Ngày đăng: 25/12/2013, 15:02
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ V (khóa VIII) đã chỉ rõ: “Bên cạnh việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hết sức coi trọng, bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn học truyền thống, văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”. Tinh thần đó tiếp tục được bổ sung và khẳng định trong kết luận của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX: “Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của Việt Nam đương đại, cần đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc”. Để đạt được những mục tiêu trên chúng ta phải tiến hành đồng thời nhiều biện pháp khác nhau. Một trong những biện pháp có vai trò hết sức quan trọng đó là cần xuất phát từ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, mà nhân tố góp phần tạo nên sức mạnh của truyền thống đó là kho tàng văn học dân gian nói chung, ca dao, tục ngữ nói riêng. Ca dao, tục ngữ là di sản tinh thần quý báu, là kho tri thức về kinh nghiệm cuộc sống và đạo lý làm người, là “túi khôn” mà ông cha ta đã dày công xây dựng và lưu giữ. Những triết lý giáo dục sâu sắc, đậm chất nhân văn về thế giới, về con người của nhân dân ta đã được khái quát và đúc kết qua ca dao, tục ngữ sẽ có tác dụng quan trọng trong việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Là cơ sở định hướng cho hoạt động thực tiễn giáo dục và xây dựng con người. Vận dụng ca dao, tục ngữ nhằm khơi dậy niềm say mê học tập của học sinh, sinh viên trong việc giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa 1 Mác – Lênin và môn Giáo dục công dân trong các trường trung học phổ thông. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, nếu huyền thoại và truyền thuyết tạo nên tâm điểm căn bản văn hóa dân tộc và hồn con người Việt Nam thì ca dao, tục ngữ là cẩm nang bí quyết, là một cuốn từ điển mà tiền nhân đã tích lũy theo thời gian và để lại cho con cháu. Trong đó hàm chứa triết lý dân tộc, phản ánh tâm thức Việt Nam và được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Nó là một thành tố quan trọng, góp phần tạo nên hệ giá trị tinh thần, bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc ta. Thế nhưng, hiện nay văn học dân gian là nguồn tư liệu ít được khai thác, tiếp cận về mặt triết học vì có ý kiến cho rằng đây là loại văn phong không uyên bác, lạc hậu và có nhiều hạn chế. Tuy nhiên, nếu chúng ta dày công sưu tập và nghiên cứu thì từ kho tàng văn học dân gian ấy có thể khám phá ra khí phách con người Việt Nam, khám phá ra những đặc điểm về tâm – sinh lý, tình cảm, cũng như quan niệm về thế giới, về con người của người Việt Nam. Đồng thời nó còn thể hiện năng lực tư duy, phán đoán, phân tích và nhận thức của cha ông ta về vũ trụ và con người. Vậy nên, muốn tìm hiểu hồn dân tộc Việt Nam, chúng ta không thể bỏ qua kho tàng này, qua đó chứng tỏ cha ông ta đã có một khối hiểu biết, kinh nghiệm và luân lý sâu sắc. Nhờ vậy mà đất nước và dân tộc ta sống còn và sống mạnh cho đến hôm nay sau những chiến tranh, xâm lược từ bên ngoài và phân tranh, chia rẽ ngay trong nội bộ. Mặt khác, Nghị quyết của Bộ Chính trị – Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam Về chính sách khoa học và kỹ thuật cũng đã chỉ rõ: “Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học của dân tộc và sự thắng lợi của tư tưởng triết học Mác – Lênin ở Việt Nam” là một việc làm hết sức cần thiết không chỉ có ý nghĩa trọng đại trong giai đoạn hiện nay mà còn có ý nghĩa lâu dài. Hiện nay, nền kinh tế thị trường và sự mở cửa, giao lưu đã đưa nước ta hội nhập mạnh mẽ vào nền văn minh nhân loại, làm thay đổi nhanh chóng 2 diện mạo và đời sống đất nước. Thực tiễn đó cũng đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến đạo đức trong ngành giáo dục khi mà gần đây, tình trạng vi phạm đạo đức nhà giáo và bạo lực học đường ngày càng gia tăng và trở nên nghiêm trọng, vấn đề giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách hơn bao giờ hết trở thành mối quan tâm trước hết của toàn xã hội. Để phát huy hơn nữa sức mạnh của dân tộc, đồng thời khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hơn bao giờ hết lại càng đòi hỏi phải quan tâm hơn nữa đến những giá trị tinh thần, đó là truyền thống văn hóa của dân tộc, là nền văn học dân gian nói chung – kho tàng ca dao, tục ngữ nói riêng; đồng thời kết hợp hài hòa với tinh hoa văn hóa của nhân loại để tạo nên sự phát triển bền vững cho nền văn hóa nước nhà. Lịch sử là một dòng chảy liên tục, tiếp nối không ngừng. Xưa – nay và cả ngày mai, vốn có quan hệ chặt chẽ theo dòng thời gian. Lý luận và kinh nghiệm giáo dục có tính kế thừa và phát triển. Giữa sự phát triển xã hội và giáo dục cũng như giữa lý luận và thực tiễn của hoạt động giáo dục có mối quan hệ khăng khít với nhau. Nhìn lại quá khứ để mạnh tiến đến tương lai – đó là những lý do để tôi chọn đề tài: “Triết lý giáo dục trong ca dao, tục ngữ Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học triết học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hiện nay ở nước ta có rất nhiều công trình nghiên cứu về ca dao, tục ngữ. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu đều tập trung dưới góc độ văn học dân gian là chính, chưa có công trình nào chuyên đi sâu nghiên cứu về vấn đề triết lý giáo dục trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Cụ thể: – Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện văn học 1 (2001), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, 5 tập, Nhà xuất bản giáo dục. – Vũ Ngọc Phan (1995), “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”, Nhà xuất bản Văn học. 3 – Cao Huy Đỉnh (1974), “Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. – Phúc Khánh (1961), Thử tìm hiểu những yếu tố tư tưởng triết học trong thần thoại Việt Nam, Nhà xuất bản Sự thật. – Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2000), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục. – Nguyễn Nghĩa Dân (2011), Đạo làm người trong tục ngữ ca dao Việt nam, Nhà xuất bản Thanh niên. – Nguyễn Nghĩa Dân (2001), Lòng yêu nước trong văn học dân gian Việt Nam, Nxb Hội nhà văn. – Phương Thu (2004), Ca dao, tục ngữ Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. – Triều Nguyên (2005)”Ca dao Thừa Thiên – Huế”, Nhà xuất bản Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên – Huế, Huế. – Triều Nguyên (2010), “Khảo luận về tục ngữ Người Việt”, Nxb Khoa học xã hội. – Phạm Việt Long (2010), “Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình”, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. – Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. – Nguyễn Hữu Vui (2004), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Những công trình nghiên cứu trên các tác giả đã đi sâu và làm sáng tỏ những vấn đề của ca dao, tục ngữ của Việt Nam như khái niệm, nguồn gốc, sự hình thành, phát triển, nội dung và các hình thức nghệ thuật nói chung của ca dao, tục ngữ. Làm rõ nội dung phản ánh của ca dao, tục ngữ như: ca dao, tục ngữ nói về thiên nhiên, về lao động sản xuất, về quan hệ gia đình, xã hội và về giáo dục, về đạo đức. Ca dao, tục ngữ thể hiện tình yêu quê hương đất 4 nước; thể hiện tình cảm đôi lứa, thể hiện về quan hệ hôn nhân – gia đình,… Ngoài ra, tác giả còn làm rõ mối quan hệ giữa ca dao, tục ngữ với các thể loại văn học dân gian khác. – Một số luận văn đã nghiên cứu liên quan đến đề tài này là: Lương Thị Lan Huệ (2004), “Một số vấn đề triết học qua ca dao, tục ngữ Việt Nam”. Tác giả đã trình bày một số tư tưởng triết học trong ca dao, tục ngữ người Việt như: Tư tưởng triết học biểu hiện qua mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên và mối quan hệ giữa con người đối với xã hội. Tác giả cũng đã rút ra một số nhận xét về ca dao, tục ngữ Việt Nam, nêu ý nghĩa triết học của ca dao, tục ngữ trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Phạm Thị Thúy Hằng (2006), “Những tư tưởng triết học trong truyện kể dân gian Việt Nam”. Tác giả cũng đã trình bày một số tư tưởng triết học về thế giới quan, nhân sinh quan của con người Việt Nam. Đề cập đến những ảnh hưởng của truyện kể dân gian đối với việc xây dựng nền văn hóa của dân tộc. Cao Thị Hoa (2011), “Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên – Huế”. Tác giả đã đi sâu phân tích và làm sáng tỏ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên – Huế, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm sống (nhân sinh quan, thế giới quan) của con người Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên – Huế, vận dụng nó ở góc độ kế thừa, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. – Một số bài viết đăng trên các tạp chí triết học như: Lê Huy Thực (2004 – 2005), “Triết lý dân gian về hạnh phúc trong tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam”, Tạp chí triết học số 2 (153); “Tiêu chí kiểm định đạo đức con người qua tục ngữ thơ ca dân gian”, Tạp chí triết học số 9 (172). Đỗ Lan Hiền (2005), “Những nét độc đáo trong tư duy người Việt qua văn học dân gian”, Tạp chí triết học số 6 (169). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5 * Mục đích: Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ triết lý giáo dục trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Trên cơ sở đó vận dụng vào việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho con người Việt Nam. Kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. * Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích đã nêu trên, đề tài làm rõ: – Quá trình hình thành của ca dao, tục ngữ Việt Nam. – Những nội dung triết lý giáo dục thể hiện trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là ca dao, tục ngữ Việt Nam qua các công trình đã được xuất bản. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của đề tài là những quan điểm, phương pháp luận của triết học Mác – Lênin. Đó là sự kết hợp những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với nguyên tắc thống nhất giữa lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê, so sánh và đối chiếu, khách quan và biện chứng trong việc nghiên cứu tư tưởng triết học. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn đã trình bày một cách có hệ thống về vấn đề triết lý giáo dục trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Làm rõ những vấn đề về giá trị giáo dục, giá trị nhân sinh được thể hiện trong ca dao, tục ngữ của dân tộc. Luận văn hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 2 chương, 5 tiết. 6 CHƯƠNG 1 VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CA DAO TỤC NGỮ VÀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC TRONG CA DAO TỤC NGỮ VIỆT NAM 1.1. Vấn đề chung về ca dao, tục ngữ Việt Nam 1.1.1. Khái niệm ca dao, tục ngữ Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, tục ngữ, ca dao luôn giữ một vị trí hết sức quan trọng, được coi là nền văn học khởi nguồn. Đó là những viên ngọc quý, những kinh nghiệm, những điều hay, lẽ phải mà ông cha ta để lại. Là tâm hồn, trí tuệ, tình cảm và đời sống tinh thần của nhân dân ở từng chặng đường lịch sử. Là kết quả lao động sáng tạo, thể hiện những triết lý sâu sắc được đúc rút từ thực tiễn cuộc sống của người dân lao động. Do đặc điểm nội dung và hình thức ngắn gọn, tinh tế, có vần và dễ nhớ nên ca dao, tục ngữ luôn luôn được nhân dân vận dụng, giữ gìn và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Mặc dù luôn được trau chuốt, có những thay đổi nhất định nào đó về ngôn từ khi đến “cư trú” ở các địa phương khác nhau nhưng ca dao, tục ngữ vẫn luôn giữ được cái hồn, cái hình của mình. Ca dao, tục ngữ vừa là một hiện tượng ngôn ngữ, vừa là một hiện tượng thuộc về ý thức xã hội, phản ánh cuộc sống sinh hoạt muôn hình muôn vẻ của nhân dân, biểu hiện những nhận xét, những ý nghĩ của nhân dân trong cuộc đấu tranh với các hiện tượng thiên nhiên bất lợi hoặc trong đấu tranh xã hội và xây dựng đất nước, từ đó kết tinh thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. 1.1.1.1. Ca dao Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt thì ca dao là một thuật ngữ Hán Việt. Theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; giao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc. Cho nên, ca dao là lời của các bài hát 7 dân ca đã được tách những tiếng đệm, tiếng láy… hoặc ngược lại, là những câu thơ có thể “bẻ” thành những làn điệu dân ca. Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 1, thì “ca dao thường là những câu thơ, bài hát dân gian có ý nghĩa khái quát, phản ánh đời sống, phong tục, đạo đức hoặc mang tính chất trữ tình, đặc biệt là tình yêu nam nữ” [43, tr.303]. Ca dao là những bài hát ngắn, thường là 3, 4 câu. Cũng có một số ít bài ca dao dài. Những bài ca dao xưa thường có nguồn gốc dân ca. Dân ca, tước bỏ làn điệu đi, lời ca ở lại, đi vào kho tàng ca dao. Trong quá trình sáng tác của thơ ca dân gian, khái niệm ca dao được dùng để chỉ bộ phận cốt lõi, tiêu biểu, đó là bộ phận những câu hát đã trở nên phổ biến và được truyền tụng rộng rãi trong nhân dân. Ca dao đã trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian, do đó tất cả những sáng tác thơ ca nào mang phong cách của những câu hát cổ truyền, người ta gọi là ca dao. Như vậy, ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian. Những tác phẩm trong thể loại này dù nói lên mối quan hệ giữa con người trong lao động, trong sinh hoạt gia đình và xã hội, hoặc nói lên những kinh nghiệm sống và hành động thì bao giờ cũng bộc lộ thái độ chủ quan chứ không phải miêu tả một cách khách quan những hiện tượng, những vấn đề. Cho nên trong ca dao, cái tôi trữ tình nổi lên một cách rõ nét. Cũng như các thể loại văn học dân gian khác, ca dao phản ánh mọi mặt cuộc sống của người dân Việt Nam qua quá trình lịch sử. Đó là một bức tranh sinh động, phong phú, đầy màu sắc Việt Nam. Thể hiện một cách sâu sắc, rực rỡ thế giới quan, nhân sinh quan của con người Việt Nam. Đó là những quan niệm về trời, đất, về nguồn gốc con người. Đó là tinh thần lạc quan trong khó khăn, tinh thần tương thân tương ái giữa những con người lương thiện, đó còn là nhận thức sâu sắc về bạn, về thù, về chính nghĩa. Tóm lại, qua ca dao có thể thấy rõ hiện thực cuộc sống của 8 nhân dân, cái hiện thực vốn có được hiện lên một cách chân thực nhất. Nội dung của ca dao rất phong phú, đa dạng. Phản ánh những quan niệm về trời, đất, về thời thế, nguồn gốc con người; phản ánh lịch sử, công cuộc đấu tranh chống thiên nhiên, chống áp bức bóc lột và xâm lược. Miêu tả khá chi tiết phong tục tập quán, những kinh nghiệm trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân lao động, những kinh nghiệm trong sản xuất, chăn nuôi, gieo trồng mùa vụ, trong đời sống riêng tư, đời sống gia đình và đời sống xã hội. Qua đó thấy được đức tính cần cù, chịu đựng gian khổ, khó khăn và những phẩm chất tốt đẹp của người dân trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, với xã hội để sinh tồn và vươn lên giành lấy hạnh phúc. Nét nổi bật trong bộ phận ca dao lịch sử là nội dung của nó đã thể hiện một cách mạnh mẽ, sâu sắc tình cảm của nhân dân đối với quê hương, đất nước, với nòi giống, tổ tiên: “Thương chi đồng nỗi thương con/ Nhớ chi đồng nhớ nước non quê nhà”; “Con người có tổ có tông/ Như cây có cội, như sông có nguồn”. Hay những câu ca dao phản ánh những sự kiện của lịch sử dân tộc, nói lên thái độ, quan điểm, lòng yêu nước của nhân dân ta trong khi bà Triệu khởi nghĩa chống quân Ngô xâm lược: “Ru con, con ngủ cho lành/ Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi/ Muốn coi lên núi mà coi/ Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng/ Túi gấm cho lẫn túi hồng/ Têm trầu cánh kiến cho chồng đi quân”. Ca dao còn là tiếng nói của trái tim, bày tỏ sự uất ức, phẫn nộ của nhân dân, là tiếng hát đấu tranh chống áp bức của chế độ phong kiến, cường quyền, chống quân xâm lược, vạch trần những cái xấu, những tội ác mà chế độ phong kiến đế quốc gây ra cho nhân dân ta. Hình ảnh nổi bật trong những câu ca dao nói về đất nước, quê hương, dân tộc,…là những hình ảnh về con người Việt Nam cần cù trong lao động, 9 dũng cảm trong đấu tranh, nhân ái, vị tha, giàu đức hy sinh trong quan hệ giữa người với người và luôn luôn lạc quan, yêu đời. Ca dao thể hiện những phẩm chất tốt đẹp đó của người Việt Nam và hướng con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ trong cuộc sống: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”; “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Tình yêu quê hương, đất nước, cảm hứng về một non sông tươi đẹp, về một nòi giống vẻ vang, về một dân tộc anh hùng,… là một cảm hứng vừa nồng nàn, vừa đằm thắm, lắng sâu. Nhiều tên núi, tên sông, tên các làng quê, các di tích lịch sử – văn hóa, các sản vật, các cảnh sinh hoạt cùng phong tục tập quán ở các địa phương được thể hiện rất phong phú trong ca dao. Ca dao còn là tiếng hát nghĩa tình, tiếng hát yêu thương của con người. Phong phú và đặc sắc nhất, giàu cung bậc nhất trong tình cảm của con người là mảng ca dao giành cho tình yêu đôi lứa. Những tâm tình, những khía cạnh của tình yêu và trạng thái tâm lý của trai gái lúc yêu nhau, được ca dao diễn đạt bằng một ngôn ngữ vừa giản dị, vừa bay bổng, vừa ý nhị, vừa đậm đà, chứ không mang màu sắc ủy mị, sướt mướt, trái lại nó rất rắn rỏi, bền chặt, trong sáng mặc dù trong cuộc sống, trong hôn nhân có không ít trắc trở, khổ đau: “Thuyền về có nhớ bến chăng?/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền!”. Nội dung của ca dao đã phản ánh được mọi biểu hiện sắc thái, cung bậc của tình yêu, thể hiện quan niệm tự do trong yêu đương, tự do hôn nhân. Những tình cảm thắm thiết trong hoàn cảnh may mắn hạnh phúc với những niềm mơ ước, những nỗi nhớ nhung da diết hoặc cảm xúc nảy sinh từ những rủi ro ngang trái, thất bại, khổ đau với những lời than thở oán trách, tình yêu cho con người thêm mạnh mẽ trong cuộc sống, trong lao động, trong đấu tranh để bảo vệ tình yêu, hạnh phúc của mình. Ca dao trữ tình về tình yêu nam nữ đã kết hợp chặt chẽ chủ đề tình yêu 10 . VỀ CA DAO TỤC NGỮ VÀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC TRONG CA DAO TỤC NGỮ VIỆT NAM 1.1. Vấn đề chung về ca dao, tục ngữ Việt Nam 1.1.1. Khái niệm ca dao, tục ngữ Trong. làm sáng tỏ triết lý giáo dục trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Trên cơ sở đó vận dụng vào việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho con người Việt Nam. Kế thừa