toạ trung đàm tiếu, nhân như mộc Dạ lí phan viên nhĩ tự hầu. Khi vườn sau, khi ao trước; khi điếu thuốc, khi miếng trầu. Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu; Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc Điếc như thế ai không muốn điếc? Điếc như anh dễ bắt chước ru mà! Hỏi anh, anh cứ ậm à. Nguyễn Khuyến Hồi thủ khả lân ca vũ địaĐất Tràng An là cổ đế kinhNước non một dải hữu tìnhTrời Nam Việt trước gây đồ đế kỷNgười thôn ổ dấu phong lưu thành thịĐất kinh kỳ riêng một áng lâm toànMen sườn non tiếng mục véo vonIn mặt nước buồm ngư lã chãHoa thảo kỷ, kinh xuân đại tạGiang sơn do tiếu cổ hưng vươngĐồ thiên nhiên riêng một bức tang thươngKhách du lãm coi chừng thăm hỏiĐã mấy độ sao dời vật đổiNào vương cung đế miếu ở đâu nàoMỉa mai vượn hót oanh chào!
Ông còn sử dụng 2 chữ Việt thêm 3 lần nữa trong tập thơ Bạch Vân am thi tập.
Trong các bản Xin trích 3 đoạn trong bản Sấm ký dịch ra quốc ngữ thì bản của Sở Cuổng là sớm nhất in trong Quốc học tùng thư (Nam Ký xuất bản, Hà Nội, 1930, in tại nhà in Trịnh Văn Bích). Sấm ký này có nhắc đến “Khỉ, Thân, Vượn” như sau:
Thi hào Nguyễn Du (1766-1820): sinh ra trong gia đình đại quý tộc, năm 10 tuổi mất cha, 13 tuổi mất mẹ, ở cùng anh cả, có lúc làm con nuôi của một vị quan, từmg đi giang hồ 3 năm ở Trung Hoa. Đỗ tam trường năm 19 tuổi, nhưng đời hoạn lộ thăng trầm bởi thời thế đổi thay. Có 10 năm phiêu bạt (1786-1796). Học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành… ở thể nào cũng có bài đặc sắc.
Ngoài 4 tác phẩm bằng chữ Nôm, có 3 tác phẩm bằng chữ Hán trong đó có ” gồm 131 bài viết trong chuyến đi sứ sang Tàu. Trong tập thơ này xin trích 3 bài sau đây có nhắc đến tiếng vượn kêu buồn:
Tú Xương
Vọng Quan Âm miếu
Trong bài Sơn Đường dạ bạc (Đêm đậu thuyền ở Sơn Đư ờng) cónhắc đến tiếng vượn kêu não lòng:
Nguyễn Nhược Pháp
Sau cuộc nổi dậy ở Sơn Tây thất bại, các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị thu đốt, cấm tàng trữ lưu hành, nên đã bị thất lạc nhiều. Hiện còn sót lại 4 thi tập có trên 1,000 bài thơ (có cả văn xuôi) được viết bằng lẫn Hán.Cao Bá Quát nhà nghèo, thông minh, có khí phách anh hùng, dám nói dám làm, khinh kẻ quỳ gối khom lưng. ” đày đi làm Giáo thụ ở Quốc Oai, Sơn Tây xa xôi hẻo lánh ít học trò, Ông viết 2 câu đối dán ngoài nhà học đầy mỉa mai khinh bạt, trong đó có 2 chữđười ươi” như sau :
Nhà dột một hai gian, một thầy, một cô, một chó cái.
bài thơ “Thành Thăng Long” ở câu cuối có nhắc đến 2 chữ Thi sĩ Nguyễn Công Trứ (1778-1858): nhà nghèo, có chí, làm quan nhiều lần bị giáng chức. Năm 80 tuổi còn dâng sớ xin cầm quân đánh quân Pháp xâm lược. Thơ văn của ông chỉ còn khoảng 150 bài, nhiều nhất là ca trù và thơ Nôm. Trong vượn hót” như sau:
gồm khoảng 200 bài bằng chữ Hán và 100 bài bằng với nhiều thể loại khác nhau. Có bài Ông viết bằng rồi tự dịch ra chữ Nôm, hoặc viết bằng chữ Nôm rồi tự dịch sang chữ Hán, cả hai đều điêu luyện.
Lục Vân Tiên (gồm 2,082 câu thơ ) sau thời gian truyền miệng, năm được khắc in lần đầu, được các nhà văn Pháp dịch ra tiếng nước ngoài.
Truyện thơ Nôm (gồm 3.456 câu) trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen 33 bài thơ và các thể khác.
Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca (Ngư tiều y thuật vấn đáp) thơ Nôm (gồm 3,642 câu) phần lớn là thơ lục bát, có xen 21 bài thơ ĐL và một số bài phú…
Thời gian rạch xé tô bồi cho em. (Bùi Giáng, Xuân ra đi)
Trong Lục Văn Tiên có 6 câu tả cảnh+tả tình đặc sắc, hình ảnh con vượn được nhắc đến buồn bã giống như tâm trạng của con người trước cảnh chia ly:
Thi sĩ Tú Xương Nhà thơ trào phúng lấy vợ năm 16 tuổi, đi thi từ lúc 17 tuổi (); cuộc đời 37 năm bần hàn chỉ gắn liền với thi cử: thi 8 lần mới đỗ Tú Tài, và vì không đỗ được Cử Nhân nên ở nhà ăn lương vợ cho đến mất, nhưng thơ ông đã được xếp vào bậc “thần thơ thánh chữ”. Cuốn “Tú Xương tác phẩm giai thoại” xuất bản đã chọn ra 134 bài cho là của Tú Xương, trong đó bài “Than sự thi” nhắc đến khỉvới ý chửi rũa trách móc như sau:
con của học giả Nguyễn Văn Vĩnh ; đỗ tú tài, từng viết báo Annam Nouveau, Hà Nội Báo, Tinh hoa, Đông Dương Tạp chí, mất năm 24 tuổi do bệnh thương hàn. Ông có 2 tác phẩm Ngày xưa (1935), Người học vẽ (1936).
3. Kết Luận:
Trong bài thơ “Chùa Hương” của ông có nhắc đến bầy “khỉ” dễ thương hiền lành đang ngồi trong cảnh núi rừng hoang dã khi người đẹp đi qua, xin trích 2 khổ:
Réo rắt suối đưa quanh, Ven bờ, ngọn núi xanh, Nhịp cầu xa nho nhỏ: Cảnh đẹp gần như tranh.
Vinh Hồ Orlando 7/10/2000
Sau khi đậu “cao đẳng tiểu học” được học bổng theo ban chuyên khoa để thi tú tài bản xứ thì “thần Ái tình hiện đến” khiến ông bỏ học, quay qua viết văn, làm thơ. Sở trường thơ tượng trưng, có nhiều tứ thơ, hình ảnh, ngôn từ lạ lẫm, ma quái, hoặc đài các mê hồn, thường tìm về thuở sơ khai, siêu tưởng…
Năm tập thơ Mê Hồn Ca ra đời. Năm , ông cộng tác với giữ mục Tao Đàn chuyên về thơ ca cho đến hết đời. Năm , in tập thơ Đường vào tình sử (được trao giải thưởng Văn chương về thi ca năm 1962). Đinh Hùng còn 8 tác phẩm chưa xuất bản.
Ta mê tiếng vượn sầu muôn kiếp Chim núi cầm canh, hoẵng gọi bầy. Hay:Rồi những đêm sâu, bỗng hiện về Vượn lâm tuyền khóc rợn trăng khuya.
Trải sông nước vượt qua từng châu thổ Ta đến đây nghe vượn núi kêu sầu.
Tiếng vư ợn sầu hoang liêu tê tái trong thơ lục bát: Quạnh hiu cũng chẳng cô đơn, Người đi trong bóng linh hồn rừng sâu . Mênh mang tiếng vượn gọi sầu, Giật mình hoa rụng trắng màu tóc bay .Đinh Hùng (trích bài Thủy Mặc I)
ặng tính triết học, tư tưởng, như 1 nhà hiền triết phiêu bồng giữa thực và mộng. ( Bùi Giáng đã xuất bản trên 50 tác phẩm đủ loại, nổi tiếng với những câu thơ xuất thần đặc biệt là lục bát. Thơ ông n Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu/ Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa. (Chớp Biển, tr. 132)
VINH HỒ
N ăm 1946, Bùi Giáng có 15 năm chăn dê vùng trung du Trung Phước, miền Trung. có bút danh Đười Ươi Thi Sĩ, ca ngợi con người tiền sử có tâm hồn chất phác đơn sơ, mong tìm lại con người nguyên thủy trong cõi trời đất hoang sơ. Hình ảnh “Đười Ươi ” xuất hiện đầy thân ái, trân trọng trong thơ ông:
Ở lại quê hương trì trọng nhẫn Ra đi khách địa ngậm thay ngùi Cháu con dâu rễ thành đại tập Cảm động đười ươi cũng sụt sùi.
Thi sĩ/ ngục sĩ với tổng cộng 27 năm tù. Năm 1979, ông chạy vào Tòa Ðại Sứ Anh ở Hà Nội trao tập thơ 400 bài do ông ghi lại bằng trí nhớ, làm khi ở trong tù. Năm 1980, tại Washington D.C. xuất hiện 1 tập thơ mang tên “Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực” không ghi rõ tên tác giả mà chỉ ghi là “khuyết danh”. Ít tuần sau, tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong ra tiếp một ấn bản cùng nội dung với tựa đề “Bản Chúc Thư Của Một Người Việt .” Năm 1984, Yale Center for International& Area Studies in bản “Flowers from Hell” do Huỳnh Sanh Thông dịch, đây là lần đầu tiêu đề Hoa Địa Ngục (Flowers from Hell) xuất hiện. Sau này người ta mới biết tác giả tên Nguyễn Chí Thiện.Hoa Địa Ngục đã được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Ðức, Hòa Lan, , , ,… Nguyễn Chí Thiện được nhiều giải thưởng quốc tế. Năm 2001 ông xuất bản tập truyện Hỏa Lò, năm 2008 xuất bản tập truyện Hai Chuyện Tù. Địa vị văn học của ông được ghi nhận trong cuốn “Who’s who in Twentieth-century World Poetry” do Mark Willhard chủ biên ( London& , Routledge, 2000).
Bài thơ ” ” của ông có nhắc đến hình ảnh con vượn, xin trích 8 câu sau đây:
Cảm động đười ươi cũng sụt sùi.
* Bùi Giáng có bút hiệu là Đười Ươi Thi Sĩ.
“ Kiến tố, bảo phác, thiểu tư, nhi quả dục. (Trích chương 19 Đạo Đức Kinh).
Có ghĩa là: Thấy nguyên sơ, giữ mộc mạc, giảm suy nghĩ, bớt dục vọng.
Tương tự ” Kiến tố, bảo phác” trongĐạo Đức Kinh, Thiền học có “minh tâm kiến tánh” quan niệm đời là vô thường ảo ảnh, khi mây tan biến thì vầng trăng ló dạng, khi tư tưởng buông bỏ thì bản lai diện mục xuất hiện. Bản lai diện mục tức là tự tâm, bản tánh. Khi minh tâm kiến tánh thì sẽ hốt nhiên giác ngộ thành Phật.
Chữ “Phác” trong Đạo Đức Kinh dùng để ám chỉ Đạo, cái thể thuần phác lúc ban đầu, cái trạng thái bản nguyên của tâm hồn chưa bị luân lí, tập quán, học thuyết, chủ nghĩa… mà ta gọi chung là văn hóa hay văn minh làm sai lạc… Bản tính Phác ở đây cũng đồng nghĩa với tự nhiên. Nhận thức được cái bản tính đơn thuần (Tố), và ôm giữ cái bản tính tự nhiên ấy, đó là mục đích cuối cùng của người học Đạo tu Tiên.
Phải chăng Bùi Giáng, thi sĩ cô đơn đi giữa ch ợ đời đã bị ảnh hưởng bởi quan điểm “Kiến tố, bảo phác” trong Đạo Đức Kinh?