Bạn đang xem bài viết Trang Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Lạng Sơn được cập nhật mới nhất trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Là một người con của dân tộc Tày, sinh tại bản Phạc Lạn, huyện Văn Lãng, Lạng Sơn, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã có một thời gian dài sống, làm việc và rồi hi sinh trên mảnh đất Thủ đô Hà Nội. Trong 6 năm ấy (1939 – 1944), người Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ trẻ tuổi đã có những cống hiến to lớn cho cách mạng Việt Nam.
Mùa thu năm 1938, đồng chí Hoàng Văn Thụ được đồng chí Lê Hồng Phong giao nhiệm vụ về Hà Nội để truyền đạt chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ chống phát xít ở Đông Dương cho Xứ ủy Bắc Kỳ. Những cơ sở đầu tiên đón tiếp và che giấu đồng chí tại Thủ đô là: Cửa hàng câu đối, trướng Tùng Lâm, số 11 phố Hàng Giấy; Hiệu cắt tóc Nguyễn Bá Song, số 1 phố Hàng Mành. Sau đó, đồng chí được cử ra Hòn Gai, Uông Bí để củng cố cơ sở Đảng. Năm 1939, thực dân Pháp khủng bố gắt gao, Đảng Cộng sản Đông Dương chuẩn bị rút vào hoạt động bí mật, đồng chí Hoàng Văn Thụ lại được Trung ương Đảng điều về Hà Nội.
Ngày 8/9/1939, Hội nghị Xứ uỷ mở rộng họp tại Vạn Phúc (Hà Nội), đồng chí Hoàng Văn Thụ được bầu làm Bí thư Xứ uỷ Bắc kỳ và còn được giao trực tiếp phụ trách Thành ủy Hà Nội. Với kinh nghiệm hoạt động bí mật ở nhiều nơi, đồng chí tranh thủ thời cơ gần gũi quần chúng để xây dựng cơ sở, hướng dẫn cán bộ công tác hoạt động bí mật, đồng chí luôn nhắc nhở mọi người: “Trong hoàn cảnh công tác bí mật, quân thù còn mạnh và đông gấp bội, một vài khẩu súng thì có nghĩa lý gì? Cốt nhất là đồng bào quần chúng bảo vệ mình”.
Di tích Đình làng Vạn Phúc, Hà Nội, thời kỳ 1939 – 1945
Trong những năm 1939 – 1943, các cơ sở như: Số 1 phố Hàng Mành, số 11 phố Hàng Giấy, số 41 phố Bùi Thị Xuân, số 22 Chợ Hôm, số 62 phố Yên Phụ, hay làng Đại Mỗ, Tây Mỗ, Vạn Phúc, La Khê, La Cả, Phú Thượng, Thượng Cát… thuộc địa bàn Hà Nội là nơi che chở, nuôi giấu đồng chí hoặc nơi đồng chí thường lui tới làm việc.
Đồng chí Hoàng Văn Thụ luôn quan tâm, căn dặn các đồng chí trong Xứ ủy: “Bất kể tình huống nào, cũng phải đặc biệt chú ý đến Hà Nội”. Trong thời gian này, Ban lãnh đạo Đảng bộ Thành phố liên tiếp bị địch phá vỡ, các đồng chí lãnh đạo lần lượt bị bắt giam. Đồng chí Hoàng Văn Thụ đã nhiều lần trực tiếp chỉ đạo việc khôi phục lại cơ quan Thành ủy, giữ vững những cơ sở còn lại và củng cố các tổ chức quần chúng tại Hà Nội.
Trước bản án khắc nghiệt của chính quyền thực dân, người chiến sỹ cách mạng trẻ tuổi Hoàng Văn Thụ đã biến phiên tòa xét xử mình thành nơi tuyên truyền cách mạng, bảo vệ khí tiết và lý tưởng.
Một tổn thất lớn đã xảy ra đối với sự phát triển của cách mạng nước nhà: đó là vào tháng 8/1943, trên đường đi dự hội nghị binh vận tại ngõ Năm Diệm, khu Tám Mái (Hà Nội), đồng chí đã bị mật thám Pháp phục kích bắt đưa về giam tại nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội).
Kẻ địch đã tập trung những tên mật thám khét tiếng gian ác, áp dụng những thủ đoạn mà chúng cho là hiệu quả nhất, từ dụ dỗ đến đánh đập tàn nhẫn nhưng cũng không đem lại kết quả. Giữ vững niềm tin son sắt với cách mạng, đồng chí kiên quyết không cung khai. Một lần bị đánh ngất đi, khi tỉnh dậy, cơ thể đẫm máu nhưng đồng chí vẫn ôn tồn tuyên truyền cách mạng để thức tỉnh những kẻ lầm đường, lạc lối làm tay sai cho giặc.
Đối với đồng chí khác bị bắt cùng thời gian, đồng chí thường động viên: “Có đau cố gắng chịu đừng quên Tổ quốc và Đảng”. Trước sự anh dũng, quả cảm và lòng trung thành vô hạn đối với Tổ quốc và Đảng của đồng chí Hoàng Văn Thụ, các đồng chí khác hết sức khâm phục. Qua hơn 5 tháng tra khảo, bọn mật thám buộc phải để hồ sơ trắng kèm những lời khai của vài tên phản bội.
Ngày 21/12/1943, thực dân Pháp mở phiên tòa quân sự đặc biệt để xét xử đồng chí. Nhưng phiên tòa hôm ấy đã trở thành nơi đồng chí tuyên truyền cách mạng, bảo vệ khí tiết và lý tưởng.
Tòa Đại hình (nay là trụ sở của Tòa án nhân dân tối cao, số 48, phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội), nơi thực dân Pháp xét xử các chiến sỹ yêu nước, cách mạng Việt Nam
Trước vành móng ngựa, bằng một giọng hùng hồn, đanh thép, đồng chí lên án chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam. Đồng chí nêu rõ chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương, kêu gọi những người Pháp dân chủ cùng Đảng Cộng sản Đông Dương lập mặt trận chống phát xít Nhật, Pháp…
Khi tên chưởng lý đứng lên buộc tội, mặc dù nắm khá đầy đủ hoạt động của đồng chí, những hắn phải kết luận: “Căn cứ vào hồ sơ của Hoàng Văn Thụ thì không thể lấy điều luật nào để kết án nặng nhất Hoàng Văn Thụ, ngay cả khổ sai chung thân…”.
Nhưng theo tên Chánh mật thám Trung ương: “Hoàng Văn Thụ là một lãnh tụ cách mạng rất nguy hiểm. Trong gần hai mươi năm qua, hắn đã hành động chống lại nhà nước bảo hộ và gây ra biết bao cuộc phiến loạn. Nếu Hoàng Văn Thụ còn sống thì các nhà cầm quyền Pháp không thể ngồi yên ở đây và những người Pháp ở Đông Dương sẽ bị giết chết…”.
Cuối cùng, tòa tuyên án tử hình đồng chí. Bản án vừa đọc xong, tiếng hô “Đả đảo thực dân Pháp!” vang lên.
“Không nên bỏ phí những năm tháng ở tù, phải luôn trau dồi chí khí cách mạng và kiến thức lý luận để chỉ nay mai thôi, một khi được tháo cũi sổ lồng, các cậu sẽ hoạt động thay mình…”, đó là lời căn dặn của đồng chí Hoàng Văn Thụ giành cho đồng đội của mình.
Vừa bước chân vào Nhà tù Hỏa Lò, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã mang đến một không khí phấn chấn cho anh em tù nhân. Đồng chí cho biết tình hình thế giới có nhiều biến chuyển thuận lợi. Liên Xô bắt đầu phản công phát xít Đức. Phe Đồng Minh có thể mở Mặt trận mới ở châu Á. Hội nghị Trung ương lần thứ VIII đã thành lập Mặt trận Việt Minh. Đội du kích Bắc Sơn giờ đây đã trở thành Cứu quốc quân, đang hăng hái phát triển lực lượng tiến lên chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Phong trào quần chúng phát triển hơn trước rất nhiều.
Khu xà lim tử hình – Nhà tù Hỏa Lò
Những ngày ở xà lim tử hình Nhà tù Hoả Lò, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã truyền lại những kinh nghiệm đấu tranh, những chính sách mới của Đảng, những lý luận và đạo đức cách mạng cho nhiều đồng chí khác. Đồng chí mở rộng cuộc tranh luận với các thủ lĩnh của đảng Đại Việt, giúp họ thấy chủ trương đúng đắn của Mặt trận dân tộc thống nhất chống Pháp – Nhật do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Đồng chí còn tranh thủ cảm hoá giám ngục, lính gác, nhiều người tù rất kính phục đồng chí. Đồng chí nào có những suy nghĩ lệch lạc, đồng chí ân cần chỉ bảo, làm cho họ thấy rõ hơn âm mưu của đế quốc và sự tất thắng của cách mạng. Quà bánh ở bên ngoài gửi vào, đồng chí dành cho anh em phần nhiều và khuyên mọi người nên ăn để có sức chiến đấu. Đồng chí Trần Đăng Ninh kể lại nguyên văn lời anh Thụ: “Tôi ăn vào chỉ tốt cho mấy gốc cây”.
Đồng chí Hoàng Văn Thụ bị thực dân Pháp giải từ Nhà tù Hỏa Lò
ra pháp trường, ngày 24/5/1944
Sáng sớm ngày 24/5/1944, thực dân Pháp đưa đồng chí Hoàng Văn Thụ ra trường bắn. Đồng chí hiên ngang đi giữa hai hàng lính lê dương, cặp mắt ngời sáng trên khuôn mặt bình thản. Anh em tử tù xung quanh biết địch đưa đồng chí đi xử bắn, đau đớn, căm phẫn, những tiếng thét vang lên:
- Phản đối án tử hình!
- Tinh thần đồng chí Hoàng Văn Thụ bất tử!
- Tất cả các buồng giam khác đều hô theo.
- Đồng chí Hoàng Văn Thụ đáp lại:
- Việt Nam độc lập muôn năm!
- Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!
- Chào các anh ở lại!
Tại pháp trường, khi được hỏi: “Anh có muốn nói gì nữa không?”, đồng chí bình tĩnh trả lời: “Không nói gì nữa. Trong cuộc đấu tranh sinh tử giữa chúng tôi, những người mất nước và các ông, những kẻ cướp nước, sự hy sinh của những người như tôi là một sự dĩ nhiên. Chỉ biết rằng, cuối cùng chúng tôi sẽ thắng”.
Đồng chí không cho kẻ địch bịt mắt, hai loạt súng không át nổi tiếng đồng chí hô vang:
- Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!
- Việt Nam độc lập muôn năm!
Ngày hôm ấy, toàn thể tù nhân Nhà tù Hoả Lò tuyệt thực để tưởng nhớ đồng chí Hoàng Văn Thụ, một chiến sĩ cách mạng kiên trung, bất khuất, hiến dâng cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong thời gian đồng chí Hoàng Văn Thụ bị bắt giam tại Nhà tù Hỏa Lò, nhiều kế hoạch giải thoát được lập ra nhưng không có cơ hội thực hiện.
Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ đã bàn việc cứu đồng chí bằng cách bố trí một “cơ quan” ở Bắc Giang rồi bắn tin cho mật thám Hà Nội biết. Nếu chúng dẫn đồng chí Hoàng Văn Thụ về đây thì đội du kích cảm tử sẽ xông ra cứu. Nhưng bọn mật thám giữ chặt đồng chí trong xà lim Hỏa Lò.
Xà lim số 2, Nhà tù Hỏa Lò – nơi giam đồng chí Hoàng Văn Thụ (1943 – 24/5/1944)
Được tin sáng 24/5/1944, thực dân Pháp sẽ đưa đồng chí đi bắn, lập tức một kế hoạch táo bạo cướp tù được tổ chức, nhằm đánh tháo cho đồng chí chạy thoát ngay trên đường ra pháp trường. Kế hoạch được báo cáo lên trên và các đồng chí Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt đều nhất trí tán thành.
Theo kế hoạch đã định, khi xe chở tù của nhà giam Hỏa Lò qua ngã tư Trung Hiền rẽ xuống trường bắn Tương Mai thì một người sẽ giả vờ ngã xe đạp cản ô tô dừng lại, một số đồng chí có nhiệm vụ xông tới khống chế bọn lính canh trên ô tô, đưa đồng chí Hoàng Văn Thụ xuống. Buổi sáng hôm ấy, khi tới gần khu vực chợ Mơ, người họp chợ tràn cả ra vỉa hè, dưới lòng đường thì tàu điện, xe bò, xe đạp qua lại rất đông. Con phố Đại La, Bạch Mai hẹp, nhiều ngõ ngách, phía sau là làng xóm với nhiều đầm ao, mồ mả. Chỉ cần dìu được đồng chí Hoàng Văn Thụ vào một ngõ nhỏ là thoát! Nhưng ở trên xe, đồng chí Hoàng Văn Thụ lắc đầu ra hiệu không nên hành động lúc này. Vì bọn mật thám không chỉ khóa tay mà còn xích chân đồng chí vào sàn ô tô. Đồng chí không muốn vì mình mà thêm nhiều đồng đội khác phải hi sinh.
Chị Lê Thị Thanh còn có tên là An, một nữ đồng chí gan dạ, mưu lược, chỉ huy trực tiếp cuộc giải thoát hôm ấy đành nuốt hận nhìn chiếc ô tô màu đen bịt kín phía sau chở đồng đội của mình chầm chậm chạy qua trước mặt. Nhưng các anh, các chị lại chớp nhoáng hội ý, nảy ra ý kiến táo bạo mới: Cứu anh Hoàng Văn Thụ ngay tại cổng trường bắn, khi chúng vừa tháo xích đưa anh từ ô tô xuống. Những người có nhiệm vụ đã nhanh chóng tới địa điểm quy định, chen lẫn trong đám đông dân chúng đứng chật bên đường để ”xem bắn” (Địch có thông báo cho một số người vào chứng kiến nhằm khủng bố tinh thần nhân dân). Nhưng xe ô tô chở đồng chí Hoàng Văn Thụ chạy thẳng vào trường bắn, bọn lính gác ngăn không cho người vào theo. Một lần nữa, ý định giải thoát cho đồng chí lại không thành.
Chị Thanh cho biết thêm: Cũng trong kế hoạch dự kiến hôm đó, mọi người đã chuẩn bị một phương án chu đáo nhằm bảo vệ thi hài đồng chí Hoàng Văn Thụ. Ông X. một quần chúng tốt, nhà ở gần ô Cầu Dền đã đưa tiền cho những tên lính để ông được làm thay phần việc chôn cất đồng chí Hoàng Văn Thụ. Cái huyệt lấp đầy, nhưng thi hài đồng chí đã được đưa tới bãi rác Ô Cầu Dền (nay thuộc đê Tô Hoàng, phường Bách Khoa, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội là nơi chôn những người tù chết trong nhà giam Hỏa Lò).
Thi hài đồng chí được che đậy, giữ gìn cẩn thận rồi bí mật chuyển đi chôn ở Thanh Xuân trong đêm, đây là một nghĩa địa nhân dân nằm bên đường Hà Nội – Hà Đông.
Tổng Bí thư Đỗ Mười, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh cắt băng khánh thành Nhà bia tưởng niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ tại phường Tương Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, ngày 24/5/1994
Sau ngày giải phóng Thủ đô (10/10/1954), phần mộ của đồng chí Hoàng Văn Thụ được đưa về nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội. Ở Tương Mai, nơi đồng chí hy sinh cũng có một nấm mộ và khu tưởng niệm người con của xứ Lạng đã dũng cảm hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Bài thơ Nhắn bạn, đồng chí Hoàng Văn Thụ sáng tác trong Nhà tù Hỏa Lò với những vần thơ sáng ngời ánh thép mãi ngân vang đến tận hôm nay:
“Việc nước xưa nay có bại, thành,
Miễn sao giữ trọn được thanh danh.
Phục thù chí lớn không hề nản.
Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành.
Thân dẫu lao tù lâm cảnh hiểm,
Chí còn theo dõi buổi tung hoành.
Bạn hỡi gần xa hăng chiến đấu
Trước sau xin giữ tấm lòng thành”.
Nguồn : Hoalo.vn
Lịch Sử Thanh Hóa Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Thanh Hóa
LỊCH SỬ THANH HÓA
Page Content
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
1. Thanh Hóa trong thời kỳ các vua Hùng dựng nước.
Vào đầu thời đại đồng thau, ở đồng bằng Bắc Bộ, văn hoá Phùng Nguyên đã phân bố trên một vùng rộng lớn từ các tỉnh Vĩnh Yên, Phú Thọ, Hà Tây, Hải Phòng, Hà Giang, Bắc Ninh, Hà Nội. Ở Thanh Hoá, các bộ lạc nguyên thuỷ cũng có mặt trên địa bàn rất rộng: từ miền núi đến đồng bằng, ven biển.
Ở miền núi: Người thời đại đồng thau đã để lại dấu vết trong các hang động Thẩm Hai và Thẩm Tiên (thuộc huyện Thường Xuân). Trong tầng văn hoá dày từ 20 – 30cm, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều rìu, đục bằng đá được mài nhẵn. Đồ gốm thu được ở đây không nhiều nhưng đã thể hiện trình độ chế tác rất độc đáo: gốm thường có miệng loe dày, vai xuôi, có loại có chân đế. Hoa văn trang trí rất đa dạng nhưng chủ yếu bằng kĩ thuật khắc vạch với những đường song song hoặc cắt nhau chạy thành từng băng quanh thân. Trong tầng văn hoá cũng tìm thấy cả vỏ ốc suối. Với sự phát triển của kĩ thuật chế tác đồ gốm, lại cư trú trên địa bàn xung quanh các thung lũng bằng phẳng, những cư dân thuộc nhóm di tích Thường Xuân đã là những người làm nông nghiệp.
Ở miền biển: Trong khi các bộ lạc miền núi Thường Xuân sản xuất nông nghiệp và phát triển nghề làm gốm, thì ở vùng biển, một nhóm các bộ lạc khác đã biết đến kim loại. Di chỉ tiêu biểu là Hoa Lộc (xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc) đã được khai quật lớn vào năm 1974 và 1975. Vì vậy nền văn hoá khảo cổ ở đây được đặt tên là văn hoá Hoa Lộc. Cư dân văn hoá Hoa Lộc sống gần bờ biển. Tại các di chỉ thuộc văn hoá này đã phát hiện được nhiều chì lưới bên cạnh xương răng các loài cá biển, cá nước ngọt, chứng tỏ đánh cá là một nghề quan trọng của họ. Cũng tìm thấy ở đây xương răng các loài động vật đã được thuần dưỡng như trâu, bò, chó, lợn, và thú rừng như hươu, nai, hoẵng, lợn rừng, tê giác v.v… Rõ ràng chủ nhân văn hoá Hoa Lộc còn là những người chăn nuôi và săn bắn giỏi. Nhưng không nghi ngờ gì nữa, các bộ lạc văn hoá Hoa Lộc đã có một nền nông nghiệp dùng cuốc phát triển.
Tại di chỉ Hoa Lộc (hay còn gọi là Cồn sau chợ), đã tìm thấy số lượng rất lớn cuốc đá có vai hoặc hình tứ giác (61 chiếc). Ở di chỉ Phú Lộc (còn có tên là Cồn Nghè) tìm thấy tới 80 cái. Rìu và bôn có vai được mài nhẵn toàn thân, có hình dáng cân đối, cũng là loại nông cụ được tìm thấy khá nhiều ở văn hoá Hoa Lộc. Nhưng rõ ràng nhất là tại di tích Bái Cù, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều vết tích của vỏ trấu. Đây là trấu của giống lúa nước.
Chủ nhân văn hoá Hoa Lộc là những người làm gốm giỏi, đồ gốm của họ rất độc đáo cả về hình dáng lẫn hoa văn trang trí. Họ đã tạo được những cái bình có vai gãy, miệng gâp vào trong. Có cả loại có miệng hình nhiều cạnh mà các nơi khác rất hiếm gặp. Hoa văn trên đồ gốm Hoa Lộc cũng rất đẹp và phong phú: người ta đã thống kê được 18 đồ án hoa văn khác nhau trên đồ gốm Hoa Lộc, trong đó, đặc trưng và độc đáo nhất là hoa văn hình bọ gậy được tạo bằng cách ẩn miệng vỏ sò biển lên thân gốm khi còn ướt.
Một đặc điểm quan trọng khác của văn hoá Hoa Lộc là sự xuất hiện rất nhiều những con dấu bằng đất nung. Các con dấu này có hình chữ nhật hoặc gần tròn, thường được người thợ gốm khắc những chữ “S” hoặc những hoa văn nối tiếp nhau với nét khắc rất sâu. Các nhà nghiên cứu cho rằng, công dụng của những con dấu này có lẽ được dùng để in hoa văn lên vải hơn là để tạo hoa văn trên đồ gốm. Cũng tại Hoa Lộc, còn tìm thấy những hộp đất nung hình chữ nhật, có hai ngăn, mà công dụng cho đến ngày nay vẫn còn tranh cãi. Điều quan trọng là đã phát hiện được dấu vết của đồng trong văn hoá Hoa Lộc, đó có thể là những mẩu dây hoặc dùi đồng đã bị rỉ nát. Trong tương quan với các nền văn hoá cùng thời, các nhà nghiên cứu nhận thấy đã xuất hiện sự giao lưu giữa các bộ lạc văn hoá Hoa Lộc với chủ nhân các nền văn hoá khác. Ở phía Bắc, hoa văn in mép vỏ sò đặc trưng của văn hoá Hoa Lộc đã tìm thấy ở Sập Việt, Bản Gièm (Sơn La). Nhiều mảnh gốm kiểu Hoa Lộc được tìm thấy ở Gò Mả Đống (Ba Vì – Hà Nội), núi Lê (Ninh Bình), đồi Ghệ, đồi Giạ (Vĩnh Phú cũ). Ở phía Nam, phong cách trang trí và đồ án hoa văn hình chữ S in bằng miệng vỏ sò đã thấy xuất hiện ở Pò Cung (Quỳ Hợp – Nghệ An).
Căn cứ vào những thành tựu trong kĩ thuật chế tác các loại công cụ, trong các ngành kinh tế sản xuất và sự phân bố các di chỉ trên một vùng rộng lớn, có thể nhận thấy rằng mật độ cư dân trong văn hoá Hoa Lộc đã khá cao. Chủ nhân văn hoá Hoa Lộc hẳn đã có cuộc sống tinh thần khá phong phú: chỉ có những bộ óc phóng khoáng với những bàn tay khéo léo mới có thể tạo nên những kiểu dáng và hoa văn trên đồ gốm phong phú đến vậy. Sự phát triển mạnh mẽ của nghề đánh cá biển và kĩ thuật chế tác kim loại ra đời có thể đã góp phần quan trọng xác lập chế độ công xã thị tộc phụ quyền trong đời sống xã hội văn hoá Hoa Lộc.
Ở vùng đồng bằng sông Mã: Khi các bộ lạc ở miền núi, miền biển Thanh Hoá bước vào thời đại đồng thau cách đây khoảng 4.000 năm thì vùng đồng bằng ven đôi bờ sông Mã, cư dân các bộ lạc ở di chỉ Cồn Chân Tiên cũng bước vào sơ kì thời đại đồng thau. Cùng thời với di chỉ này, ven đôi bờ sông Mã còn phát hiện được các di chỉ núi Chàn (ở sườn tây núi Đọ), khe Tiên Nông (sườn Tây Bắc núi Nuông). Kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ này đã được nhiều nhà nghiên cứu xác định là giai đoạn sớm nhất của thời đại đồng thau ven sông Mã, là cốt lõi mở đầu trong quá trình hình thành bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang.
Những công cụ bằng đá ở Cồn Chân Tiên cho thấy cư dân giai đoạn này đã đạt tới trình độ kĩ thuật chế tác đá rất cao. Họ sử dụng đá bazan khai thác ở núi Đọ. Họ sử dụng kĩ thuật ghè để tạo phác vật, sau đó ghè tu chỉnh và tiến hành mài đá. Họ đã dùng hai loại bàn mài để mài phá và mài trau (loại đá có kết cấu hạt to dùng mài phá, loại mài trau có kết cấu hạt mịn). Bàn mài của họ đôi khi được dùng cả bốn mặt, có loại có rãnh chắc được dùng để mài đồ trang sức. Rìu đá ở Cồn Chân Tiên chủ yếu là rìu lưỡi cân, cạnh đó còn có loại lưỡi mài vát một bên có tiết diện hình chữ V lệch (thường được gọi là bôn). Đặc biệt ở đây đã tìm thấy những chiếc rìu và bôn có hình dáng nhỏ nhắn và rất xinh bằng đá ngọc, lưỡi rất sắc bén. Cũng tìm thấy nhiều vòng trang sức bằng đá, cư dân Cồn Chân Tiên chế tác công cụ ngay tại nơi cư trú.
Di chỉ Cồn Chân Tiên có tầng văn hoá tương đối dày, chứng tỏ con người đã định cư ở đây khá lâu dài. Đồng bằng ven sông Mã là địa bàn khai thác nghề trồng lúa nước của họ. Địa bàn cư trú ấy với điều kiện trình độ chế tác công cụ phát triển đã đưa sản xuất nông nghiệp lên vị trí hàng đầu trong nền kinh tế của cư dân Cồn Chân Tiên. Cũng như cư dân văn hoá Phùng Nguyên, Hoa Lộc, các bộ lạc nguyên thuỷ đôi bờ sông Mã đang dần dần chuyển sang chế độ công xã thị tộc phụ quyền và điều quan trọng hơn cả, khi đối chiếu, so sánh với kết quả nghiên cứu các giai đoạn phát triển sau này ở các di chỉ khảo cổ học khu vực đồng bằng sông Mã, sông Chu, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng cư dân các bộ lạc Cồn Chân Tiên là nhóm đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang của các vua Hùng.
2. Thanh Hóa trong trung kì thời đại đồng thau: Giai đoạn Đông Khối
Di chỉ khảo cổ học Đông Khối thuộc làng Đông Khối, xã Đông Cương (Đông Sơn), được khai quật năm 1960. Gần đây, nhờ kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ khảo cổ thời đại đồng thau ven đôi bờ sông Mã, các nhà nghiên cứu đã xác định Đông Khối là di chỉ tiêu biểu cho giai đoạn phát triển tiếp theo giai đoạn Cồn Chân Tiên ở lưu vực sông Mã, có niên đại trung kì thời đại đồng thau tương đương với giai đoạn Đồng Đậu ở đồng bằng Bắc Bộ. Thuộc giai đoạn này còn có di chỉ Bái Man, lớp dưới di chỉ Cồn Cấu (xã Đông Lĩnh) và lớp dưới di chỉ Đồng Ngầm (xã Đông Tiến) huyện Đông Sơn.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là kĩ thuật chế tác công cụ đá của cư dân các bộ lạc giai đoạn này đã không chỉ kế thừa trực tiếp kĩ thuật của cư dân Cồn Chân Tiên, mà họ còn đưa nghề chế tác đá phát triển thành kĩ nghệ, đạt tới đỉnh điểm trong thời tiền sử và sơ sử xứ Thanh. Tại di chỉ Đông Khối, ngày nay vẫn còn rất nhiều những phác vật, phế vật, mảnh tước v.v…, có chỗ chất đầy, ken dày trên những bờ ruộng, cánh đồng sát chân núi Voi, rộng hàng chục héc ta. Điều này cho thấy hẳn xưa kia, khoảng 3.000 năm trước đây, Đông Khối là một trung tâm chế tác công cụ đá rất phong phú và nhộn nhịp. Trong bộ sưu tập công cụ bằng đá ở Đông Khối, rìu và bôn tứ giác có tiết diện hình chữ nhật hoặc vuông chiếm ưu thế tuyệt đối. Hình dáng của chúng khá phong phú: rìu có loại hình thang vuông, hình chữ nhật; bôn cũng có hai loại: loại lưỡi mỏng (chỉ độ 1 cm) và loại lưỡi rất dày, có mặt cắt hình gần vuông, vì vậy có người gọi là búa rìu (loại này chiếm tỉ lệ 22 – 33% ở các di chỉ).
Nghiên cứu những dấu vết vật chất và bộ di vật, các nhà khảo cổ học cho rằng cư dân các bộ lạc thuộc giai đoạn Đông Khối có trình độ phát triển tương đương giai đoạn Đồng Đậu ở lưu vực sông Hồng. Nền kinh tế sản xuất nông nghiệp của người Đông Khối đã có bước phát triển mới: bên cạnh việc trồng trọt các loại cây cho củ, quả, lúa đã được trồng nhiều hơn, đặc biệt là lúa nếp. Tại Đồng Ngầm, Bái Man đã phát hiện được nhiều mẫu trấu của lúa dạng hạt tròn. Sự phát triển mạnh mẽ của các nghề thủ công làm gốm, chế tác công cụ đá, những dấu tích của lúa, gạo v.v… cho thấy người Đông Khối đã đạt tới trình độ khá cao trong đời sống kinh tế, xã hội.
3. Thanh Hóa thời Bắc thuộc
Năm 111 TCN, nhà Hán chinh phục Nam Việt và chia thành 9 quận, trong đó nước Âu Lạc cũ trở thành 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân, vùng đất Thanh Hóa nằm gọn trong quận Cửu Chân.
Trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, qua các triều đại Hán – Tam Quốc, Lưỡng Tấn – Tiền Tống – Tề – Lương – Tùy – Đường, địa danh của miền đất này cũng bao lần thay đổi theo sự thăng trầm của lịch sử. Cùng với số phận chung của cả nước, nhân dân Cửu Chân chịu cảnh sống lầm than cơ cực dưới ách đô hộ của ngoại bang.
II. LỊCH SỬ CON NGƯỜI
1. Thời đồ đá cũ
Các dấu vết của người nguyên thuỷ – người vượn sớm nhất ở Việt Nam, lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1960 tại núi Ðọ, Thanh Hoá. Do đặc trưng điển hình của hệ thống di tích này, các nhà khảo cổ học cho rằng đã tồn tại một nền văn hoá sơ kì thời đại đồ đá cũ: Văn hoá núi Ðọ. Văn hoá núi Ðọ bao gồm một hệ thống các di tích sơ kì thời đại đồ đá cũ được phát hiện ở Thanh Hoá: Núi Ðọ, núi Nuông, Quan Yên I, núi Nổ.
1.1. Văn hoá núi Đọ
Nằm trong địa phận hai xã Thiệu Tân và Thiệu Khánh huyện Thiệu Hoá (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Ðây là một hòn núi cao 160m, nằm bên hữu ngạn sông Chu. Người vượn nguyên thuỷ đã sinh sống ở đây, ghè vỡ đá núi để chế tác công cụ. Những công cụ bằng đá mang dấu ấn chế tác bởi bàn tay của họ như mảnh tước, hạch đá, rìu tay… đã được phát hiện ở núi Ðọ khá nhiều. Ngày nay, trên sườn núi Ðọ, hàng vạn mảnh tước (mảnh ghè khi người nguyên thuỷ chế tác công cụ) vẫn còn nằm rải rác, nhất là sườn phía Ðông và phía Tây Nam.
1.2. Núi Quan Yên
Trên núi Quan Yên, tại địa điểm Quan Yên I (bên sườn Ðông – Ðông Nam), thuộc xã Ðịnh Công, huyện Yên Ðịnh, năm 1978 các nhà khảo cổ cũng đã phát hiện được những vết tích của con người sơ kì thời đại đồ đá cũ. So với núi Ðọ, núi Nuông, mật độ và số lượng hiện vật thu được có ít hơn, nhưng kĩ thuật chế tác các loại hình công cụ ở đây cao hơn, gọi là kĩ thuật của loài vượn sơ kì thời đại đồ đá cũ, đồng thời đây cũng là một loại hình di chỉ – xưởng. Căn cứ vào trình độ kĩ thuật chế tác công cụ, địa hình cư trú và dựa vào những thành tựu mới nhất của các ngành khoa học, các nhà khoa học cho rằng, người vượn nguyên thuỷ văn hoá núi Ðọ là những người vượn đứng thẳng phát triển. Họ sống thành từng bầy, có thủ lĩnh bầy, mỗi bầy bao gồm từ 5-7 gia đình, có khoảng 20 – 30 người. Họ kiếm thức ăn chủ yếu bằng phương thức săn bắn và hái lượm theo bầy đàn người vượn và phân phối sản phẩm công bằng. Ðời sống tinh thần của họ đã khá phong phú: ngoài thì giờ kiếm ăn, có thể họ đã có những trò giải trí trong lúc rỗi rãi.
1.3. Hậu kì thời đại đồ đá cũ – Văn hoá Sơn Vi
Tại Thanh Hoá, các bộ lạc chủ nhân văn hoá Sơn Vi, theo tình hình hiểu biết hiện nay đã sinh sống trên địa bàn rộng lớn ở vùng núi phía Tây và Tây Bắc của tỉnh. Dấu vết của họ đã được tìm thấy ở các huyện Cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Hà Trung, Bá Thước và nhất là cụm di tích ở xã Hạ Trung (Bá Thước).
– Hang Con Moong: Ðáng chú ý nhất là hang Con Moong – một di tích nằm trong khu vực Vườn Quốc gia Cúc Phương – thuộc xã Thành Yên, huyện Thạch Thành. Di tích này được khai quật năm 1976. Tại đây, người vượn nguyên thuỷ Thanh Hoá đã sinh sống từ hậu kì thời đại đồ đá cũ đến thời đại đồ đá mới. Tầng văn hoá ở Con Moong dầy tới 3,5m với sự tiếp diễn liên tục, không hề có sự ngắt quãng. Tại lớp văn hoá sớm nhất (dưới cùng) ở Con Moong (đã được xác định niên đại bằng phương pháp cacbon phóng xạ C14 cách ngày nay hơn 12.000 năm) các nhà khảo cổ học đã thu được nhiều hiện vật. Ðó là những công cụ bằng đá có hình múi cam, công cụ có rìa lưỡi một đầu, công cụ 1/4 viên cuội, được tạo bằng thủ pháp đập vỡ cuội. Ðó là những chày nghiền, bàn nghiền – những hòn đá không có dấu vết chế tác, chỉ có dấu vết sử dụng bởi một mặt lõm xuống hình lòng máng, được dùng để chà vỏ, nghiền thức ăn thực vật; là những công cụ bằng xương có hình mũi nhọn được chế tạo từ những đoạn xương ống của các loài thú lớn. Xương, răng động vật cũng phát hiện được khá nhiều, gồm xương cốt các loài lửng, tê giác, voi, hươu, nai, hoẵng, baba, rùa vàng… Cũng giống như ở mái đá Ðiều, tầng văn hoá ở Con Moong chứa khá nhiều vỏ trai, ốc núi, ốc suối. Trong lớp văn hoá Sơn Vi ở Con Moong, đã tìm thấy dấu vết của bếp lửa có hình gần tròn, đường kính tới 4m, bên cạnh mùn thực vật và hạt trám. Trong lớp văn hoá Sơn Vi ở Con Moong, đã phát hiện được 3 mộ táng gồm 5 cá thể (có 2 mộ song táng) đã xác định được 1 nam, 1 nữ (khoảng 50 – 60 tuổi), hai trẻ em và 1 người không xác định được giới tính. Tất cả các hài cốt được chôn theo tư thế nằm nghiêng co bó gối, được bôi thổ hoàng, có một mộ chôn theo công cụ nạo. Như vậy, vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ, cùng với văn hoá Sơn Vi ở phía Bắc, chủ nhân của văn hoá Sơn Vi Thanh Hoá đã cư trú trên một vùng rộng lớn phía Bắc, Tây bắc của tỉnh và tương đối tập trung. Theo những phát hiện mới nhất của khảo cổ học, vùng Bá Thước, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành trong hậu kì thời đại đồ đá cũ có thể được coi là trung tâm của xứ Thanh ngày nay. Trong thời đại đồ đá cũ, cư dân nguyên thuỷ đã sinh sống trên địa bàn Thanh Hoá. Trong hàng chục vạn năm ấy, do điều kiện địa lí, do quá trình kiến tạo địa chất, nhiều đợt biển tiến, biển lùi đã đẩy người vượn nguyên thuỷ văn hoá núi Ðọ tiến lên chiếm lĩnh vùng phía Tây – Tây bắc, những chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hoá đã cùng các bộ lạc khác trên đất nước Việt Nam, trong quá trình đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên để sinh tồn, đã tạo nên một nền văn hoá mới, làm phong phú thêm thời đại đồ đá mới ở Việt Nam. Ðó là quá trình phát triển của xã hội người nguyên thuỷ trên đất Thanh Hoá.
2. Thời đại đồ đá mới
Nối tiếp văn hoá Sơn Vi là văn hoá Hoà Bình (lấy tên tỉnh Hoà Bình – nơi phát hiện những di tích đầu tiên của nền văn hoá này). Về niên đại, văn hoá Hoà Bình cách ngày nay 11.000 năm; trên đất Thanh Hoá, trung tâm dân cư lúc này vẫn tập trung ở địa bàn vùng núi phía Tây, thuộc các huyện Cẩm Thuỷ, Bá Thước, Thạch Thành, Ngọc Lặc… Họ thường sống trong các hang động, các núi đá vôi rộng, thoáng đãng và gần sông, suối lớn. Các nhà khảo cổ học đã xác định họ chính là hậu duệ trực tiếp của chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hoá và chính họ – cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá, đã tiếp tục phát triển, làm nên văn hoá Bắc Sơn sau này.
2.1. Những vết tích của văn hoá Hoà Bình.
– Hang Con Moong (xã Thành Yên – huyện Thạch Thành): Ðây là một hang rộng, nền hang cao hơn 40m so với chân núi hiện tại và rộng hơn 300 m2. Người nguyên thuỷ cư trú trên khoảng diện tích 100 m2 tại cửa hướng Tây Nam, liên tục từ thời văn hoá Sơn Vi đến văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn. Các nhà khảo cổ đã thu được rất nhiều hiện vật nằm lẫn trong đống vỏ nhuyễn thể và mùn thực vật mà người nguyên thuỷ đã thải ra trong quá trình sinh hoạt. Về công cụ bằng đá: cư dân văn hoá Hoà Bình ở Con Moong vẫn giữ truyền thống văn hoá Sơn Vi: dùng đá cuội để chế tác công cụ, nhưng kỹ thuật chế tác công cụ của họ rất phát triển, kể cả loại hình lẫn phương pháp chế tác. Công cụ kiểu Xumatơra(3) (Sumatralithe) có hình bầu dục hay hình hạnh nhân, lưỡi được tạo xung quanh rìa hòn cuội bằng cả thủ pháp ghè tỉa, để có độ sắc bén hơn; có chức năng sử dụng rất đa dạng: có thể dùng cắt, chặt, nạo….từ thịt, xương thú đến tre, nứa, gỗ. Rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn trong bộ sưu tập công cụ của họ ở Thanh Hoá; người ta thường chặt cuội hoặc chặt đôi những công cụ hình bầu dục để tạo rìu ngắn; chức năng của rìu ngắn cũng rất đa dạng. Rìu dài hình hạnh nhân hay hình bầu dục của cư dân văn hoá Hoà Bình có nhiều khả năng được sử dụng như những chiếc cuốc đá. Mảnh tước ở Con Moong có số lượng không nhiều, nhưng phần lớn đã được gia công để tạo thành công cụ nạo, dao đá, với rìa đá rất sắc. Chày nghiền, bàn nghiền cũng là những công cụ được tìm thấy khá nhiều. Chủ nhân Con Moong cũng chế tác và sử dụng công cụ bằng xương thú với kỹ thuật chọn nguyên liệu và chế tác phát triển khá cao: người ta chỉ lựa chọn xương ống của động vật có vú – loại xương có cấu tạo sợi nhiều hơn cấu tạo xốp – để chế tác công cụ và đã mài nhẵn đầu. Thức ăn rất phong phú, đa dạng: trong tầng văn hoá, các nhà khảo cổ học đã thu được 832 vỏ nhuyễn thể như trùng trục, trai, ốc… và các loại xương thú rất phong phú. Chôn người chết theo tư thế nằm nghiêng chân co như cư dân văn hoá Sơn Vi giai đoạn trước, nhưng họ đã chèn đá hộc, rải đá dăm quanh mộ để bảo vệ và đều chôn theo công cụ.
– Di chỉ mái đá Ðiều và các di chỉ khác: Cũng như ở Con Moong, mái đá Ðiều là một di chỉ chứa đựng nhiều lớp văn hoá thuộc các thời đại đồ đá khác nhau. Niên đại lớp văn hóa Hoà Bình của Mái đá Ðiều là 8.200 ± 70 năm, cách ngày nay. Các nhà khảo cổ học đã thu được rất nhiều công cụ bằng đá đặc trưng kiểu Hoà Bình. Ðáng chú ý là rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn. Chày nghiền, bàn nghiền cũng chiếm tỉ lệ đáng kể. Riêng công cụ bằng mảnh tước, ở một số địa điểm đã xuất hiện kĩ thuật mài đá. Ở các di chỉ mái đá Bát Mọt, hang Mộc Trạch, hang To đã tìm được nhiều mảnh vỏ trai xà cừ lớn mà công dụng có thể được chủ nhân văn hoá Hoà Bình sử dụng như những lưỡi dao, nạo để vót tre nứa và nạo thịt thú. Một đặc điểm chung nữa là tại các di chỉ văn hoá này, tầng văn hoá đều rất dày, chứng tỏ sự cư trú lâu dài của con người như Con Moong: 3,5m, mái đá Ðiều: gần 4m, mái đá Làng Bon: 3,7m, hang Ðiền Hạ III: 3,8m, mái đá chòm Ðồng Ðông: 3,5m; chứa đựng một khối lượng vỏ nhuyễn thể rất lớn lẫn trong lớp đất màu nâu hoặc đen chứa mùn thực vật. Cư trú trong các hang động, mái đá tương đối cao, có nơi rất cao (như Con Moong), cư dân Hoà Bình ở Thanh Hoá chắc rằng, ngoài những công cụ bằng đá, đã sử dụng một số lượng không ít các công cụ và đồ dùng được chế tác từ các loại cây cối, nhất là tre, nứa, song, mây… Ðể đựng các loại nhuyễn thể lượm nhặt từ sông, suối đem về nơi cư trú. Các nhà khảo học đã phát hiện được nhiều mộ táng của người Hoà Bình ở Thanh Hoá. Ðã tìm thấy ở hang Lộc Thịnh, mái đá Làng Bon, mái đá làng chòm Ðồng Ðông… các di cốt, xương, răng bị vỡ, mủn. Ðáng chú ý nhất là các di tích Con Moong (2 mộ), mái đá Ðiều (13 mộ), mái đá Mộc Long (5 mộ), hang Chùa (3 mộ). Phần lớn những mộ này còn nguyên vẹn và cho thấy tư thế chôn nằm nghiêng co bó gối, bôi thổ hoàng, kè đá giữa mộ và chôn theo hiện vật làm đồ tuỳ táng, là cách thức mai táng phổ biến trong tập tục của người Hoà Bình. Chủ nhân của văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá đã tiến tới tổ chức công xã thị tộc mẫu hệ. Các công xã thị tộc thường cư trú trong một vùng đất nhất định. Trong mỗi hang động là một thị tộc cư trú bao gồm nhiều gia đình nhỏ với vợ chồng, con cái. Dấu tích bếp lửa ở giai đoạn được tìm thấy có quy mô nhỏ hơn giai đoạn trước và số lượng cũng tăng hơn. Kinh tế hái lượm ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong đời sống, bởi vậy, vai trò và vị trí của người phụ nữ ngày càng được nâng cao. Với môi trường sinh sống gần sông, suối, khai thác thức ăn đa nguồn, định cư lâu dài, cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá đã chuyển từ cuộc sống hái lượm – săn bắt sang thu hoạch định kỳ theo mùa. Ðó là mầm mống sơ khai của nền kinh tế sản xuất nông nghiệp: người ta bắt đầu chăm sóc và trồng trọt một số loài cây có củ, quả như rau, đậu, bầu bí… và thuần dưỡng chó. Những quan niệm tôn giáo sơ khai, mầm nghệ thuật – sự tìm kiếm cái đẹp cũng nảy sinh trong quá trình lao động kiếm sống và vui chơi giải trí. Ðó là những thành quả sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội của cư dân văn hoá Hoà Bình xứ Thanh và với thành quả ấy, họ đã thực sự góp phần vào cách mạng đá mới. Sau hơn 70 năm phát hiện và nghiên cứu văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam cũng như ở Thanh Hoá đã cho thấy một cái nhìn tổng quan về lịch sử Thanh Hoá thời đại đồ đá mới: đó là sự phát triển liên tục, nội tại từ cư dân văn hoá núi Ðọ đến Sơn Vi và văn hoá Hoà Bình.
2.2. Đồ gốm xuất hiện và cư dân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh hoá:
Tại Thanh Hoá, dấu vết văn hoá Bắc Sơn đã được phát hiện trong các lớp văn hoá muộn của các di chỉ mái đá Thạch Sơn, mái đá chòm Ðồng Ðông, hang Lộc Thịnh, mái đá Ðiều, hang Mỹ Tế, mái đá làng Bon, làng Ðiền Hạ III… và đặc biệt rõ ở hang Con Moong- thuộc lớp trên cùng, có niên đại khoảng 7.000 năm cách ngày nay. Chủ nhân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá cũng như ở nơi khác, đã đưa kỹ thuật chế tác công cụ bằng đá đến trình độ cao: họ đã biết và phổ biến kỹ thuật mài đá. Ðã tìm thấy trong các di chỉ Bắc Sơn ở Thanh Hoá những bàn mài bằng sa thạch bên cạnh rất nhiều chày nghiền, bàn nghiền. Những chiếc rìu mài lưỡi Bắc Sơn ra đời đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghề nông đã thai nghén từ văn hoá Hoà Bình. Nhưng thành tựu kĩ thuật lớn nhất của cư dân văn hoá Bắc Sơn là phát minh ra đồ gốm. Mặc dù còn rất thô sơ về chất liệu, hình dáng, hoa văn, độ nung còn thấp, nhưng cũng đã tạo cho nền kinh tế sản xuất sơ khai của chủ nhân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá phát triển hơn hẳn nền kinh tế sản xuất nông nghiệp của văn hoá Hòa Bình. Tuy nhiên kinh tế sản xuất chưa thể chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống của người Bắc Sơn. Hái lượm và săn bắn vẫn đóng vai trò chính trong đời sống của họ: trong các hang động nơi họ cư trú, tầng văn hoá vẫn chất đầy vỏ nhuyễn thể và xương cốt động vật (lớp văn hoá Bắc Sơn ở Con Moong – lớp trên cùng- có độ dày từ mặt đất từ 0,2m – 1,2m, đã thu được tới 60m3 vỏ nhuyễn thể). Xã hội người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá đã phát triển chế độ thị tộc mẫu hệ.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế sản xuất, người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Sơn ngày càng lệ thuộc vào thành quả của hoạt động hái lượm và chăm sóc cây trồng. Ðó là những công việc chủ yếu do phụ nữ đảm nhận và ngày càng nắm vị trí chủ đạo trong kinh tế; vai trò người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao.
2.3. Cư dân văn hoá Đa Bút chiếm lĩnh đồng bằng và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước.
Vào hậu kì thời đại đồ đá mới, cách ngày nay khoảng 6.000 – 7.000 năm, sau nhiều đợt biển tiến, biển lùi, sang kỷ Hôlôxen, đồng bằng sông Mã đã hình thành tương đối ổn định với tài nguyên phong phú, đầy hấp dẫn, đã lôi cuốn chủ nhân văn hoá Hoà Bình – Bắc Sơn ở vùng núi rời khỏi các hang động – nơi cư trú hàng ngàn năm, tiến xuống khai phá miền đồng bằng trước chân núi. Nền nông nghiệp trồng lúa nước ra đời. Cùng với dân cư văn hoá Hạ Long ở phía Bắc, văn hoá Quỳnh Văn ở phía Nam, người nguyên thuỷ ở Thanh Hoá làm nên một nền văn hoá Ða Bút độc đáo, làm phong phú thêm diện mạo văn hoá của các bộ lạc nguyên thuỷ sinh sống trên toàn cõi Bắc Việt Nam.
Văn hoá Ða Bút: Theo hiểu biết hiện nay, văn hoá Ða Bút gồm hệ thống các di chỉ Ða Bút (xã Vĩnh Tân), Bản Thuỷ (xã Vĩnh Thịnh), làng Còng (xã Vĩnh Hưng) thuộc huyện Vĩnh Lộc, cồn Cổ Ngựa (xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung) và gò Trũng (xã Phú Lộc, huyện Hậu Lộc). Khai quật và nghiên cứu hệ thống di chỉ này, các nhà khảo cổ học đã chứng minh rằng chủ nhân của văn hoá Ða Bút theo quá trình lùi dần của biển, ngày càng chiếm lĩnh vùng đồng bằng ven biển Thanh Hoá. Kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ văn hoá Ða Bút cho thấy cư dân nguyên thuỷ giai đoạn này đã bước vào thời kỳ công xã thị tộc mẫu hệ phát triển. Nhờ nông nghiệp lúa nước được đẩy mạnh, đời sống đã ổn định, dân số tăng nhanh, đồng thời các nghề thủ công phục vụ sản xuất nông nghiệp và đánh cá được mở rộng.
III. LỊCH SỬ DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC
1. Cuộc khởi nghĩa của Chu Ðạt (156 – 160)
Năm 156, Chu Ðạt, người huyện Cự Phong (nay là thôn Phú Hào, xã Thọ Phú, huyện Triệu Sơn) chiêu mộ dân binh vây đánh huyện sở Cự Phong (vùng đất các huyện Nông Cống, Quảng Xương, Tĩnh Gia và Như Xuân, Như Thanh ngày nay) giết chết huyện lệnh rồi tiến công Tư Phố, giết chết thái thú nhà Ðông Hán, lực lượng có đến 5.000 người, quản trị Cửu Chân được 4 năm từ năm 156 đến năm 160.
2. Cuộc khởi nghĩa bà Triệu (Triệu Thị Trinh) năm 248
Từ năm 220, Cửu Chân thuộc quyền cai trị của Ðông Ngô (một trong 3 nước thời Tam Quốc), trong xứ không kể Nghệ An, Hà Tĩnh, có chừng 3 vạn hộ. Bà Triệu tức Triệu Thị Trinh, người Quân Yên (huyện Yên Ðịnh), 20 tuổi; lập căn cứ ở Núi Nưa (Triệu Sơn), hội quân với 3 anh em họ Lý ở Bồ Ðiền (tức Phú Ðiền, huyện Hậu Lộc) cùng tiến đánh quận sở Tư Phố đại thắng. Hầu hết các huyện lỵ, thành ấp ở Cửu Chân, Cửu Ðức, Nhật Nam (2 quận nay là vùng Nghệ Tĩnh – Quảng Bình) bị nghĩa quân đánh hạ, các thái thú, huyện lệnh và huyện trưởng bị giết… nền đô hộ của nhà Hán ở Giao Châu hơn 330 năm bị lật đổ.
3. Thời nước Vạn Xuân, Lý Nam Ðế (542 – 556)
Mùa xuân 542, Lý Bí – mẹ đẻ là người Cửu Chân, khởi nghĩa thắng lợi, lập ra nước Vạn Xuân xưng là Lý Nam Ðế. Nhà Lương đàn áp, Lý Thiên Bảo là anh ruột Lý Bí rút về Dã Năng (huyện Bá Thước ngày nay) xưng là Ðào Lang Vương tiếp tục kháng chiến. Sau đó Thiên Bảo mất, Lý Phật Tử lên thay tức là Hậu Lý Nam Ðế. Năm 556, Lý Phật Tử đánh nhau với Triệu Việt Vương – Triệu Quang Phục – người tiếm ngôi của Lý Bí và là người đánh bại quân đội nhà Lương ở đầm Dạ Trạch (tỉnh Hưng Yên ngày nay).
4. Cuộc khởi nghĩa của Lê Ngọc (đầu thế kỷ VII)
Lê Ngọc (còn gọi là Lê Cốc) cùng với 4 người con lật đổ quan cai trị của nhà Tuỳ (Trung Quốc) đóng ở Ðông Phố (tức Ðồng Pho, xã Ðông Hoà, huyện Ðông Sơn ngày nay), gọi là kinh đô Trường Xuân, tự quản Cửu Chân chống lại nhà Ðường cho đến đầu thế kỷ VI. Ðến thế kỷ VII, Cửu Chân gồm 6 huyện có 16.100 hộ (quận Giao Chỉ có 30.000 hộ) khoảng 84.000 nhân khẩu, thuộc xứ An Nam (tên An Nam thay cho Giao Châu bắt đầu từ đây). Quận sở là Ðông Phố (tức là Ðồng Pho). Năm 759, quân Mã Lai cướp phá Châu Ái (tên gọi Cửu Chân từ năm 523) bị quan cai trị là Trương Bá Nghi tiêu diệt. Năm 797, quân Mã Lai lại cướp phá Châu Ái nữa, xây cả thành, lập nước, nhưng bị quan cai trị là Trương Châu đánh đuổi, san phẳng thành trì thu hồi mọi của cải. Thế kỷ IX, Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo đã rất phát đạt ở Châu Ái. Ðạo Nho có anh em Khương Công Phụ, đỗ Tiến sỹ làm quan đến Tể tướng triều đình nhà Ðường, đạo Lão biến các hang động đẹp nhất ở khắp Vĩnh Lộc, Hà Trung, Nga Sơn làm nơi tu tiên và đạo Phật có các Ðại hoà thượng như Trí Hành và Ðại Thăng Ðăng sang tận Trung Quốc để hành đạo.
5. Thời Dương Ðình Nghệ (? – 937)
Dương Ðình Nghệ, chính khách quan trọng nhất thế kỷ X của lịch sử Việt Nam, thu hút hơn 3.000 người làm vây cánh ở làng Giàng, Tư Phố (nay là đất các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, thành phố Thanh Hóa), trong đó có Ngô Quyền, Ðinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Phạm Cự Lạng… Tháng 3 năm 931, Dương Ðình Nghệ đánh đuổi thứ sử Lý Tiến của nhà Nam Hán (Trung Quốc), tiêu diệt viện binh Nam Hán, tự lập làm tiết độ sứ, chấm dứt vĩnh viễn nền đô hộ hơn 1.000 năm của người Trung Quốc ở Việt Nam. Từ Dương Ðình Nghệ, Việt Nam xác định lại được quốc thống của một đất nước độc lập hoàn toàn.
6. Thời Ngô Quyền (938 – 968)
Mùa đông năm 938, Ngô Quyền đem quân đội Cửu Chân tiến ra Bắc tiêu diệt Kiều Công Tiễn – kẻ phản bội họ Dương ở Ðại La (Hà Nội ngày nay), rồi cản phá quân Nam Hán là Lưu Hoàng Thao trên sông Bạch Ðằng, lên ngôi vua tức Ngô Vương Quyền. Thời 12 sứ quân, Cửu Chân nằm trong vòng kiểm soát của Ðinh Bộ Lĩnh ở miền Ðông và của Ngô Xương Xí – cháu nội Ngô Quyền, ở Bình Kiều (đất vùng Triệu Sơn ngày nay) tức miền Tây lãnh thổ.
7. Thời Ðại Cồ Việt – Tiền Lê (968 – 1009)
Năm 979 – 980, Lê Hoàn trấn áp xong quân chống đối của Nguyễn Bặc và Ðinh Ðiền ở vùng sông Tống (vùng đất huyện Hà Trung ngày nay) lên ngôi vua. Năm 981, ông đánh tan quân xâm lược nhà Tống, và năm 982 đánh thắng quân Chiêm Thành. Năm 982, nhà vua cho nạo vét các sông ngòi, đào kênh nối liền hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Yên, sông Bạng cho đến vùng đất tỉnh Nghệ An ngày nay, thành một đường giao thông thuận tiện đầu tiên ở Cửu Chân và ở cả đất nước Ðại Cồ Việt. Người chỉ huy đào các kênh này là Ðào Lang, làng Bùi Ðỉnh (xã Yên Trung huyện Yên Ðịnh ngày nay). Từ năm 999 đến năm 1005, các vua thời Tiền Lê phải trực tiếp điều quân bình định miền viễn Tây Thanh Hoá nhưng chưa ổn.
8. Thời Nhà Lý (1010 – 1225)
Từ đầu triều đại nhà Lý 1009 đến 1028, lúc đầu Lý Thái tổ đặt tên gọi Trại Ái Châu. Đến năm 1029, dưới triều vua Lý Thái Tông, năm Thiên Thành thứ hai đặt tên Phủ Thanh Hóa. Từ đó các triều đại tiếp theo lúc gọi phủ, lúc gọi lộ, lúc gọi trấn và gọi là tỉnh Thanh Hóa vào thời nhà Nguyễn.
Tên Hóa có lúc lại đổi thành Hoa, rồi lại trở lại Hóa; đến đời vua Thiệu Trị, triều đại nhà Nguyễn (1841), nhà vua có một chỉ dụ đại ý nói: Thanh Hóa là một tên cổ, do các triều đại trước đã định danh, vì vậy không có lý do gì đổi tên này, mà phải giữ nguyên tên gọi tỉnh Thanh Hóa.
Ngày 12/7/2017, tại kỳ họp thứ ba, HĐND tỉnh khóa XVII đã quyết nghị lấy năm 1029 là năm ra đời Danh xưng Thanh Hóa với tư cách đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Sự kiện lịch sử này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo sự phấn khởi, lan tỏa trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
9. Thời nhà Trần (1226 – 1400)
Tháng giêng năm Thiệu Long thứ 15 nhà Trần (năm 1272), Lê Văn Hưu, người làng Bồi Lý (xã Thiệu Trung, Thiệu Hoá ngày nay) dòng dõi Lê Lương, soạn xong Ðại Việt sử ký toàn thư – bộ sử hoàn chỉnh đầu tiên của nước ta.
Lê Văn Hưu được tôn là ông tổ ngành sử học của Việt Nam. Ðầu năm 1285, kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2, ở Thanh Hoá, quân đội nhà Trần do Trần Kiên, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chỉ huy chống giữ cầm chân giặc, ở các điểm Yên Duyên (xã Quảng Hùng), núi Ðá Chẹt (Quảng Lĩnh), Văn Trinh (Quảng Hợp), Bố Vệ (thành phố Thanh Hoá), Phú Tân (Hà Toại), Nga Lĩnh, Quang Lộc, Liên Lộc, chiến sự rất dữ dội. Sau khi tướng Nguyên: Toa Ðô tiến được ra sông Hồng thì Hưng Ðạo Vương lại đem 2 vua Trần rút vào Thanh Hoá (ở các vùng Nga Sơn, Hà Trung, Thạch Thành ngày nay) để bảo toàn đầu não. Ðến tháng 5 năm 1285, từ Thanh Hoá, Hưng Ðạo Vương tiến quân ra Bắc quét sạch quân Nguyên Mông khỏi bờ cõi Ðại Việt. Năm 1370, dòng họ Lê ở Ðại Lại (Ðò Lèn, Hà Ngọc huyện Hà Trung) do Lê Liêm dẫn đầu hội quân Thanh Hoá tiến ra Thăng Long phế bỏ người tiếm ngôi Dương Nhật Lễ, lập lại nhà Trần bằng vua Trần Phủ – tức Trần Nghệ Tôn – nhà Trần từ đây thiên vào Thanh Hoá. Năm 1378, quân Chiêm Thành vào cướp Thanh Hoá bị quan quân nhà Trần trấn giữ đánh bại. Năm 1380, quân Chiêm Thành do đích thân vua Chế Bồng Nga chỉ huy lại vào cướp Thanh Hoá bị Hồ Quý Ly đánh bại ở cửa sông Ngu (tức Lạch Trường, Hoằng Trường ngày nay). Năm 1382, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, bị Nguyễn Ða Phương đánh bại ở cửa Thần Ðầu (tức Thần Phù, huyện Nga Sơn ngày nay). Năm 1389, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, Hồ Quý Ly chống không nổi phải bỏ chạy. Quân Chiêm Thành tiến ra Bắc. Năm 1390, tướng chỉ huy nhà Trần ở Thanh Hoá là Trần Khát Chân cản phá được quân Chiêm Thành, giết chết Chế Bồng Nga, chấm dứt vĩnh viễn sự quấy rối của các vua Chiêm Thành.
10. Thời nhà Hồ (1400 – 1407)
Mùa xuân năm 1397, xây dựng xong thành đá Tây Giai ở động Thiên Tôn (nay là đất xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc). Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua ở thành này, thay nhà Trần, đổi tên nước là Ðại Ngu (nghĩa là rất an vui và cùng lo việc nước), bỏ kinh đô Thăng Long, lấy thành đá mới làm quốc đô gọi là Tây Ðô. Nhà Hồ phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng đúc từ năm 1396, đến năm 1400 định lại giá kim ngạch cho thêm chặt chẽ. Năm 1402, nhà Hồ hoàn thành việc xây dựng con đường Thiên Lý từ Tây Ðô ra Ðông Quan (tức Thăng Long cũ) và từ Tây Ðô vào Hoá Châu (vùng Quảng Bình ngày nay) dọc đường đặt nhà trạm, phố xá và bưu dịch có hệ thống. Sau một năm chiến đấu ngoan cường nhưng thất bại, năm 1407, nhà Hồ và nước Ðại Ngu mất vào tay quân xâm lược nhà Minh.
11. Cuộc kháng chiến 10 năm chống nhà Minh(1418 – 1428)
Mùa xuân, tháng Giêng ngày mồng 2 năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi cùng với những người tài giỏi trong cả nước khởi nghĩa ở Mường Chính (nay là huyện lỵ Lang Chánh) tiến về Khả Lam (tức Lam Sơn) bắt đầu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh (Trung Quốc) giải phóng đất nước. Lê Lợi xưng là Bình Ðịnh Vương, người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang (nay là xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân). Bình Ðịnh Vương chiến đấu ở Thanh Hoá 6 năm, các trận đánh lớn diễn ra ở Lam Sơn, Mường Một (vùng Bát Mọt, huyện Thường Xuân ngày nay), Mường Chính, Bến Bổng (vùng thượng du sông Âm), Ba Lẫm (vùng Chiềng Lẫm, huyện Bá Thước ngày nay), Kình Lộng (vùng Cổ Lũng, huyện Bá Thước), Úng Ải (vùng đèo Thiết Ống, huyện Bá Thước), Sách Khôi (ở khoảng giữa huyện Bá Thước và huyện Hoàng Long – Ninh Bình và huyện Thạch Thành – Thanh Hoá), Ða Căng (vùng Thọ Nguyên, Thọ Xuân), có trận phía địch có tới 10 vạn quân như ở Kình Lộng. Mùa đông năm 1424, Bình Ðịnh Vương tiến quân vào Nghệ An theo kế sách của Nguyễn Chích. Mùa thu năm 1426, quân khởi nghĩa tiến ra Bắc bao vây Ðông Quan. Ngày 17 tháng 9 năm Bính Ngọ (1426), Bình Ðịnh Vương đến Lỗi Giang (vùng đất các huyện Thạch Thành, Vĩnh Lộc ngày nay) chỉ huy bao vây Tây Ðô. Cuối năm 1426, Bình Ðịnh Vương ra Bắc chỉ huy giải phóng các miền đất Giao Chỉ (Bắc Bộ ngày nay), và vây hãm thành Ðông Quan. Ngày 22 tháng 01 năm Ðinh Mùi (1427), giặc Minh đầu hàng. Mùa xuân năm sau – giặc rút về, đất nước sạch bóng quân thù, thành Tây Ðô lại về Ðại Việt. Ngày 15 tháng giêng năm Mậu Thân (1428), Bình Ðịnh Vương lên ngôi hoàng đế nước Ðại Việt, thủ đô là Ðông Kinh (tức Ðông Quan, thủ đô Hà Nội ngày nay). Cả nước chia làm 3 đạo hành chính lớn, Thanh Hoá thuộc đạo Hải Tây trong số các trấn ven biển Tây Ðô.
12. Thời Lê sơ (1428 – 1516)
Tháng 11 – Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ về bái yết Sơn Lăng, Lam Sơn, sau 10 năm chiến đấu giành độc lập cho đất nước thắng lợi. Mùa Hè năm Canh Tuất (1430) đổi Tây Ðô làm Tây Kinh và Ðông Ðô (Hà Nội) làm Ðông Kinh. Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê Thái Tổ mất, một tháng sau đem về an táng ở Lam Sơn, gọi nơi an táng là Vĩnh Lăng. Tháng 12 năm Quí Sửu (1433) xây dựng điện Lam Sơn (gọi là Lam Kinh). Ngày 7 tháng 01 Giáp Dần (1434), điện Lam Kinh bị cháy (cháy lần thứ nhất). Tháng 9 Mậu Thìn (1448): xây dựng lại Lam Kinh do Thái uý Trịnh Khả chỉ huy. Từ Mậu Ngọ (1438) đến Mậu Tý (1468), 3 lần khơi đào các kênh trong xứ Thanh Hoá. Năm Bính Tý, tháng 4 (1516), Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tương Dực, lập vua Lê Chiêu Tông rước về Tây Kinh.
13. Thời Lê Mạc (1516 – 1788)
Họ Mạc cướp ngôi vua Lê ở Thăng Long. Quan Ðiện tiền tướng quân là Nguyễn Kim – người Hà Trung lập căn cứ ở Thanh Hoá chống lại họ Mạc. Năm 1533 (Quí Tỵ), ông này đưa được Lê Ninh (con vua Chiêu Tông) lên ngôi tức Lê Trang Tông đánh chiếm Tây Kinh (1545) thắng lợi. Ðến năm 1545 (Ất Tỵ), Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm lên thay, đánh nhau nhiều trận lớn với họ Mạc ở Thanh Hoá, 17 lần quân Mạc đều thua.
Từ năm 1533 đến 1592, triều đình nhà Lê ở Thanh Hoá, quản lý đất nước từ Thanh Hoá trở vào, đóng đô ở Yên Trường (nay thuộc Yên Ðịnh) mở nhiều khoa thi, chọn người hiền tài tham gia chính quyền. Năm 1593, Trịnh Tùng – con trai Trịnh Kiểm, kế tục cha tiêu diệt họ Mạc, đưa vua Lê Thế Tông trở lại Thăng Long, lập phủ chúa, Ðàng Ngoài do vua Lê – Chúa Trịnh trị vì từ năm 1599. Trong thời đó, năm 1588, Nguyễn Hoàng (con trai của Nguyễn Kim) vào trấn thủ xứ Thuận Hoá, mở đầu sự nghiệp các Chúa Nguyễn ở Ðàng trong. Năm 1738, Lê Duy Mật (con vua Lê Dụ Tông Duy Ðường) khởi nghĩa chống Chúa Trịnh, địa bàn hoạt động rộng khắp Tây Nam, Tây, Tây Bắc Thanh Hoá và vùng Tây Bắc lẫn Tây Bắc Bộ. Năm 1770, Duy Mật bị con rể phản bội phải thua và tự sát với vợ con, chấm dứt 32 năm chiến đấu. Từ năm 1557 đến 1786, Thanh Hoá bị 10 trận bão lụt lớn xen đại hạn, 15 lần đói to chết nhiều người và 16 cuộc chiến giữa quân Trịnh – Mạc, những tai hoạ ấy không hề có ở thời Lê sơ.
14. Thời Tây Sơn
Những năm quân Tây Sơn tiến công ra Bắc, quân dân Thanh Hoá do Lê Trung Nghĩa (tức Quận Mãn) chỉ huy chống lại rất dữ dội, Lê Trung Nghĩa tử trận ở Tĩnh Gia.
Quân đội Tây Sơn phá huỷ hoàn toàn Lam Kinh và kinh đô An Trường biểu tượng của các vua Lê và còn phá huỷ nhiều chùa chiền miếu mạo khác. Năm 1790, con vua Quang Trung là Quang Bàn được cử ra trấn thủ Thanh Hoá. Năm 1792, ông tách ra 2 phủ Trường An và Thiên Quan của Thanh Hoa ngoại thành trấn Thanh Bình (tức Ninh Bình ngày nay).
15. Thời nhà Nguyễn (1802 – 1945)
Ðặc biệt, triều đình ra lệnh không được đào bới khai mỏ gì ở Thanh Hoá sợ rằng xúc phạm đến oai linh của xứ sở. Nhà Nguyễn xây lăng tổ khai sáng ở Triệu Tường (Hà Trung), thành Triệu Tường lớn thứ 2 sau thành Thanh Hoá, chu vi 182 trượng (1 trượng = 4m), xây dựng lại Lam Kinh để tỏ lòng kính ngưỡng nhà Lê, dựng đền thờ các vua Lê ở Kiều Ðại (TP Thanh Hoá), hằng năm cắt cử các quan lại thay mặt nhà vua cúng tế và tổ chức phòng thủ ở Thanh Hoá rất hùng mạnh gồm một hệ thống 11 đồn binh có quân chính qui trấn giữ 7 bảo súng (pháo đài), 1 đồn thuỷ với 44 khẩu đại bác (súng thần công) mỗi đợt tuyển quân lấy của Thanh Hoá hơn 7.000 người. Ngày 25/11/1885, quân xâm lược Pháp lần đầu tiên tiến công Thanh Hoá. Trước đó, ngày 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết cùng vua Hàm Nghi tuyên bố chọn Thanh Hoá làm thủ phủ kháng chiến, nên tinh thần Cần Vương của quân dân Thanh Hoá rất sôi sục. Vùng rừng núi Thanh Hoá được xây dựng những sơn phòng tích trữ tiền của, lương thảo để chuẩn bị đánh giặc. Ba tháng sau (12/3/1886), nghĩa quân Cần Vương đã tiến đánh quân Pháp đóng ở thành Thanh Hoá. Mùa hè năm 1886, nghĩa quân lập bộ chỉ huy kháng chiến toàn Thanh Hoá do Tống Duy Tân đứng đầu và lập chiến khu ở Ba Ðình (Nga Sơn). Từ 18/12/1887, chiến sự dữ dội nhất giữa quân Việt Nam và Pháp đã nổ ra ở Ba Ðình. Quân Pháp phải tập trung trên địa bàn một số xã ở đây lượng binh lính lớn nhất so với toàn quốc (6.000 người trong một trận) để chiến đấu và bị thiệt hại nặng nề. Cuối cùng vì không được tiếp ứng như kế hoạch dự kiến, nghĩa quân do Ðinh Công Tráng chỉ huy đã rút lui an toàn khỏi các chiến luỹ. Ngày nay quảng trường trọng đại nhất của đất nước mang tên chiến khu này, đó là quảng trường Ba Ðình lịch sử ở thủ đô Hà Nội. Các cuộc chiến đấu chống quân đội Pháp ở Thanh Hoá đến giữa năm 1895 mới chấm dứt cùng với hàng ước của nhà Nguyễn. Thanh Hoá và các tỉnh miền Trung Việt Nam vẫn nằm trong nền độc lập hạn chế của nhà Nguyễn không bị Pháp cai trị trực tiếp. Thực tế chính quyền thuộc địa Pháp chỉ cai quản địa phận thị xã Thanh Hoá được thành lập ngày 12/7/1899 ở khu đất phía Ðông thành Thanh Hoá mà thôi. Năm 1918, chế độ thi cử tuyển hiền tài, kiểu Nho giáo ở Thanh Hoá mới bãi bỏ. Thanh Hoá bắt đầu hình thành xã hội phong kiến nửa thuộc địa hiện đại hoá.
16. Thời hiện đại
Các năm 1926 – 1927, các tổ chức cách mạng đầu tiên ở Thanh Hoá ra đời. Ngày 25/6/1930, chi bộ Ðảng Cộng sản đầu tiên thành lập ở làng Hàm Hạ (thuộc xã Ðông Tiến, huyện Ðông Sơn), và ngày 29/7/1930, đã thành lập Ðảng bộ tỉnh, Bí thư Tỉnh uỷ đầu tiên là đồng chí Lê Thế Long.
Tháng 9/1942, Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hoá thành lập. Ngày 24/7/1945, nhân dân huyện Hoằng Hoá giành chính quyền huyện thắng lợi. Ngày 19/8/1945, nhân dân thành phố Thanh Hoá và một số huyện tiến hành tổng khởi nghĩa thắng lợi. 4 ngày sau, cách mạng thành công trên toàn tỉnh. Ngày 23/8/1945, chính quyền cách mạng tỉnh Thanh Hoá ra mắt đồng bào ở thị xã Thanh Hoá. Ngày 2/9/1945, Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Cùng với cả nước, lịch sử Thanh Hoá bước vào thời kỳ phát triển mới. Trong thời đại phong kiến, người dân Thanh Hoá đã ghi lại những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước, mở nước và giữ nước của cả dân tộc Việt Nam. Thanh Hoá là nơi phát tích của các vương triều: Tiền Lê, Hậu Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, triều Nguyễn. Trong sự nghiệp cách mạng ngày nay, người dân xứ Thanh cũng góp phần xứng đáng đối với cả nước để xây dựng quê hương mình nhanh chóng trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh./.
(Ban Biên tập - Sưu tầm và biên soạn)
Báo Đà Nẵng Điện Tử
* Ghi lời chúc phúc mừng đôi trẻ làm đám cưới, có người nói nên ghi “bách niên giai lão”, có người lại bảo “bạch đầu giai lão”, người kia thì cho rằng “bách niên hảo hợp”. Xin cho biết, các thành ngữ này nghĩa như thế nào? (Lê Thị Hằng, Hải Châu, Đà Nẵng).
Tranh “Bách niên hảo hợp” chúc phúc lứa đôi. Nguồn: Internet
– Trong 3 thành ngữ nói trên, “bách niên giai lão” [百年皆老] (trăm năm đều già, trăm năm sống đời với nhau) có “tuổi đời” cao nhất. Đây là thành ngữ thường dùng làm lời chúc vợ chồng mới cưới.
Trong tiếng Hán, “giai lão” xuất hiện từ bộ Kinh Thi – một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo, được sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm, từ đầu thời Tây Chu (thế kỷ XI-771 TCN) đến giữa thời Xuân Thu (771-476 TCN). Trong bài Kích cổ 4 (Đánh trống 4), thiên Bội phong của sách này có câu: “Tử sinh khiết thoát,/ Dữ tử thành thuyết./ Chấp tử chi thủ,/ Dữ tử giai lão”. Dịch nghĩa: Chết sống hay xa cách,/ Đã cùng nàng thành lời thề ước./ Ta nắm tay nàng,/ (Hẹn ước) sẽ sống chung với nhau đến tuổi già. Tạ Quang Phát dịch thơ: Lúc tử sinh hay khi cách biệt,/ Chẳng bỏ nhau lời quyết thệ rồi./ Cầm tay nàng, hẹn mấy lời:/ Sống bên nhau mãi đến hồi già nua.
Về thành ngữ “bách niên giai lão”, Từ điển Hán Việt trích dẫn giảng “chúc tụng vợ chồng hòa mục trăm năm cùng già” và dẫn một câu trích từ hồi thứ 21 sách Nho lâm ngoại sử (hay còn gọi là Truyện làng nho, tiểu thuyết chương hồi của Ngô Kính Tử thời nhà Thanh, Trung Hoa – ĐNCT): “Chỉ nguyện nhĩ môn phu thê bách niên giai lão, đa tử đa tôn” (Chỉ mong tình nghĩa chồng vợ bách niên giai lão, đông con nhiều cháu).
Trong Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều dùng từ “bách niên” (trăm năm) để nói về tình nghĩa vợ chồng bền chặt, dài lâu: “Chữ đồng lấy đấy làm ghi/ Mượn điều thất tịch mà thề bách niên” (thất tịch: đêm mồng 7 tháng 7 âm lịch, theo truyền thuyết Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau).
Trong truyện Phạm Tải – Ngọc Hoa (một truyện thơ Nôm khuyết danh, xuất hiện trong khoảng thế kỷ XVIII), có lời Phạm Tải nói với Ngọc Hoa: “Tưởng là vẹn đạo xướng tùy/ Cho nên vàng đá trót thề bách niên”.
Để mừng tân lang và tân giai nhân trong ngày họ thành thân, người ta dùng nhiều câu chúc rất tinh tế như: Nhị tính liên hôn thành đại lễ/ Bách niên giai lão lạc trường xuân (Hai họ thông gia thành lễ lớn/ Trăm năm lên lão kéo dài xuân); Bạch đầu giai lão/ Vĩnh kết đồng tâm (Đầu bạc cùng già/ Đồng tâm kết mãi)…
Ngoài ra, còn có một thành ngữ tương tự là “bách niên hảo hợp (hiệp)” hoặc “bách niên hòa hiệp” (trăm năm sống với nhau tốt đẹp, hòa thuận).
“Bách niên hảo hợp” được gọi tắt thành bách hợp. Bách hợp cũng là cách gọi khác của loài hoa có tên hoa Lily (còn gọi là hoa Ly, hoa Loa kèn) – được xem là một trong những loài hoa được yêu thích nhất trên thế giới, tượng trưng cho hạnh phúc và nét thanh khiết.
Tại mỗi nền văn hóa khác nhau, Lily cũng có ý nghĩa khác nhau. Trong nền văn minh Assyria, hoa Lily được xem là hoa thánh. Thần thoại Hy Lạp lại cho rằng hoa ly là biểu tượng cho tình mẫu tử. Người Công giáo tin rằng, loài hoa này đại diện cho lòng trinh bạch, sự ngây thơ. Người Trung Quốc tin rằng, hoa ly mang đến may mắn (đặc biệt là phong thủy). Vì cái tên bách hợp (trong “Bách niên hảo hợp” – trăm năm hạnh phúc hòa hợp) nên hoa ly hay được dùng trong các đám cưới của người Trung Quốc.
ĐNCT
Thư Chúc Mừng Năm Mới Xuân Đinh Dậu 2022 Của Chủ Tịch Ubnd Tỉnh Hà Giang Nguyễn Văn Sơn
Kính thưa đồng chí, đồng bào và toàn thể nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang!
Nhân dịp đón chào Xuân mới Đinh Dậu 2017, thay mặt lãnh đạo Tỉnh uỷ, HĐND, UBND và UBMT Tổ quốc tỉnh Hà Giang, tôi trân trọng gửi tới các bậc lão thành cách mạng; các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng; cán bộ, chiến sỹ các lực lượng vũ trang; cán bộ công chức, viên chức và người lao động; cộng đồng các doanh nghiệp, nhà đầu tư, cùng toàn thể đồng bào trong tỉnh; những người con quê hương Hà Giang đang sinh sống, học tập và làm việc trên mọi miền của Tổ quốc và ở nước ngoài; những người bạn trong nước và nước ngoài đang sinh sống, làm việc tại Hà Giang lời thăm hỏi ân cần, lời chúc mừng năm mới tốt đẹp nhất.Kính thưa đồng chí, đồng bào!
Năm 2016, tình hình chính trị trong khu vực và trên thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp; kinh tế trong nước và tỉnh Hà Giang còn nhiều khó khăn. Nhưng với truyền thống đoàn kết, chung sức, đồng lòng, quyết tâm vượt qua thách thức của Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh nhà, chúng ta đã hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương năm 2016 và đạt được một số thành tựu hết sức quan trọng, lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền ngày càng nâng cao; khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố vững chắc; chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng – an ninh được tăng cường; chủ quyền lãnh thổ, biên giới Quốc gia được giữ vững, công tác đối ngoại Đảng, chính quyền và ngoại giao nhân dân được mở rộng; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng và tăng trưởng khá; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực ngày càng được nâng cao; các tiềm năng, lợi thế của tỉnh đã được khai thác hợp lý, hiệu quả; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tăng 7,2%; thu nhập bình quân đầu người đạt 20,5 triệu đồng, tăng 6,8%; cải cách thủ tục hành chính và cải thiện môi trường đầu tư đã có những chuyển biến tích cực; kim ngạch xuất -nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu của tỉnh đạt 1,15 tỷ USD, tăng 5,7 lần và đạt mức cao nhất từ trước tới nay; chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ngày càng đi vào chiều sâu; đời sống văn hóa, tinh thần của người dân ngày càng được chăm lo cải thiện; công tác an sinh xã hội được đảm bảo và chính sách đền ơn đáp nghĩa được thực hiện tốt; chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo và Xây dựng Nông thôn mới được thực hiện hiệu quả, đã có thêm 5 xã đạt chuẩn Nông thôn mới và đưa tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 4,89%.
Thay mặt lãnh đạo Tỉnh uỷ, HĐND, UBND và UBMT Tổ quốc tỉnh Hà Giang, tôi xin trân trọng cảm ơn và ghi nhận những cố gắng của các cấp, các ngành trong tỉnh, của toàn dân, toàn quân và cộng đồng các doanh nghiệp tỉnh nhà trong năm vừa qua.Kính thưa đồng chí, đồng bào và toàn thể nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang!
Năm Đinh Dậu 2017, với mục tiêu thực hiện có hiệu quả “Hai khâu đột phá, năm chương trình trọng tâm” và phát triển vùng kinh tế động lực; trong đó, tập trung nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững; thực hiện quyết liệt công tác cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư; thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển gắn với hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, khởi nghiệp; xúc tiến, huy động mọi nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển kinh tế; quản lý, khai thác có hiệu quả các nguồn lực, lợi thế phát triển của tỉnh; thực hiện có hiệu quả Đề án tái cơ cấu kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy mạnh phát triển kinh tế biên mậu, du lịch và tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với Chương trình xây dựng Nông thôn mới. Phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh; mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập Quốc tế.
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2017, tôi kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tỉnh nhà kế thừa những thành tựu đã đạt được và tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất ý chí, sự quyết tâm vượt qua khó khăn, quyết liệt trong công tác chỉ đạo, hành động thực hiện nhiệm vụ ngay từ những ngày đầu năm mới để phấn đầu hoàn thành, hoàn thành vượt mức kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2017, góp phần chung sức xây dựng quê hương Hà Giang ngày càng giàu đẹp, văn minh; chất lượng cuộc sống của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Nhân dịp năm mới, thay mặt lãnh đạo Tỉnh uỷ, HĐND, UBND và UBMT Tổ quốc tỉnh Hà Giang, tôi xin kính chúc toàn thể các đồng chí, cán bộ, chiến sỹ các lực lượng vũ trang và nhân dân trong tỉnh; nhân dân Hà Giang đang sinh sống ở trong nước và nước ngoài một năm mới mạnh khỏe, hạnh phúc, an khang, thịnh vượng!
Chào thân ái và quyết thắng!
Cập nhật thông tin chi tiết về Trang Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Lạng Sơn trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!