Xu Hướng 6/2023 # Vài Suy Nghĩ Về Gia Đình Phật Tử # Top 13 View | Dtdecopark.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Vài Suy Nghĩ Về Gia Đình Phật Tử # Top 13 View

Bạn đang xem bài viết Vài Suy Nghĩ Về Gia Đình Phật Tử được cập nhật mới nhất trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Gia Đình Phật Tử Việt Nam được thoát thai từ Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục, do bác sĩ Lê Đình Thám sáng lập từ thập niên 40. Gia Đình Phật Tử không phải là một tổ chức hoàn toàn biệt lập với các tổ chức khác của Phật Giáo, mà là một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên nằm trong lòng Giáo hội. Mục đích Gia Đình Phật Tử là : Đào tạo Thanh, Thiếu, Đồng niên trở thành những Phật Tử chân chánh và góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật Giáo .

Để đạt được mục tiêu trên, GĐPT đề ra 3 châm ngôn, 5 điều luật ; coi đó là lý tưởng và hành động của người huynh trưởng và đoàn sinh Phật tử.

Gia Đình Phật Tử đào tạo thanh thiếu niên theo 3 châm ngôn và 5 điều luật như sau :  Ba châm ngôn là Bi-Trí-Dũng . Nghĩa là , lấy tình thương làm động lực (Bi), lấy trí tuệ làm ngọn đèn hướng dẫn (Trí), lấy dũng lực làm đà tiến thủ (Dũng). Năm điều luật : 1- Phật tử quy y Phật, Pháp, Tăng và giữ giới đã phát nguyện. 2- Phật tử mở rộng lòng thương tôn trọng sự sống. 3- Phật tử trau dồi trí huệ, tôn trọng sự thật. 4- Phật tử trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm. 5- Phật tử sống hỷ xả để dũng tiến trên đường Ðạo. Ngoài ra, biểu tượng (Logo) của Gia đình Phật tử là dấu hiệu tròn, hoa sen trắng, có tám cánh nằm trên nền màu xanh lá mạ, thường gọi là huy hiệu Hoa sen , huy hiệu ấy nói lên phẩm chất cao đẹp của người Phật tử. Như vậy, đoàn sinh GĐPT được giáo dục, sống noi gương theo các đức tính cao đẹp của chư Phật và các vị Bồ tát, và luôn tôn thờ, kính ngưỡng Ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng. Tuy nhiên, sự sinh hoạt của Gia Đình Phật tử hiện nay có những vấn đề chưa thỏa đáng trong mối quan hệ giữa GĐPT với Giáo Hội, GĐPT với vai trò người Trụ trì. Tính độc lập cao của GĐPT đã làm cho tổ chức này gặp nhiều sóng gió từ bên ngoài và cả bên trong tự thân của nó. Mặt khác, có những vị trụ trì  hoài nghi về tác dụng ích lợi cho sự phát triển chùa chiền mà họ kỳ vọng ở Gia đình Phật tử, họ đã từ chối nâng đở GĐPT. Đây là điểm làm suy yếu GĐPT. Số lượng trên 30.000 huynh trưởng và khoảng gần nửa triệu đoàn sinh chỉ là số lượng trên giấy, còn thực chất ra sao rất khó kiểm chứng.

Vai trò của Tăng già đối với GĐPT

Với mục đích và nội dung của tổ chức GĐPT như trên, ta có thể coi tổ chức GĐPT là một mô hình Đạo tràng tu học cho giới trẻ hoặc coi như một trong những pháp môn tu học cho thanh thiếu niên Phật giáo. Như vậy, vai trò của chư Tăng đối với tổ chức GĐPT rất quan trọng và mật thiết. Vai trò của Tăng gọi là Cố vấn giáo hạnh được đặt vào hệ thống tổ chức của GĐPT từ lâu. Tuy nhiên, chỉ với vai trò cố vấn giáo hạnh, chư Tăng khó có thể đóng góp tích cực vào sự phát triển của GĐPT hiện nay. Thầy Cố vấn giáo hạnh chỉ được thỉnh mời khi Đoàn có nhu cầu về mặt giảng dạy giáo lý, còn việc lãnh đạo, điều hành, quản lý…vị Thầy CVGH không có vai trò gì. Nếu vị Thầy CVGH là giáo phẩm Trụ trì, thì sự khủng hoảng về mối quan hệ song phương sẽ xãy ra. Coi tổ chức GĐPT như là một đạo tràng tu học của giới trẻ, nằm trong sự quản lý  và  hướng dẫn của vị Thầy Trụ trì, ( Hoặc vị Giảng sư…), và nằm trong chương trình tu học cũng như định hướng phát triển Phật pháp của Giáo hội, thì vai trò của Tăng già sẽ gắn bó tích cực hơn và giúp cho sự phát triễn của GĐPT mạnh hơn. Để có nhân sự Tu sĩ hướng dẫn cho tổ chức GĐPT, Giáo hội phải có chương trình đào tạo chuyên môn, xây dựng chương trình giảng dạy ở các Trường Cao đẳng Phật học hoặc Học viện Phật Giáo, qua đó đào tạo cán bộ Tu sĩ chuyên trách về giáo dục Thanh thiếu niên Phật tử nói chung, GĐPT nói riêng.

Vấn đề phát triển tổ chức GĐPT

Với hệ thống tổ chức khá chặt chẻ của GĐPT, với truyền thống sinh hoạt lâu năm và với cách thức sinh hoạt khá phù hợp với giới trẻ – GĐPT vẫn tồn tại, dù không có sự hướng dẫn của chư Tăng. Ở một số vùng nông thôn miền Trung VN, các đơn vị GDPT tự quản lý, tự điều hành và sinh hoạt bên cạnh tổ chức khuôn hội là đơn vị cơ sở của Phật giáo. Hình ảnh của vị Tăng không rõ nét lắm trong lòng đoàn sinh. Nhưng sức sống của Đoàn vẫn đứng vững nhờ có đội ngũ Huynh trưởng trung kiên và đầy thương yêu đàn em. Ở một số nơi khác, ở đô thị hay vùng nông thôn miền Nam thì không được như vậy – Những đơn vị có sự chăm sóc của chư Tăng thì phát triển mạnh hơn và có nhiều đơn vị tan rã vì không có sự chăm sóc thương yêu của chư Tăng. Với thế giới hiện đại, nhu cầu của giới trẻ thay đổi, môi trường văn hóa đa hệ, tốc độ cạnh tranh mọi mặt trong xã hội rất cao. Gia đình Phật tử dù ở vùng nào cũng đều đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng cho sự tồn vong của mình.Trong khi đó, lợi thế về đội ngũ huynh trưởng trung kiên và năng động ngày càng mất dần, chưa nói là đang bị “Già hóa”; lãnh đạo một đơn vị GĐPT  mà tuổi đã 60-70 thì khó mà phát triển. Đời sống nông thôn dần dần đô thị hóa, cảm thụ thẩm mỹ của thanh thiếu niên thay đổi nhanh chóng theo thời thế. Sự dịch chuyển về địa bàn kinh tế, sự thay đổi liên tục nơi ăn chốn ở làm loãng đi sự cô kết của đơn vị gia đình làm cho chương trình tu học dễ bị phá sản. Nếu không có sự chuyển mình kịp thời , cải cách chương trình tu học và sinh hoạt thì sự suy tàn của GĐPT là chắc chắn. Giống như một chiếc máy bay phản lực biểu diễn lao xuống sát đất rồi cất mình bay lên; với một độ thấp nhất định nó còn khoảng không gian để lên, nếu nó xuống quá đà thì không còn cơ hội để lên được nữa. Chư Tăng, những giáo phẩm lãnh đạo chùa chiền, cần phải nhận ra trách nhiệm của mình đối với giới trẻ, ở đây là Gia đình Phật tử. Hãy coi GĐPT là con em của mình, họ cần được thương yêu và giúp đở, phải xây dựng cho họ một môi trường “Đồng tu” và công nhận giá trị hoằng pháp mà GĐPT đã , đang và sẽ đóng góp. Việc đưa bàn tay ra nâng đở tổ chức GĐPT về mọi mặt: tài chánh, cơ sở sinh hoạt tu học, chương trình giảng dạy và định hướng lý tưởng giải thoát, lý tưởng phụng sự; GĐPT sẽ có thêm năng lượng để phát triển và vượt qua những khó khăn của thời đại. Có người cho rằng mình đưa bàn tay ra nhưng họ không cầm nắm tay mình, thậm chí họ không thèm ngó tới thì làm sao giúp! Tôi tin rằng, dù có một vài quan điểm dị biệt trong thái độ tiếp cận vấn đề tồn tại và phát triển GĐPT, nhưng nhìn lại vẫn còn nhiều con người có tâm huyết và thao thức về tương lai GĐPT một cách chân thành.

Xây dựng chương trình tu học cho GĐPT

Chương trình học ở trường của các em học sinh hiện nay rất nặng, nặng đến nổi mỗi học sinh mang theo sách vở để học, trọng lượng từ 04 kg trở lên (Theo Báo Tuổi trẻ). Điều đó có nghĩa là, vấn đề học tập đã làm cho các em căng thẳng lắm rồi, đến chùa sinh hoạt vào ngày chủ nhật, các em phải đối phó với một chương trình học nữa thì liệu có đạt được kết quả gì hay không? Môi trường GĐPT không phải là trường học mà là nơi “Vui chơi tu học”. Vui chơi là để thư giản, để giải tỏa năng lượng thừa của tuổi trẻ bằng những hoạt động lành mạnh và sự vui chơi năng động ấy làm bước đệm cho sự tu tâm sửa tánh. Tu học bao gồm giáo lý và phương pháp thực tập. Truyền đạt giáo lý cho các em không thể theo cách Thầy dạy trò mà theo cách Anh chia sẻ với Em, nghĩa là từ con tim đến con tim. Thông qua lý tưởng cao đẹp và cảm xúc tôn giáo, qua nhân cách của Phật và các bậc Thánh, những tấm gương hy sinh cao cả , vô ngã vị tha của quý Ngài sẽ là những ấn tượng đẹp khắc sâu vào tâm khảm của lứa tuổi đang định hình tính cách. Tuổi trẻ sẽ tự khắc họa đời mình cho phải đạo. Xây dựng chương trình thực tập thiền định như : thực tập thiền hành, thiền tọa, tăng cường khả năng chánh niệm tỉnh giác cho các em. Đây là xương sống của chương trình tu tập, cần được quan tâm sâu sắc của người huynh trưởng qua sự tu tập của chính bản thân mình. Thông qua sự thực tập – Tánh hạnh, ngôn ngữ của các em càng ngày càng chuẩn mực và tự giác cao hơn. Sự hướng dẫn của vị Thầy có kinh nghiệm sẽ là niềm cảm hứng lâu dài cho các em trên con đường tu tâm dưỡng tính của mình. Chúng ta thường tổ chức giao lưu giữa các đơn vị với nhau, hoặc tập hợp các đơn vị…qua các mô hình cắm trại với những nội dung và  ý nghĩa theo truyền thống hay phong trào . Thường thì chúng ta chú trọng đến hình thức phô diễn những thành quả của các đơn vị. Một là để nói lên giá trị thực chất của một Đơn vị GĐPT. Hai là để đáp ứng một phong trào hay một yêu cầu nào đó của cấp trên. Nói chung đều nặng về hình thức và danh tiếng, chứ chưa thực sự vì chất lượng tu học và hạnh phúc của đoàn sinh. Có những đơn vị, sau khi tập hợp tất cả mọi khả năng, mọi điều kiện để đáp ứng yêu cầu phô diễn, đã để lại một khoảng trống lớn trong một thời gian dài của đơn vị mình. Sử dụng nhân lực tài lực theo cách đó sẽ kiệt sức rất nhanh vì sức lực nội tại vốn chỉ đủ để cầm cự qua ngày. Đức Phật dạy, như vậy gọi là “không biết tri lượng ngưu lực”(không biết dưỡng sức của con Trâu cày). Tóm lại, một đơn vị Gia Đình Phật Tử mạnh là một đơn vị gắn bó với ngôi chùa, với chư Tăng, với các tổ chức tu học khác trong ngôi chùa. Được sự thương yêu, đùm bọc của chư Tăng và của các Đạo hữu Phật tử. GĐPT phải là một mô hình tổ chức tu học cho Thanh thiếu niên, tồn tại bên cạnh mô hình tu học của người lớn tuổi. Sự gắn bó ấy mang ý nghĩa hoằng dương Phật pháp và tứ chúng đồng tu, sức mạnh của GĐPT nằm trong sức mạnh chung của đơn vị cơ sở của Phật Giáo là ngôi chùa. Ngôi chùa là nơi cung ứng con người làm tăng trưởng số lượng đoàn sinh, là nơi cung cấp không gian sinh hoạt, tiền bạc để duy trì tổ chức, đồng thời là nơi cho các em đoàn sinh thực nghiệm chân lý và phụng sự đạo pháp. Mối quan hệ các cấp trên ( Quận, Huyện, Tỉnh, Thành, Trung ương )với các đơn vị GĐPT sẽ chỉ tốt đẹp khi mối quan hệ ấy đem lại sự đoàn kết, sự phát triển, sự khích lệ và sự hứng khởi cho đoàn sinh. Cao hơn nữa, cho sự phát triển tốt đẹp của ngôi chùa, nơi cưu mang Gia Đình Phật Tử. Nếu không đạt được mục tiêu ấy, mối quan hệ sẽ nặng nề và giả tạo mang tính đối phó với nhau mà thôi.

Gia Đình Phật Tử đào tạo thanh thiếu niên theo 3 châm ngôn và 5 điều luật như sau : Ba châm ngôn là Bi-Trí-Dũng . Nghĩa là , lấy tình thương làm động lực (Bi), lấy trí tuệ làm ngọn đèn hướng dẫn (Trí), lấy dũng lực làm đà tiến thủ (Dũng). Năm điều luật :1- Phật tử quy y Phật, Pháp, Tăng và giữ giới đã phát nguyện.2- Phật tử mở rộng lòng thương tôn trọng sự sống.3- Phật tử trau dồi trí huệ, tôn trọng sự thật.4- Phật tử trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm.5- Phật tử sống hỷ xả để dũng tiến trên đường Ðạo.Ngoài ra, biểu tượng (Logo) của Gia đình Phật tử là dấu hiệu tròn, hoa sen trắng, có tám cánh nằm trên nền màu xanh lá mạ, thường gọi là huy hiệu Hoa sen , huy hiệu ấy nói lên phẩm chất cao đẹp của người Phật tử.Như vậy, đoàn sinh GĐPT được giáo dục, sống noi gương theo các đức tính cao đẹp của chư Phật và các vị Bồ tát, và luôn tôn thờ, kính ngưỡng Ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng.Tuy nhiên, sự sinh hoạt của Gia Đình Phật tử hiện nay có những vấn đề chưa thỏa đáng trong mối quan hệ giữa GĐPT với Giáo Hội, GĐPT với vai trò người Trụ trì. Tính độc lập cao của GĐPT đã làm cho tổ chức này gặp nhiều sóng gió từ bên ngoài và cả bên trong tự thân của nó. Mặt khác, có những vị trụ trì hoài nghi về tác dụng ích lợi cho sự phát triển chùa chiền mà họ kỳ vọng ở Gia đình Phật tử, họ đã từ chối nâng đở GĐPT. Đây là điểm làm suy yếu GĐPT. Số lượng trên 30.000 huynh trưởng và khoảng gần nửa triệu đoàn sinh chỉ là số lượng trên giấy, còn thực chất ra sao rất khó kiểm chứng.Vai trò của Tăng già đối với GĐPTVới mục đích và nội dung của tổ chức GĐPT như trên, ta có thể coi tổ chức GĐPT là một mô hình Đạo tràng tu học cho giới trẻ hoặc coi như một trong những pháp môn tu học cho thanh thiếu niên Phật giáo. Như vậy, vai trò của chư Tăng đối với tổ chức GĐPT rất quan trọng và mật thiết. Vai trò của Tăng gọi là Cố vấn giáo hạnh được đặt vào hệ thống tổ chức của GĐPT từ lâu.Tuy nhiên, chỉ với vai trò cố vấn giáo hạnh, chư Tăng khó có thể đóng góp tích cực vào sự phát triển của GĐPT hiện nay. Thầy Cố vấn giáo hạnh chỉ được thỉnh mời khi Đoàn có nhu cầu về mặt giảng dạy giáo lý, còn việc lãnh đạo, điều hành, quản lý…vị Thầy CVGH không có vai trò gì. Nếu vị Thầy CVGH là giáo phẩm Trụ trì, thì sự khủng hoảng về mối quan hệ song phương sẽ xãy chúng tôi tổ chức GĐPT như là một đạo tràng tu học của giới trẻ, nằm trong sự quản lý và hướng dẫn của vị Thầy Trụ trì, ( Hoặc vị Giảng sư…), và nằm trong chương trình tu học cũng như định hướng phát triển Phật pháp của Giáo hội, thì vai trò của Tăng già sẽ gắn bó tích cực hơn và giúp cho sự phát triễn của GĐPT mạnh hơn.Để có nhân sự Tu sĩ hướng dẫn cho tổ chức GĐPT, Giáo hội phải có chương trình đào tạo chuyên môn, xây dựng chương trình giảng dạy ở các Trường Cao đẳng Phật học hoặc Học viện Phật Giáo, qua đó đào tạo cán bộ Tu sĩ chuyên trách về giáo dục Thanh thiếu niên Phật tử nói chung, GĐPT nói riêng.Vấn đề phát triển tổ chức GĐPTVới hệ thống tổ chức khá chặt chẻ của GĐPT, với truyền thống sinh hoạt lâu năm và với cách thức sinh hoạt khá phù hợp với giới trẻ – GĐPT vẫn tồn tại, dù không có sự hướng dẫn của chư Tăng. Ở một số vùng nông thôn miền Trung VN, các đơn vị GDPT tự quản lý, tự điều hành và sinh hoạt bên cạnh tổ chức khuôn hội là đơn vị cơ sở của Phật giáo. Hình ảnh của vị Tăng không rõ nét lắm trong lòng đoàn sinh. Nhưng sức sống của Đoàn vẫn đứng vững nhờ có đội ngũ Huynh trưởng trung kiên và đầy thương yêu đàn em. Ở một số nơi khác, ở đô thị hay vùng nông thôn miền Nam thì không được như vậy – Những đơn vị có sự chăm sóc của chư Tăng thì phát triển mạnh hơn và có nhiều đơn vị tan rã vì không có sự chăm sóc thương yêu của chư Tăng.Với thế giới hiện đại, nhu cầu của giới trẻ thay đổi, môi trường văn hóa đa hệ, tốc độ cạnh tranh mọi mặt trong xã hội rất cao. Gia đình Phật tử dù ở vùng nào cũng đều đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng cho sự tồn vong của mình.Trong khi đó, lợi thế về đội ngũ huynh trưởng trung kiên và năng động ngày càng mất dần, chưa nói là đang bị “Già hóa”; lãnh đạo một đơn vị GĐPT mà tuổi đã 60-70 thì khó mà phát triển. Đời sống nông thôn dần dần đô thị hóa, cảm thụ thẩm mỹ của thanh thiếu niên thay đổi nhanh chóng theo thời thế. Sự dịch chuyển về địa bàn kinh tế, sự thay đổi liên tục nơi ăn chốn ở làm loãng đi sự cô kết của đơn vị gia đình làm cho chương trình tu học dễ bị phá sản. Nếu không có sự chuyển mình kịp thời , cải cách chương trình tu học và sinh hoạt thì sự suy tàn của GĐPT là chắc chắn. Giống như một chiếc máy bay phản lực biểu diễn lao xuống sát đất rồi cất mình bay lên; với một độ thấp nhất định nó còn khoảng không gian để lên, nếu nó xuống quá đà thì không còn cơ hội để lên được nữa.Chư Tăng, những giáo phẩm lãnh đạo chùa chiền, cần phải nhận ra trách nhiệm của mình đối với giới trẻ, ở đây là Gia đình Phật tử. Hãy coi GĐPT là con em của mình, họ cần được thương yêu và giúp đở, phải xây dựng cho họ một môi trường “Đồng tu” và công nhận giá trị hoằng pháp mà GĐPT đã , đang và sẽ đóng góp. Việc đưa bàn tay ra nâng đở tổ chức GĐPT về mọi mặt: tài chánh, cơ sở sinh hoạt tu học, chương trình giảng dạy và định hướng lý tưởng giải thoát, lý tưởng phụng sự; GĐPT sẽ có thêm năng lượng để phát triển và vượt qua những khó khăn của thời đại. Có người cho rằng mình đưa bàn tay ra nhưng họ không cầm nắm tay mình, thậm chí họ không thèm ngó tới thì làm sao giúp! Tôi tin rằng, dù có một vài quan điểm dị biệt trong thái độ tiếp cận vấn đề tồn tại và phát triển GĐPT, nhưng nhìn lại vẫn còn nhiều con người có tâm huyết và thao thức về tương lai GĐPT một cách chân thành.Xây dựng chương trình tu học cho GĐPTChương trình học ở trường của các em học sinh hiện nay rất nặng, nặng đến nổi mỗi học sinh mang theo sách vở để học, trọng lượng từ 04 kg trở lên (Theo Báo Tuổi trẻ). Điều đó có nghĩa là, vấn đề học tập đã làm cho các em căng thẳng lắm rồi, đến chùa sinh hoạt vào ngày chủ nhật, các em phải đối phó với một chương trình học nữa thì liệu có đạt được kết quả gì hay không? Môi trường GĐPT không phải là trường học mà là nơi “Vui chơi tu học”. Vui chơi là để thư giản, để giải tỏa năng lượng thừa của tuổi trẻ bằng những hoạt động lành mạnh và sự vui chơi năng động ấy làm bước đệm cho sự tu tâm sửa tánh. Tu học bao gồm giáo lý và phương pháp thực tập. Truyền đạt giáo lý cho các em không thể theo cách Thầy dạy trò mà theo cách Anh chia sẻ với Em, nghĩa là từ con tim đến con tim. Thông qua lý tưởng cao đẹp và cảm xúc tôn giáo, qua nhân cách của Phật và các bậc Thánh, những tấm gương hy sinh cao cả , vô ngã vị tha của quý Ngài sẽ là những ấn tượng đẹp khắc sâu vào tâm khảm của lứa tuổi đang định hình tính cách. Tuổi trẻ sẽ tự khắc họa đời mình cho phải đạo.Xây dựng chương trình thực tập thiền định như : thực tập thiền hành, thiền tọa, tăng cường khả năng chánh niệm tỉnh giác cho các em. Đây là xương sống của chương trình tu tập, cần được quan tâm sâu sắc của người huynh trưởng qua sự tu tập của chính bản thân mình. Thông qua sự thực tập – Tánh hạnh, ngôn ngữ của các em càng ngày càng chuẩn mực và tự giác cao hơn. Sự hướng dẫn của vị Thầy có kinh nghiệm sẽ là niềm cảm hứng lâu dài cho các em trên con đường tu tâm dưỡng tính của mình.Chúng ta thường tổ chức giao lưu giữa các đơn vị với nhau, hoặc tập hợp các đơn vị…qua các mô hình cắm trại với những nội dung và ý nghĩa theo truyền thống hay phong trào . Thường thì chúng ta chú trọng đến hình thức phô diễn những thành quả của các đơn vị. Một là để nói lên giá trị thực chất của một Đơn vị GĐPT. Hai là để đáp ứng một phong trào hay một yêu cầu nào đó của cấp trên. Nói chung đều nặng về hình thức và danh tiếng, chứ chưa thực sự vì chất lượng tu học và hạnh phúc của đoàn sinh. Có những đơn vị, sau khi tập hợp tất cả mọi khả năng, mọi điều kiện để đáp ứng yêu cầu phô diễn, đã để lại một khoảng trống lớn trong một thời gian dài của đơn vị mình. Sử dụng nhân lực tài lực theo cách đó sẽ kiệt sức rất nhanh vì sức lực nội tại vốn chỉ đủ để cầm cự qua ngày. Đức Phật dạy, như vậy gọi là “không biết tri lượng ngưu lực”(không biết dưỡng sức của con Trâu cày).Tóm lại, một đơn vị Gia Đình Phật Tử mạnh là một đơn vị gắn bó với ngôi chùa, với chư Tăng, với các tổ chức tu học khác trong ngôi chùa. Được sự thương yêu, đùm bọc của chư Tăng và của các Đạo hữu Phật tử. GĐPT phải là một mô hình tổ chức tu học cho Thanh thiếu niên, tồn tại bên cạnh mô hình tu học của người lớn tuổi. Sự gắn bó ấy mang ý nghĩa hoằng dương Phật pháp và tứ chúng đồng tu, sức mạnh của GĐPT nằm trong sức mạnh chung của đơn vị cơ sở của Phật Giáo là ngôi chùa. Ngôi chùa là nơi cung ứng con người làm tăng trưởng số lượng đoàn sinh, là nơi cung cấp không gian sinh hoạt, tiền bạc để duy trì tổ chức, đồng thời là nơi cho các em đoàn sinh thực nghiệm chân lý và phụng sự đạo pháp.Mối quan hệ các cấp trên ( Quận, Huyện, Tỉnh, Thành, Trung ương )với các đơn vị GĐPT sẽ chỉ tốt đẹp khi mối quan hệ ấy đem lại sự đoàn kết, sự phát triển, sự khích lệ và sự hứng khởi cho đoàn sinh. Cao hơn nữa, cho sự phát triển tốt đẹp của ngôi chùa, nơi cưu mang Gia Đình Phật Tử. Nếu không đạt được mục tiêu ấy, mối quan hệ sẽ nặng nề và giả tạo mang tính đối phó với nhau mà thôi.

Đạo Phật Việt nam đang chuyển mình để hòa nhập vào cộng đồng con Phật trên toàn thế giới với sứ mệnh đóng góp sức mình vào đời sống an bình cho nhân loại. Giáo hội Phật Giáo Việt nam cần khai thác điều kiện thuận lợi và tiềm năng của mình hiện có để lèo lái con thuyền Đạo pháp ra biển cả thời đại. Tôi nghĩ rằng, Gia Đình Phật Tử là một trong những tiềm năng ấy.

Thích Viên Giác

Châm Ngôn Gia Đình Phật Tử

Châm ngôn của Gia Đình Phật Tử là : BI – TRÍ – DŨNG

Giải thích :

-Bi, nói đủ là Từ Bi, nghĩa là tình thương rộng lớn đối với muôn loài. Người đoàn viên GĐPT phải tu tập hạnh Từ Bi để ban vui cứu khổ cho người và vật, góp phần xây dựng một thế giới hòa bình, không chiến tranh hay khủng bố. -Trí, nói đủ là trí tuệ hay trí huệ, nghĩa là sự hiểu biết chân chính, hiểu biết đúng với chân lý của mọi sự việc, sự vật. Sự hiều biết chân chính chỉ có trong lời dạy của Đức Phật. Đoàn viên GĐPT cần tu tập hạnh Trí Tuệ để luôn hành động chân chính, góp phần đưa xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ. -Dũng là luôn siêng năng, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn trở ngại trong cuộc sống để vươn tới một một đời sống cao thượng. Đoàn viên GĐPT thường xuyên đấu tranh với những thói hư tật xấu của bản thân, đấu tranh với mọi cám dỗ của các thú vui sa đọa để trở thành một nhân cách hoàn thiện.

-Châm ngôn là một cụm từ ngắn gọn nhằm định hướng về đạo đức, nhân cách và lối sống của người đoàn viên trong tổ chức Gia Đình Phật Tử.-Bi, nói đủ là Từ Bi, nghĩa là tình thương rộng lớn đối với muôn loài. Người đoàn viên GĐPT phải tu tập hạnh Từ Bi để ban vui cứu khổ cho người và vật, góp phần xây dựng một thế giới hòa bình, không chiến tranh hay khủng bố.-Trí, nói đủ là trí tuệ hay trí huệ, nghĩa là sự hiểu biết chân chính, hiểu biết đúng với chân lý của mọi sự việc, sự vật. Sự hiều biết chân chính chỉ có trong lời dạy của Đức Phật. Đoàn viên GĐPT cần tu tập hạnh Trí Tuệ để luôn hành động chân chính, góp phần đưa xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ.-Dũng là luôn siêng năng, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn trở ngại trong cuộc sống để vươn tới một một đời sống cao thượng. Đoàn viên GĐPT thường xuyên đấu tranh với những thói hư tật xấu của bản thân, đấu tranh với mọi cám dỗ của các thú vui sa đọa để trở thành một nhân cách hoàn thiện.

 

;

Suy Ngẫm Lời Phật Dạy Về Đạo Đức Gia Đình

Điểm qua tình hình của đời sống xã hội hiện nay, ngoài những việc chúng ta làm được, cũng không ít những điều đáng đau buồn. Ta thấy nhan nhản những tệ nạn xã hội được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Từ việc phát ngôn vô văn hóa, đến những hành vi trộm cướp, những vụ tai tiếng… chung quy là băng hoại lối sống và đạo đức. Khảo cứu những hiện tượng mất đạo đức trong xã hội, dù gián tiếp hay trực tiếp, người ta thấy có mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội, xem chừng chúng có mầm mống từ gia đình mà ra. Do vậy, phải bắt đầu nghiên cứu từ gia đình.

– 10 lời phật dạy hay về tình yêu đôi lứa

– Phật dạy về nhân quả

Gia đình đóng vai trò là tế bào của xã hội, nhưng bản thân nó lại giống như một xã hội thu nhỏ. Do vậy, quan hệ đạo đức trong gia đình là cái khởi đầu cho quan hệ đạo đức trong xã hội. Trong kinh Thi Ca La Vệ (Sìgalovàda sùttra), Phật dạy bổn phận làm chồng có 5 điều đối với vợ và làm vợ cũng có 5 điều đối với chồng; bổn phận làm cha mẹ có 5 điều với con cái và con cái cũng có 5 điều với cha mẹ. Chẳng hạn:

“Vợ thờ chồng có năm việc:

– Một là chồng đi đâu về phải đứng dậy nghênh tiếp;

– Hai là khi chồng đi khỏi phải lo mọi việc nấu nướng, quét dọn chờ chồng về;

– Ba là không được có lòng dâm dục với người khác, chồng có trách mắng cũng không được có thái độ trách mắng lại;

– Bốn là hãy làm theo lời chồng răn dạy, có nhặt được vật gì cũng không được che giấu;

– Năm là khi chồng ngủ nghỉ, phải lo sắp xếp xong rồi mới ngủ.

Chồng đối với vợ cũng có năm điều:

– Một là đi đâu phải cho vợ biết;

– Hai là việc ăn uống đúng giờ, cung cấp áo quần cho vợ;

– Ba là phải cung cấp vàng bạc châu báu;

– Bốn là những vật ở trong nhà nhiều ít đều phải giao phó cho vợ;

– Năm là không được ngoại tình, bằng cách nuôi dưỡng, hầu hạ, chuyển tài sản”.

Đây là mối quan hệ hai chiều sòng phẳng, nó khác hẳn với tư tưởng quan hệ một phía: Quân, Thần, Phụ, Tử và coi khinh phụ nữ (không có Mẫu) của Nho giáo. Ngẫm ra, người ta chỉ cần thực hiện đúng những lời dạy của Phật, thì thiết nghĩ gia đình trong thiên hạ hạnh phúc hơn rất nhiều.

Trong gia đình, quan hệ vợ chồng là điểm xuất phát, làm cơ sở cho các mối quan hệ khác, vì thế nó rất quan trọng. Thực tế không ít trường hợp gia đình hạnh phúc, hoặc bất hạnh và điều đó để lại di chứng cho thế hệ sau cũng xuất phát từ mối quan hệ này.

Ngay những đứa trẻ sinh ra trong một gia đình bất hạnh thì những thiệt thòi của chúng đã ghi vào tâm khảm – những thiệt thòi ấy, những mặc cảm ấy thường có khi cả đời chúng cũng không thể xóa được và cũng không có gì để bù đắp được!

Tác giả đã từng đi tìm hiểu về số phận của những con người hư hỏng… thì thấy rằng, phần lớn đều xuất phát từ những gia đình bất hạnh. Mọi người cũng biết rằng, tình yêu là mơ mộng, nhưng hôn nhân là trách nhiệm và đây thực sự là việc chiến lược của một đời người… Với tầm quan trọng như vậy, nên Phật có dạy về 4 loại sống chung:

“Đê tiện nam sống chung với đê tiện nữ. Đê tiện nam sống chung với Thiên nữ. Thiên nam sống chung với đê tiện nữ. Thiên nam sống chung với Thiên nữ” (Kinh Tăng chi I)

Khi đưa ra 4 loại sống chung, Phật giảng cả một đoạn dài về vấn đề này, chủ yếu Ngài lấy Ngũ giới để làm tiêu chí cho chúng. Cuối cùng Ngài khẳng định một cuộc sống lý tưởng (Thiên nam sống chung với Thiên nữ) là cả hai người đều phải có đạo đức tốt và sống lương thiện.

Một điều đặt ra là, không phải ngay từ đầu người ta đã có phẩm chất của một Thiên nam hay Thiên nữ, mà cái này phải tu luyện, nhiều khi phải tu luyện gian khổ để trở thành lối sống và nếp sống. Như vậy, ngay trong một gia đình, tất cả mọi người chí ít cũng phải lấy Ngũ giới là tiêu chí để giữ mình. Chỉ đơn cử, không ít những trường hợp vì say rượu sinh ra những hậu quả không lường trước được như cha giết con, chồng hại vợ…, anh em chia lìa, kiện cáo lẫn nhau để rồi gia đình tan nát.Phổ quát hơn, con người nói riêng (không phải là chúng sinh nói chung), phải biết chế ngự và đi đến từ bỏ tập khí sinh tử. Đó là tham, sân, si, nó bắt nguồn từ ái dục, cho nên ái dục là nguồn gốc của mọi đau khổ. Khái quát thì tất cả những hiện tượng gây rắc rối cho xã hội hiện nay, suy cho cùng nó từ cái tâm hữu ngã mà ra.

Từ quan hệ vợ chồng, chúng ta có thể mở rộng đến quan hệ ông bà và cháu chắt, đồng thời nếu giữ được các giới đó thì rõ ràng, ít ra cũng có thể gọi là một gia đình hạnh phúc. Tuy chưa có điều kiện thống kê, nhưng cũng phải thừa nhận rằng, những gia đình có đạo (bất kể là đạo nào), thường có nếp sống đạo đức, văn hóa tốt hơn, đồng thời những vụ ly hôn, đổ vỡ… (nếu có) cũng ít hơn gấp nhiều lần so với những gia đình không có đạo. Đây là một điều cũng đáng để chúng ta suy ngẫm, phải chăng Trần Tế Xương đã hơn một lần nhận xét: “nhà kia lỗi đạo…”.

Một điều thực tế cho thấy, hiện nay các gia đình Phật tử, ít nhiều người ta đã thực hiện có hiệu quả và thiết thực những điều Phật dạy về hạnh phúc gia đình.

Lời Phật Dạy Khi Suy Nghĩ Về Kiếp Người

Cùng tìm hiểu về cũng như suy nghĩ của Đức Phật về kiếp người!

Khi Đức Phật dạy rằng con người sanh, già, bệnh, chết là khổ thì gần như ai cũng nhàm chán sống, tức sống để chịu khổ rồi chết. Từ đó, người theo Phật tu hành, xuất gia, bỏ nhà cửa, sự nghiệp và quyến thuộc để sống phạm hạnh. Như vậy, người xuất gia hầu như đã cắt bỏ hết cuộc sống bình thường, nhưng còn thân này thì họ còn phải ăn uống ngủ nghỉ. Tuy nhiên, người tu cắt bớt việc ăn uống ngủ nghỉ để không bị lệ thuộc bốn thứ này thì được giải thoát. Đó là pháp đầu tiên mà Phật dạy cho con người. Thật vậy, trong kinh Pháp hoa, Đức Phật nói rằng Ta vì những người nhàm chán sanh, già, bệnh, chết mới nói pháp Niết-bàn và chỉ dạy con đường đưa đến Niết-bàn là pháp đầu tiên gọi là Tứ Thánh đế, tức bốn chân lý không thay đổi.

Từ bốn chân lý này mở ra cho chúng ta cuộc sống có ý nghĩa là Đức Phật vẽ ra hai con đường sống là cuộc sống khổ đau và cuộc sống an lạc, hay kiếp người khổ đau và kiếp người an lạc. Nếu chọn con đường đi lên là thiên đường hay Niết-bàn, chọn con đường đi xuống là địa ngục. Và Đức Phật dạy rằng kiếp sống khổ hay vui cũng do ta tạo nên, đó là tư tưởng mới nảy sanh trái ngược với tư tưởng cổ của Ấn Độ thời bấy giờ chủ trương con người khổ hay vui đều do Thượng đế quyết định, Thượng đế ban vui, hay hành hạ con người khổ là toàn quyền của ngài. Nhưng Đức Phật dạy rằng con người quyết định vận mạng của mình, Ngài phủ nhận quyền sinh sát của Thượng đế và dạy rằng chúng ta không nên giao vận mạng của mình cho người mà mình không biết gọi là Thượng đế.

Đức Phật hỏi người Bà-la-môn rằng ông có biết hay thấy Thượng đế hay không. Ông ta trả lời không thấy cũng không biết Thượng đế. Phật hỏi như vậy tại sao ông tin Thượng đế. Ông nói tại vì cha của con, ông của con, tổ tiên của con nói có Thượng đế. Bấy giờ Phật dạy rằng đừng tin những gì được nhiều người trước ta tin. Muốn tin phải kiểm chứng, coi điều ta tin có hợp lý hay không, nếu không hợp lý, ta không tin. Nếu thấy hợp lý rồi còn phải kiểm chứng trong cuộc sống và thấy kết quả không đúng cũng gạt bỏ. Không phải nghe rồi tin, không phải người xưa dạy rồi ta theo.

Trên bước đường giáo hóa độ sanh, có lần Phật gặp người theo ngoại đạo nói rằng cha của ông dạy mỗi sáng phải lạy sáu phương, nên ông theo truyền thống này mà lạy. Phật mới bảo rằng không nên tin theo truyền thống, nhưng làm phải suy nghĩ truyền thống này có từ bao giờ và có lợi ích nào. Vì vậy, khi lễ bái sáu phương, lạy phương Đông phải nghĩ gì, lạy phương Tây nghĩ thế nào. Phật nói rằng những gì người xưa để lại, chúng ta phải kiểm chứng và ngay như lời Phật dạy, cũng phải kiểm chứng trong cuộc sống của chúng ta để ứng dụng cho đúng.

Phật dạy rằng tất cả mọi người sống trên cuộc đời chỉ có một chữ là “Khổ”, không ai thoát được khổ, người giàu hay nghèo, già hay trẻ đều khổ, nói chung, suốt cuộc đời người là khổ. Nếu kiếp con người là khổ thì thử hỏi ai làm chúng ta khổ và ai giải quyết được nỗi khổ này. Nếu Thượng đế làm chúng ta khổ thì hãy tìm Thượng đế để ngài giải quyết. Nhưng theo Phật dạy chính ta làm khổ ta, như vậy ta phải tự tháo gỡ cái khổ cho mình.

Phật nói tất cả mọi người đều sợ khổ, nhưng họ luôn tạo nhân khổ; trong kiếp người, ai cũng muốn an lạc nhưng không bao giờ tạo nhân an lạc. Vì vậy, theo Phật, nếu tạo nhân an lạc, dù không muốn an lạc, ta cũng được an lạc; nhưng tạo nhân khổ thì chắc chắn khổ cũng đến với ta, không thể thoát. Trên bước đường tu hành, ý thức như vậy là nhận diện được cái lý của khổ để cắt bỏ lần lần cho đến đoạn tuyệt nỗi khổ. Đầu tiên, nhận ra cái khổ và nguyên nhân của khổ, nhưng đó chỉ mới là giới hạn nỗi khổ niềm đau từ sanh đến chết trong kiếp người hiện tại. Còn nguyên nhân xa là trước khi sanh, chúng ta đã tạo nhân gì ở kiếp quá khứ và do nguyên nhân nào mà tái sanh làm người trên cuộc đời này. Ở đây, chúng ta mới tìm cái nhân hiện tại và đoạn cái nhân hiện tại này là Tập đế và tu Đạo đế.

Con người không khổ, nhưng tự mình làm mình khổ. Nói như vậy đôi khi Phật tử thấy lạ, nhưng suy nghĩ kỹ sẽ nhận ra lời Phật dạy là đúng. Đức Phật dạy rằng nỗi khổ của con người phát xuất từ sự ham muốn, vì ham muốn không được nên khổ gọi là cầu bất đắc khổ. Vì vậy, Phật bảo chỉ cắt bỏ ham muốn, chúng ta sẽ hết khổ liền. Ham muốn cái gì? Tất cả mọi người trên cuộc đời này thường ham muốn tiền tài, địa vị, danh vọng là ba điều ham muốn căn bản nhất. Người có ham muốn như vậy thì dù địa vị cao tới đâu, hay tiền bạc có nhiều bao nhiêu cũng khổ. Cứ như vậy mà nỗi khổ tăng lên, không giảm được. Nếu cắt được ham muốn phần nào sẽ hết khổ phần đó. Như vậy, thấy cái quả thì sẽ biết được cái nhân gì mà mình đã làm. Thấy Phật được người cung kính, thử nghĩ xem Phật đã làm gì để được như vậy. Đức Phật cho biết Ngài đã trải qua vô số kiếp thực hiện những việc làm của Thánh La-hán, của Bích chi Phật, của Bồ-tát. Hoặc thấy người người kính trọng Bồ-tát Quan Âm, ta cũng muốn được như vậy. Phật dạy rằng tất yếu phải làm như Quan Âm mới được kính trọng, nếu không có việc làm nào giống ngài mà muốn hưởng quả tốt đẹp như ngài chỉ là nấu cát muốn thành cơm.

Trong kiếp quá khứ xa xưa, khi chưa gặp Phật, Quan Âm cũng phạm sai lầm là muốn người kính trọng và nghe lời. Được người kính trọng và nghe lời, điều này ai cũng muốn. Thí dụ làm thầy thì muốn học trò nghe lời, làm cha mẹ luôn muốn con cái vâng lời. Trước khi được Phật khai thị, Quan Âm có ham muốn quá lớn, muốn người theo ông làm đủ mọi việc, nên luôn thúc giục họ; nhưng họ không làm được thì ông đánh mắng và đuổi đi. Và xua đuổi người xung quanh đi hết, không còn ai, bấy giờ Quan Âm khổ cùng cực, mới thấy Phật. Chúng ta cũng vậy, khi nào sung sướng, chúng ta lo hưởng thụ, đến lúc rơi vào hoàn cảnh khổ, đọa địa ngục, chúng ta mới nghĩ đến Phật. Nói đến đây, tôi nhớ lại bốn mươi năm trước, có các sinh viên sợ bị đi quân dịch mới nhờ tôi lo cho họ sang Nhật học. Vì vậy, lúc đó, tôi bảo làm gì, họ đều nghe theo. Tôi bảo tụng kinh Pháp hoa, ăn chay, đi chùa thì họ nghe theo răm rắp. Sau đó họ hỏi con làm như vậy rồi, chừng nào được đi Nhật. Tôi bảo phải hết lòng tụng kinh, Phật sẽ độ. Các anh này ráng tụng kinh, lạy Phật nữa. Tôi mới nói với Hòa thượng Yoshimizu rằng các sinh viên sợ đi lính, nếu Hòa thượng bảo lãnh họ sang Nhật học, họ không bị đi lính là cứu được một người thoát chết. Ông mới bảo lãnh họ sang Nhật. Các sinh viên hết lòng tụng kinh, được qua Nhật, tháng đầu họ còn đi chùa, nhưng đến tháng thứ hai, không đi chùa nữa viện cớ là bận. Có thể thấy rõ trước cái chết, cái khổ, niềm tin chúng ta dễ sanh ra, nhưng cuộc sống hơi vui là quên Phật ngay. Những người không khổ mà đi chùa phải biết đó là người có căn lành.

Phật dạy khi đọa địa ngục, phải phát tâm Bồ-đề để thoát khổ và khi ra khỏi địa ngục, phải nhớ đến nỗi khổ ở địa ngục mà tu hành để không rơi vào cảnh khổ đó nữa và khi được sống trong cảnh sung sướng cũng phải khéo tu, nếu không sẽ bị khổ. Nhìn kỹ cuộc đời thấy bức tranh này có đủ, Trí Giả đại sư gọi là thập giới hỗ cụ. Nghĩa là mở mắt huệ mới thấy được trong một con người hay trong xã hội có đủ thành phần là ma quỷ, hay Phật, Bồ-tát, chư Thiên. Nhìn kỹ thấy quỷ làm việc của quỷ, ma làm việc của ma, Bồ-tát làm việc của Bồ-tát. Thực tế cho thấy có người hiện hữu trên cuộc đời chỉ nghĩ việc duy nhất là hại người, nhưng có người chỉ nghĩ đến việc giúp đỡ người khác, cứu các loài khác. Nhìn vào bức tranh xã hội thấy tất cả người nghèo hay giàu, già hay trẻ đều khổ và ngược lại, thấy có người nghèo nhưng hạn chế được lòng tham, họ vẫn sống an lạc.

Người sống tri túc theo Phật, tức sống với phước của mình, với cái mình có, làm sao khổ. Một ngày không sử dụng quá năm mươi phần trăm số tiền mình kiếm được, sẽ không khổ. Riêng tôi, trong thời sinh viên, tôi nghèo nhất, nhưng không khổ, vì không tiêu xài quá số tiền tôi có là 50 USD một tháng. Không xài hết tiền, còn để dành giúp được người thì tôi có thêm một số người thương tôi. Chúng ta có tiền giúp người thoát khỏi cuộc sống khó khăn, họ sẽ nhớ ơn là chúng ta có bạn tốt, hay việc làm của Bồ-tát.

Đức Phật dạy Quan Âm nhận ra ý này, khi bạn bè, con cháu bỏ đi, ông không làm được gì mới nghĩ đến Phật. Bấy giờ Phật xuất hiện trước Quan Âm. Phật nói vì sai lầm, ông khổ, nay nhận ra sai lầm có thể sửa đổi kiếp người đau khổ thành kiếp người an lạc. Phật dạy Quan Âm, nhưng tôi nghĩ rằng Phật dạy tôi, nên tôi tự hạn chế ham muốn của mình. Hạn chế tối đa ham muốn, chúng ta sẽ được an lạc tối đa. Nâng ham muốn tối đa sẽ khổ tối đa.

Tuân theo lời Phật dạy, hạn chế ham muốn tối đa, sống tri túc là sống vừa đủ thì ta còn thặng dư mới giúp đỡ cho người cần. Giúp một người, chúng ta có thêm một người bạn, nghĩa là chúng ta có thêm hai cánh tay và hai con mắt để thấy được việc xung quanh. Trước đó, chúng ta không thấy, nhưng nay nhờ có thêm hai con mắt, nghĩa là nhờ bạn thấy, họ nói cho chúng ta biết. Điển hình cho ý này là vào năm 1963, khi Phật giáo tranh đấu chống Chính phủ Diệm, ông có kế hoạch Nước lũ, ra lệnh cắm trại và tấn công tất cả các chùa vào 12 giờ đêm. Lúc ấy, có người ở trong Tổng thống phủ nghe được tin này liền trốn ra ngoài và đến chùa Ấn Quang để báo cho Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo biết. Theo tôi, Phật giáo tranh đấu thành công năm 1963, một phần là nhờ được nhiều người thương, nhiều người hợp tác; vì ông Diệm muốn làm gì, Phật giáo đều biết trước là do các Phật tử làm việc trong Chính phủ báo cho biết.

Ở Ta-bà này, Bồ-tát Quan Âm làm được tất cả mọi việc công đức. Trước nhất, ngài có danh hiệu là Phật Viên Thông Thánh Tự Tại, nói đủ là nhĩ căn viên thông, tức ngài nghe được tiếng nói của chư Phật và nghe được những nỗi oan ức của chúng sanh, nên nói Quan Âm có hạnh lắng nghe, từ đó Quan Âm sử dụng lời Phật dạy để xóa bỏ nỗi khổ đau của chúng sanh. Ngày nay, nếu chúng ta làm theo Quan Âm, chúng ta cũng sẽ trở thành Quan Âm. Muốn vậy, chúng ta phải nghe được Phật âm và nghe chúng sanh, nghĩa là lấy an lạc xóa trừ khổ đau và áp dụng pháp an lạc, chắc chắn cuộc sống của ta sẽ được an lạc.

Điển hình ý này, Đức Phật giới thiệu thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà có điều đặc biệt là tập hợp những người trí thức và đạo đức. Chỗ nào có người trí thức thì chỗ đó sỏi đá cũng thành cơm, vì trí tuệ đóng vai trò rất quan trọng. Thật vậy, ngày nay nếu có kỹ sư hầm mỏ phát hiện được trong lòng đất có mỏ vàng, mỏ đồng, mỏ sắt, mỏ dầu, mỏ than, v.v… Và khai thác được quặng mỏ này dễ dàng làm giàu cho đất nước. Khi Phật Di Đà về phương Tây lập nghiệp, ở mảnh đất mới này không có gì. Chúng ta tạm hình dung ra nước Mỹ ba trăm năm trước không là gì, nhưng ngày nay có rất nhiều người trí thức, tài năng làm việc, nên nước này trở thành cường quốc. Phật dạy chúng ta, nhưng nghiệm lại trong cuộc sống sẽ thấy rõ chỗ có người trí thức thì phát triển nhanh, người trí thức bỏ đi thì giàu trở thành nghèo.

Phật Di Đà xưa kia đến phương Tây hoang dã, Ngài tập hợp những người trí thức về đó. Ngài cho làm đường và trồng cây. Ngày nay chúng ta mới nhận ra cây xanh quan trọng cho sự trong lành của môi trường sống của con người. Ở thế giới Cực lạc có bảy hàng cây báu, bảy hàng lưới giăng, ngày nay gọi là hệ thống ra-đa phát ra âm thanh khiến cho người nghe phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Có thể nói Đức Phật Di Đà là một kiến trúc sư vĩ đại và chư vị Bồ-tát là những kỹ sư tài giỏi hợp tác với Ngài, tạo thành thế giới Cực lạc.

Ngoài ra, Đức Phật Di Đà cho đào ao thất bảo và rải vào đó vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, trân châu… Chúng ta có cảm giác rằng Phật thiết kế ao thất bảo như một hồ tắm hiện đại, nước dơ được rút ra và đưa nước bát công đức vào khiến cho người tắm cảm thấy mát mẻ thư thái, không còn phiền não. Đặc biệt là ở trong ao đó, muốn nước tới bụng hay tới cổ thì liền được như vậy. Thoạt nghe điều này có vẻ trừu tượng, nhưng ngày nay trên thực tế, nếu ta xuống ao tắm cũng thấy như vậy, tức phía trên nước cạn và đi tiếp xuống nữa thì ao sẽ sâu hơn, nước sẽ dâng lên đến cổ hay qua khỏi đầu mình. Thiết nghĩ từ hàng ngàn năm trước, Đức Phật đã thiết kế cảnh giới trong lành có ao tắm hoàn toàn sạch sẽ với hệ thống nước lọc các tạp chất, mà ngày nay con người văn minh mới áp dụng được. Nghiên cứu thấy nghĩa sâu của kinh theo đó thế giới Cực lạc hoàn toàn an vui, vì đã được Đức Phật Di Đà kết hợp toàn những người trí thức và đạo đức.

Bồ-tát Quan Âm ở Ta-bà, vào địa phủ để cứu vớt chúng sanh, ngài không vãng sanh về Tịnh độ, nhưng Đức Phật Di Đà nói rằng Ngài sẽ giao Cực lạc cho Quan Âm làm Giáo chủ.

Tóm lại, bước theo dấu chân Phật, nếu cắt bỏ lòng tham và điều chỉnh cho đến hoàn thiện suy nghĩ, lời nói, việc làm của ta theo Phật, Bồ-tát, chắc chắn chúng ta sẽ có Niết-bàn, Cực lạc ngay trong cuộc sống này.

Cập nhật thông tin chi tiết về Vài Suy Nghĩ Về Gia Đình Phật Tử trên website Dtdecopark.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!