Tuyển Tập Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Dtdecopark.edu.vn

Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam Toàn Tập

Ngày đăng: 07/05/2017, 14:19

Ca dao tục ngữ Việt Nam toàn tập 1. Ai ai cũng tưởng bậu hiền Cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai 2. Ai đem con sáo sang sông Để cho con sáo sổ lồng bay cao 3. Ai đi bờ đắp một mình Phất phơ chiếc áo giống hình phu quân 4. Ai đi đâu đấy hỡi ai Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm Ai đi muôn dặm non sông Để ai chứa chất sầu đong vời đầy 5. Ai đi sục sịch ngoài hàng dưa Phải chăng chú thợ mộc với cái cưa cái bào Ai đi sục sịch ngoài hàng rào Phải chăng chú thợ mộc với cái bào cái cưa 6. Ai kêu là rạch, em gọi là sông Phù sa theo nước chảy mênh mông Sông ơi, thấm mát đời con gái Chẳng muốn lìa sông, chẳng muốn lấy chồng 7. Ai làm cho bướm lìa hoa Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng Ca dao tục ngữ Việt Nam toàn tập Ai tưởng bậu hiền Cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai Ai đem sáo sang sông Để cho sáo sổ lồng bay cao Ai bờ đắp Phất phơ áo giống hình phu quân Ai Hay trúc nhớ mai tìm Ai muôn dặm non sông Để chứa chất sầu đong vời đầy Ai sục sịch hàng dưa Phải thợ mộc với cưa bào Ai sục sịch hàng rào Phải thợ mộc với bào cưa Ai kêu rạch, em gọi sông Phù sa theo nước chảy mênh mông Sông ơi, thấm mát đời gái Chẳng muốn lìa sông, chẳng muốn lấy chồng Ai làm cho bướm lìa hoa Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng Ai làm Nam Bắc phân kỳ Cho hai giòng lệ đầm đìa nhớ thương Ai mà nói dối Thì trời giáng hạ khoai đồng Ai mà nói dối chồng Thì trời giáng hạ hồng bờ ao 10 Ai nhứt đứng nhì Ai mà thứ ba chúng tôi chúng tôi Posted – 08/11/2007 : 03:51:53 11 Ai bưng bát cơm đầy Dẻo thơm hạt, đắng cay muôn phần 12 Ai chơi lấy kẻo già Măng mọc có lứa người ta có Chơi xuân kẻo hết xuân Cái già sòng sọc theo sau 13 Ai nghĩ hèn Nước dù đục lóng phèn 14 Ai vội cười Cười người hôm trước hôm sau người cười Ai vội cười Nhìn cho tỏ trước sau cười 15 Ai chẳng chóng chầy Có công mài sắt, có ngày nên kim 16 Ai hành Đã đốn vác cành lẫn 17 Ai hành Đã đan lặn, tròn vành 18 Ai đừng bỏ ruộng hoang Bao nhiêu tấc đất tấc vàng nhiêu 19 Ai đừng lấy học trò Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm Hay nằm thời có võng đào Dài lưng thời có áo chào nhà vua Hay ăn thời có gạo kho Việc mà chẳng ăn no lại nằm 20 Ai đừng lấy pháo binh Nửa đêm bắn rung rinh giường 21 Ai chí cho bền Dù xoay hướng đổi mặc 22 Ai chí cho bền Dù xoay hướng đổi mặc Dù nói Đông nói Tây, Ta vững rừng 23 Ai phụ có đất trời chứng giám Phận nghèo, không dám phụ Tưởng giếng sâu nối sợi dây dài Ai dè giếng cạn, tiếc hoài sợi dây 24 Ai mặc Áo dà lại, đến mai 25 Ai mặc Thiếp sầu đượm thắp hoài năm canh 26 Ai Bình Định mà coi Đàn bà biết múa roi, quờn 27 Ai có nhớ ta Ta ta nhớ hàm cười 28 Ai em gởi thơ Hỏi người bạn cũ nơi nao Non đắp mà cao Sông kia, biển đào mà sâu 29 Ăn sung ngồi gốc sung Lấy anh lấy, nằm chung không nằm … Thiếp sầu đượm thắp hoài năm canh 26 Ai Bình Định mà coi Đàn bà biết múa roi, quờn 27 Ai có nhớ ta Ta ta nhớ hàm cười 28 Ai em gởi thơ Hỏi người bạn cũ nơi nao Non đắp mà cao Sông kia, biển đào mà…Posted – 08/11/2007 : 03:51:53 11 Ai bưng bát cơm đầy Dẻo thơm hạt, đắng cay muôn phần 12 Ai chơi lấy kẻo già Măng mọc có lứa người ta có Chơi xuân kẻo hết xuân Cái già

Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam

Ca dao (歌謠) là một từ Hán Việt, theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc. Nội dung Ca dao phản ánh lịch sử: Ca dao lịch sử không phản ánh hiện tượng lịch sử trong quá trình diễn biến của nó, mà chỉ nhắc đến sự kiện lịch sử để nói lên thái độ, quan điểm nhân dân. Phản ánh nếp sống, phong tục, tập quán truyền thống; phản ánh đời sống tình cảm nhân dân; phản ánh đời sống xã hội cũ. Ngoài ra, ca dao còn: Chứa đựng tiếng cười trào phúng

Phân loại

Đồng dao: là thơ ca dân gian truyền miệng trẻ em. Đồng dao được chia thành hai loại: loại gắn với công việc của trẻ em, loại gắn với trò chơi của trẻ em.

Chi chi chành chành Cái đanh thổi lửa Con ngựa đứt cương Ba vương ngũ đế …

Ca dao lao động: là phần lời cốt lõi của dân ca lao động. Những bài ca lao động tồn tại như là một bộ phận của quá trình lao động.

Trời mưa trời gió đùng đùng Bố con ông Nùng đi gánh phân trâu Đem về trồng bí trồng bầu Trồng ngô, trồng lúa, trồng rau, trồng cà.

Ca dao ru con: Hát ru có từ lâu đời và rất phổ biến, lời hát ru phần nhiều là những câu ca dao có sẵn.

Cái ngủ mày ngủ cho lâu Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về

Ca dao nghi lễ, phong tục: Trong nhiều bài ca tế thần, các yếu tố trữ tình cũng có mặt, cùng với yếu tố hiện thực, chúng biểu hiện sức mạnh của đời sống hiện thực trong các hình thức sinh hoạt tôn giáo trong nhân dân.

Dập dìu cánh hạc chơi vơi Tiễn thuyền Vua Lý đang dời kinh đô Khi đi nhớ cậu cùng cô Khi về lại nhớ cá rô Tổng Trường

Ca dao trào phúng, bông đùa

Lỗ mũi mười tám gánh lông Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho Đêm nằm thì ngáy o o Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà Đi chợ thì hay ăn quà Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm Trên đầu những rác cùng rơm Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.

Ca dao trữ tình. Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.

Tục ngữ Việt Nam

Tục ngữ là những câu nói hoàn chỉnh, đúc kết kinh nghiệm của nhân dân về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội. Tục ngữ thiên về trí tuệ nên thường được ví von là “trí khôn dân gian”. Trí khôn đó rất phong phú mà cũng rất đa dạng nhưng lại được diễn đạt bằng ngôn từ ngắn gọn, xúc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữ là văn học nói dân gian nên thường được nhân dân vận dụng trong đời sống sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói và khuyên răn.

Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác; được tách ra từ tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại; được rút ra tác phẩm văn học bằng con đường dân gian hóa những lời hay ý đẹp hoặc từ sự vay mượn nước ngoài.

Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ…

Đa số tục ngữ đều có vần, gồm 2 loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca… Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán, nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán.

Các kiểu suy luận: liên hệ tương đồng, liên hệ không tương đồng, liên hệ tương phản, đối lập, liên hệ phụ thuộc hoặc liên hệ nhân quả.

Đầu tiên là các bản ghi chép tục ngữ bằng chữ Nôm vào thế kỷ 19 như Nam phong ngữ ngạn thi của Đình Thái, Đại Nam Quốc Túy của Ngô Giáp Đậu…

Bản ghi tục ngữ bằng chữ quốc ngữ có Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn của Huỳnh Tịnh Của (1897), Tục ngữ cách ngôn của Hàn Thái Dương (1920)…

Một số bản sưu tập, chú thích nghĩa và dịch tục ngữ Việt Nam sang tiếng Pháp như Tục ngữ An Nam dịch sang tiếng Tây của V. Barbier (Triệu Hoàng Hòa), Đông Tây ngạn ngữ cách ngôn của H. Délétie và Nguyễn Xán (1931)…

Một số bản khác như Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1942), [Tục ngữ dân ca Mường Thanh Hóa]] của Minh Hiệu sưu tầm (1970), Ca dao, ngạn ngữ Hà Nội do Triều Dương sưu tầm và biên soạn (1971), Tục ngữ Thái (1978), Tục ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan (1956), Tục ngữ Việt Nam của Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Chi (1975)…

(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam Toàn Tập Ca Dao Tuc Ngu Viet Nam Toan Tap Doc

Ca dao tục ngữ Việt Nam toàn tập

21. Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng

22. Cần Thơ là tỉnh Cao Lãnh là quê Anh đi lục tỉnh bốn bề Mảng lo buôn bán không về thăm em

23. Cậu cai nón dấu lông gà Cổ tay đeo nhẫn gọi là cậu cai Ba năm được một chuyến sai Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê Cậu cai buông áo em ra Ðể em đi bán kẻo mà chợ trưa

24. Cây cao bóng mát không ngồi Ra ngồi chỗ nắng trách trời không mây

25. Cây da Chợ Đũi nay nó trụi lủi, trốc gốc, mất tàn Tình xưa còn đó, ngỡ ngàng nan phân!

26. Cây khô không dễ mọc chồi Mẹ già không thể sống đời với con

27. Cây không trồng nên lòng không tiếc Con không đẻ nên mẹ ghẻ không thương

28. Cây trên rừng hoá kiểng Cá dưới biển hoá long Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong Anh đi lục tỉnh giáp vòng Đến đây trời khiến đem lòng thương em

29. Cây vông đồng không không trồng mà mọc Con gái xóm này chẳng chọc mà theo

30. Cây xanh lá đỏ hoa vàng Hạt đen rễ trắng đố chàng là chi (đố là gì? Cây rau sam)

31. Cây xanh thời lá cũng xanh Cha mẹ hiền lành để đức cho con Mừng cây rồi lại mừng cành Cây đức lắm chồi, người đức lắm con Ba vuông sánh với bảy tròn Đời cha vinh hiển đời con sang giàu

32. Cậu cai buông áo em ra Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa Chợ trưa dưa nó héo đi Lấy chi nuôi mẹ, lấy gì nuôi em?

33. Cha mẹ anh có đánh quằn đánh quại Bắt anh ra treo tại nhành dương Biểu từ ai, anh từ đặng Chớ biểu anh từ người thương, anh không từ

34. Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày

35. Chanh chua thì khế cũng chua Chanh bán có muà, khế bán quanh năm

36. Cháu ơi cháu ngủ cho ngon Của dì, dì giữ ai bòn mặc ai

37. Chàng ôi, giận thiếp mà chi Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng

38. Chàng về để áo lại đây Để khuya em đắp gió khuya lạnh lùng

39. Chàng về để áo lại đây Phòng khi em nhớ cầm tay đỡ buồn

40. Chặt không đứt, bứt không rời Phơi không khô, chụm không cháy (Đố là con gì? Con sam)

41. Chẳng tham ruộng cả, ao tiền Chỉ tham cái bút, cái nghiên anh đồ

42. Chân đi ba bước lại dừng Tuổi em còn bé chưa từng đi buôn Đi buôn cho đáng đi buôn Đi buôn cau héo có buồn hay không

43. Chén tình là chén say sưa Nón tình anh đội nắng mưa trên đầu

44. Chẻ tre bện sáo cho dầy Chận ngang sông Mỹ có ngày gặp em

45. Chê đắng chê hôi Đã chê xôi không dẻo Lại chê kẹo không ngọ

46. Chê đây, lấy đấy sao đành Em chê cam sành , lấy phải quít hôi Quít hôi bán một đồng mười Cam ba đồng một, quít ngồi trơ trơ

47. Chết trước được mồ, được mả Chết sau nằm ngả, nằm nghiêng

48. Chiếc khăn cô đội trên đầu Gió xuân đưa đẩy rơi vào tay tôi Bâng khuâng tôi chẳng muốn rời Trao cô thì tiếc, giữ thời không yên

49. Chiếu bông mà trải góc đền Muốn vô làm bé biết có bền hay không?

50. Chiều chiều, buồn miệng nhai trầu Nhớ người quân tử bên cầu ngẩn ngơ

Đ

1. Đánh bạc quen tay Ngủ ngày quen mắt Ăn vặt quen mồm

2. Đánh chết, mà nết không chừa Đến mai ăn chợ, bánh dừa lại ăn

3. Đàn bà nói có là không Nói yêu là ghét, nói buồn là vui

4. Đàn bà tốt tóc thì sang Đàn ông tốt tóc thì mang nặng đầu

5. Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi

6. Đàn kêu tích tịch tình tang Ai đem công chúa lên thang mà về

7. Đàn ông đi biển có đôi Đàn bà đi biển mồ côi một mình

8. Đàn ông không râu vô nghì Đàn bà không vú lấy gì nuôi con

9. Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ nhu Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ

10. Đèn cầu tàu ngọn lu ngọn tỏ Anh trông không rõ, anh ngỡ đèn màu Rút gươm đâm họng máu trào Để em ở lại, em kiếm thằng nào hơn anh

11. Đèn nhà lầu hết dầu đèn tắt Lửa nhà máy hết cháy thành than Nhang chùa Ông hết mạt nhang tàn Kể từ khi em biết được chàng Đêm về em lăn lộn như con chim phượng hoàng bị tên

12. Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc Xứ nào dốc bằng xứ Nam Vang Một tiếng anh than ba bốn đôi vàng em không tiếc Anh lấy đặng em rồi anh trốn biệt lánh thân

13. Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần THương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run

14. Đèn treo ngang quán Tỏ rạng bờ kinh Em có thương anh thì ăn nói cho thiệt tình Đừng để cho anh lên xuống một mình bơ vơ

15. Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn Đồng hồ điểm nhặt nhớ chàng không quên

16. Đêm khuya ra đứng bờ ao Trông cá cá lặn trông sao sao mờ Buồn trông con nhện giăng tơ Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai

17. Đêm khuya thắp chút dầu dư Tim loan cháy lụn, sầu tư một mình

18. Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?

19. Đêm khuya trăng dọi lầu son Vào ra thương bạn, héo hon ruột vàng Bển qua đây đàng đã xa đàng Dầu tui có lâm nguy thất thế Hỏi con bạn vàng nó cứu không? Chiều rồi kẻ Bắc, người Đông Trách lòng người nghĩa, nói không thiệt lời

20. Đêm nằm tàu chuối có đôi Hơn nằm chiếu tốt lẻ loi một mình

21. Đêm qua, đêm lạnh, đêm lùng Đêm đắp áo ngắn, đêm chung áo dài Bây giờ chàng đã nghe ai Aó ngắn chẳng đắp, aó dài không chung Bây giờ sự đã nhạt nhùn Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua Cá lên mặt nước, cá khô Vì anh, em phải giang hồ tiếng tăm

22. Đêm qua nguyệt lặn về Tây Sự tình kẻ ấy, người đây còn dài Trúc với mai, mai về trúc nhớ Trúc trở về, mai nhớ trúc không Bây giờ kẻ Bắc, người Đông Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư

23. Đêm thanh cảnh vắng Thức trắng năm canh Một duyên, hai nợ, ba tình Đường kia,nỗi nọ, phận mình ra sao

24. Đến đây đất nước lạ lùng Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo

25. Đến ta mới biết của ta Trăm nghìn năm trước biết là của ai

26. Đề huề chồng vợ Như bí rợ nấu kiểm với khoai lang Như tép rang ăn cặp với canh khoai mỡ

27. Đi chùa lạy Phật cầu chồng Hộ pháp liền bảo đờn ông hết rồi

28. Đi đâu cho thiếp theo cùng Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam

29. Đi đâu mà vội mà vàng Mà vấp phải đá mà quàng phải dây Thủng thỉnh như chúng anh đây Thì đá nào vấp, thì dây nào quàng

30. Đi cho biết đó biết đây Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn

31. Đi qua nhà nhỏ Thấy đôi liễn đỏ có bốn chữ vàng Thạnh suy anh chưa biết chớ thấy nàng anh vội thương

32. Đó đây trước lạ sau quen Chẳng gần, qua lại đôi phen cũng gần

33. Đói lòng ăn đọt chà là Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng

Đói lòng ăn nắm lá sung Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng

34. Đói lòng ăn nửa trái sim Uống lưng bát nước đi tìm người thương

35. Đói lòng nuốt trái khổ qua Nuốt vô sợ đắng, nhả ra con bạn cười

36. Đôi ta chẳng được sum vầy Khác nào cánh nhạn lạc bầy kêu sương Vì sương nên núi bạc đầu Cành lay bởi gió hoa sầu vì mưa

37. Đôi ta đã trót lời thề Con dao lá trúc đã kề tóc mai Dặn rằng: Ai chớ quên ai!

38. Đôi ta như loan với phượng Nỡ lòng nào để phượng lià cây Muốn cho có đó, có đây Ai làm nên nỗi nước này chàng ôi Thà rằng chẳng biết thì thôi Biết rồi gối chiếc lẻ loi thêm phiền

39. Đôi ta như thể con tằm Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong Đôi ta như thể con ong Con quấn con quít, con trong con ngoài Đôi ta như thể con bài Chồng đánh vợ kết chẳng sai con nào

40. Đố ai biết luá mấy cây Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng Đố ai quét sạch lá rừng Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây Rung cây, rung cỗi, rung cành Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng

41. Đố ai lặn xuống vực sâu Ru con không hát, em chừa nguyệt hoa

42. Đố anh con rít mấy chưn Cầu Ô mấy nhịp, chợ Đinh mấy người Mấy người bán áo con trai Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim

43. Đốt than nướng cá cho vàng Lấy tiềng mua rượu cho chàng uống chơi

44. Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm Muốn ăn bôn súng mắm kho Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm

45. Đồng tiền Vạn lịch Thích bốn chữ vàng Anh tiếc công anh gắn bó với cô nàng bấy lâu Bây giờ cô lấy chồng đâủ Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng

46. Đổ lửa than nên vàng lộn trấu Anh mảng thương thầm chưa thấu dạ em

47. Đổng Kim Lân hồi còn nhỏ, đi bán giỏ nuôi mẹ Anh gặp em đây không cửa không nhà Muốn vô gá nghĩa, biết là đặng chăng?

48. Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Lúa rụng đầy đồng, gà chẳng cần ăn

49. Đờn cò lên trục kêu vang Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương Chiều nay qua phản bạn hồi hương Nghe bậu ở lại vầy vươn nơi nào Ghe tui tới chỗ cắm sào Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông

50. Đu đủ tiá, bạc hà cũng tiá Ngọn lang dâm, ngọn mía cũng dâm Anh thấy em tốt mã anh lầm Bây giờ anh biết rõ, vàng cầm anh cũng buông

51. Đưa nhau đổ chén rượu hồng Mai sau em có theo chồng đất xa Qua đò gõ nhịp chèo ca Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say

52. Đường trơn trợt gượng đi kẻo té Áo còn nguyên ai nỡ xé vá quàng Hồi sớm mai, gặp em sao anh không hỏi Hay dạ của chàng nay đã hết thương?

53. Đứt tay một chút còn đau Huống chi nhân nghĩa, lià sao cho đành

Tục Ngữ Ca Dao Việt Nam Chọn Lọc

Tục ngữ ca dao Việt Nam chọn lọc nét văn hóa đặc sắc của dân tộc

Ca dao, tục ngữ là sự kết tinh, lắng đọng vốn sống và những kinh nghiệm quý báu trong dân gian. Đây là loại hình văn nghệ truyền miệng từ đời này qua đời khác. Trải qua bao biến thiên cuộc sống, trong thời đại ngày nay, ca dao, tục ngữ vẫn còn vẹn nguyên giá trị răn dạy con người về cách đối nhân xử thế trong cuộc sống.

Cuốn sách “Tục ngữ ca dao Việt Nam chọn lọc” là công trình sưu tầm, nghiên cứu công phu, khoa học, tập hợp khá nhiều tinh hoa của tục ngữ, ca dao trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam nhằm cung cấp một nguồn “sử liệu” về văn học dân gian cho độc giả.

Tục ngữ ca dao Việt Nam chọn lọc cuốn sách tập hợp những câu ca dao tục ngữ muôn đời của dân tộc ta được đúc kết lại.

Cuốn sách được chia thành nhiều chủ đề khác nhau. Qua từng chủ đề, tác giả đã chọn lọc những tác phẩm hay, những câu tục ngữ, ca dao tiêu biểu. Từ đó, giúp độc giả tiếp cận được tương đối đầy đủ, dễ dàng những vấn đề lý luận của văn học dân gian như: Thế nào là tục ngữ, ca dao về tình yêu đôi lứa, hôn nhân và tình cảm gia đình; tục ngữ, ca dao về lao động nghề nghiệp; tục ngữ ca dao ca ngợi Bác Hồ…. sách còn giúp cho mỗi người Việt Nam thêm yêu quý và gìn giữ “lời ăn tiếng nói” của ông cha mình.

Cuốn sách văn học- tiểu thuyết có các phần như:

Phần I. Tình cảm, tình yêu đôi lứa

Các phần tiếp theo là về các chủ đề rất đa dạng và thân thuộc với đời sống của nhiều người dân như:

-Hôn nhân và tình cảm gia đình

– Tục ngữ, ca dao về lao động nghề nghiệp

– Tục ngữ ca dao ca ngợi Bác Hồ…

Các chủ đề được sắp xếp liền mạch, mang theo nhiều nội dung sâu sắc với sự tập hợp công phu của tác giả, làm nên nét đặc sắc cho toàn bộ tác phẩm.

Nó không dừng lại ở những trang giấy thông thường mà đó là nguồn tư liệu quý giá giúp cho người đọc với nhiều đối tượng khác nhau có được cái nhìn sâu rộng hơn về loại hình văn hóa dân gian của Việt Nam bao đời nay.

Ca dao, tục ngữ có những lối giáo dục chân thực, hóm hỉnh tạo nên đời sống vật chất và tinh thần phong phú. Trong đời sống hàng ngày, câu ca dao, tục ngữ vẫn được ông bà, cha mẹ truyền tụng khuyên răn con cháu. Loại hình văn hóa truyền miệng này như một nguồn nhựa sống để nuôi dưỡng tâm hồn cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Đấy là một cuốn sách có giá trị về luân lý và đạo đức học, vì đấy là cái nền để rồi đến khi hấp thu được tư tưởng đạo đức mới của thời đại mới, mới có thể trở thành được những con người Việt Nam vừa dân tộc vừa hiện đại. Đó là một mẫu người Việt Nam đẹp nhất, những con Rồng cháu Tiên xuất hiện dưới thời đại Bác Hồ, sẽ là những người Việt Nam có tâm hồn đạo đức đẹp nhất từ xưa đến nay. Cái đẹp của người Việt Nam mới là sự hợp thành bởi hai sắc thái đạo đức Truyền thống và Hiện đại. Hai yếu tố ấy như là hai phần trong một cơ thể Người – Thiếu đi một phần sẽ trở nên “bất thành nhân dạng”, không thể nào trở thành được một Con người mới, của Thời đại mới.

Tục ngữ ca dao Việt Nam chọn lọc cần thiết và hữu ích, nhất là cho lớp người trẻ tuổi, những người sẽ quyết định vận mệnh tương lai của đất nước.